Sử Thượng Đệ Nhất Phật Tu

Quyển 1 - Chương 65

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.Hư Nhâm đang nghiên cứu Phật pháp trong động phủ của mình, bỗng nhận được tin cầu cứu của huynh trưởng.

Lạ thật, với bản lĩnh nhiều năm của huynh trưởng, sao lại phải cầu cứu chứ?

Chắc là đùa thôi.

Hư Nhâm thản nhiên mở tin ra, đoán xem huynh trưởng tốt của hắn rốt cuộc có mục đích gì.

“Tiểu Cầm cứu mạng với QAQ, ta đang bị rất nhiều tu sĩ đuổi theo, đến giờ ta vẫn không rõ đã xảy ra chuyện gì nữa.” Bùi Ngọc Vận không khỏi gạt lệ chua xót, mặc dù trước đây hắn là tu sĩ kỳ Nguyên Anh, nhưng mà giờ hắn chỉ là một tu sĩ kỳ Trúc Cơ thôi. Nếu không nhờ trên người mình còn có mấy món pháp bảo mà Tiểu Cầm đưa cho, e rằng lúc này đã bị họ bắt được từ lâu rồi.

Nếu biết trước chỉ ngủ thôi mà cũng gây ra chuyện lớn như vậy, hắn nhất định sẽ ngoan ngoãn nghe giảng.

Tuy rằng những lời này nghe có vẻ hơi kỳ quái.

Bàn tay cầm ngọc giản của Hư Nhâm không khỏi run rẩy, “Huynh trưởng, huynh đợi nhé. Đệ sẽ tìm người hỏi chút xem sao.”

Hiện giờ chuyện này đã truyền ra khắp nơi, Hư Nhâm tùy tiện hỏi một đệ tử liền biết đã xảy ra chuyện gì, dù hắn là một lão hòa thượng kết Anh đã nhiều năm nhưng giờ phút này cũng không khỏi có chút bất đắc dĩ.

Hắn vốn tưởng rằng mình đã có thể bảo vệ được huynh trưởng, giờ nghĩ lại thì thấy mình đúng là ngây thơ.

Dám đắc tội với hai ngôi chùa lợi hại nhất ở tiểu thế giới này, một mình Hư Nhâm hắn có thể làm gì đây?

“Huynh trưởng, nghe nói huynh tìm đến chỗ mấy trưởng lão của hai ngôi chùa đó, còn cướp hết đồ của họ, hơn nữa hình như còn cầm theo tang vật, bị người ta lần theo thần niệm trên nhẫn trữ vật đuổi đến.” Hư Nhâm nhịn không được bèn hỏi.

Huynh trưởng đúng là không chịu thua kém người khác, người bình thường đâu thể làm được chuyện này. Còn huynh trưởng thì…….. Hư Nhâm nhớ tới hành vi đáng ngờ của Bùi Ngọc Vận, thực ra hắn còn cảm thấy chuyện này rất có khả năng.

“Tiểu Cầm, đệ chớ có đùa, trước đây ta cũng không dám làm vậy đâu, bây giờ ta chỉ là một tu sĩ kỳ Trúc Cơ, lấy đâu ra bản lĩnh đó? Ta ngủ một giấc, khi tỉnh lại thì đã nằm ở chỗ này rồi, ta bị người ta lừa gạt!”

“Là kẻ thù lúc trước của huynh trưởng sao?”

“………..Kẻ thù quá nhiều, ta không biết là kẻ nào cả.” Bùi Ngọc Vận thành thật nói, hơn nữa hắn cũng không nghĩ ra rốt cuộc là kẻ nào mà lại có bản lĩnh chọc tức nhiều người như vậy? Vả lại, kẻ thù có khả năng làm ra chuyện động trời như thế, muốn bóp chết hắn là chuyện dễ như trở bàn tay, cần gì phải bỏ gần tìm xa[1], quậy lớn như vậy làm gì!

“Huynh trưởng, hình của huynh đã truyền khắp Kinh Tàng tiểu thế giới rồi, huynh nói địa điểm của mình đi, đệ sẽ đến tiếp ứng, đưa huynh rời khỏi thế giới này.” Hư Nhâm trầm tư một lát rồi hạ quyết tâm nói.

Bùi Ngọc Vận bất đắc dĩ đồng ý.

Hắn phải mau chóng tìm chỗ trốn mới được, nếu không Tiểu Cầm còn chưa kịp đến tiếp ứng thì hắn đã bị tóm, nói không chừng còn khiến Tiểu Cầm bị liên lụy nữa.

Hiện tại mình chỉ có một thân một mình thì không sao, nhưng Tiểu Cầm có được địa vị như ngày hôm nay đâu có dễ dàng gì.

Bùi Ngọc Vận nuốt một viên Dịch Dung đan, thay một bộ pháp y giúp che giấu khí tức, bấy giờ mới cẩn thận dè chừng ra khỏi núi hoang.

Việc kết Anh của Tạ Chinh Hồng đã thuận lợi hơn.

Đã hai năm trôi qua kể từ ngày Văn Xuân Tương quay về bản thể của mình, trong thời gian hai năm này, Tạ Chinh Hồng cuối cùng cũng điều trị linh khí trong cơ thể xong xuôi, kinh mạch cũng đã mở rộng gấp mười mấy lần, đủ để chịu được công phá khi phá Đan thành Anh.

Trên bầu trời, mây đen không ngừng tụ lại, che kín cả một vùng trời.

Đống linh thạch chất cao như núi hiện giờ chỉ còn lẻ tẻ chút ít, linh khí nồng đậm trong sơn động cũng từ từ tản ra, không khác trước kia là bao.

Tạ Chinh Hồng vẻ mặt lạnh nhạt, hai mắt tỏa kim quang, tràn ngập uy thế kỳ diệu.

Phía trước hắn là Tam Phương ấn, Chân Ngôn bảo phiến, Kính Trung Mê và Thanh Quang Phật đăng đang bay lơ lửng, xếp thành hình chữ “Trình (呈)” ở hai bên song song trên đỉnh đầu Tạ Chinh Hồng.

Tạ Chinh Hồng nhắm mắt lại, trong đầu bỗng nhớ tới lời trước kia Văn Xuân Tương từng nói với hắn.

Kết Anh, đại biểu cho việc tu sĩ đã chính thức đặt chân vào Tu Chân giới chân chính, từ đây không còn bị kẻ khác giẫm đạp như con kiến nữa, bọn họ đã có đủ năng lực để tự bảo vệ mình, Nguyên Anh bất tử, thân xác bất diệt, mỗi tu sĩ kỳ Nguyên Anh đều có năng lực cảm nhận được nhân quả và khí vận của bản thân, họ bị Thiên Đạo nhìn thẳng, bắt đầu từ kỳ Nguyên Anh, mỗi khi tiến lên một cấp đều phải trải qua các loại Lôi kiếp lớn nhỏ, tính toán rõ ràng mọi nhân quả và ân oán. Bởi vậy, phá Đan thành Anh, không chỉ là Kim Đan vỡ tan, mà quan trọng hơn hết chính là Nguyên Anh.

Đem toàn bộ kiến thức, công pháp nhiều năm của mình đánh vào trong Kim Đan sắp vỡ tan, tự tạo một dấu ấn của riêng mình trước khi Nguyên Anh xuất hiện. Thiên Đạo có luật lệ, ngươi trả giá bao nhiêu vì Nguyên Anh, Nguyên Anh cũng sẽ trả lại cho ngươi bấy nhiêu.

“Mấy kẻ nóng vội phá Đan thành Anh để kéo dài tuổi thọ, dùng các loại linh thảo đan dược để tăng tỷ lệ đột phá, đều là những kẻ tài trí bình thường, đã định trước rằng họ chẳng thể tiến xa trên con đường tu chân này. Lôi kiếp là phương thức rèn luyện tốt nhất với tu sĩ. Một đạo Lôi kiếp bổ xuống, nghiệp chướng và huyết khí trên người ngươi đều sẽ tan thành mây khói, ích lợi như thế ngươi có ra ngoài cầu cũng chẳng được đâu. Đương nhiên, sau cùng ta tốt bụng nhắc nhở ngươi một câu, ngươi đừng có mà cạo đầu đấy.” Văn Xuân Tương “nhắc nhở”.

Tạ Chinh Hồng nhớ đến lời của Văn Xuân Tương, lúc này liền không phòng ngự nữa,

Xắn tay áo, gom hết chỗ linh thạch còn lại, đứng dậy bay lêи đỉиɦ núi, trực diện nghênh đón Thiên kiếp.

Có lẽ đã nhận ra hành động vừa rồi của Tạ Chinh Hồng, trên bầu trời bỗng sinh ra dị biến.

Những đám mây đen như bị thứ gì đó điều khiển vậy, đột nhiên quay cuồng, tạo thành các loại hình thái khác nhau, rồng cuộn hổ vồ, cá bơi chim lượn. Ngay sau đó, chính giữa nơi mây đen hội tụ dày đặc nhất dần nứt ra một khe hở, từng dải mây mù mang sắc vàng nối đuôi nhau xuất hiện, chỉ trong thoáng chốc cả bầu trời đều được phủ lên một tầng sắc thái hoa mỹ.

Dị tượng như thế, hiển nhiên đã thu hút vô số tu sĩ đến xem.

“Mây đen che phủ, rồng cuộn hổ vồ, đây chính là hiện tượng kết Anh! Vị đạo hữu nào đang độ kiếp vậy?”

“Chỉ mới nghe nói rằng khi kết Anh, sẽ có mây tím bao phủ mà không tiêu tan, sao lần này lại là mây vàng chiếm chủ đạo?”

“Chẳng lẽ là vị Phật tu nào có đại công đức muốn phá Đan thành Anh ư? Điềm lành thế này, phải nhanh chóng bẩm báo lại cho tông môn mới được!”

Mọi người tranh nhau nghị luận, trong hai năm này tất cả đều đang truy tìm người tên Bùi Ngọc Vận.

Không sai, thân phận của Bùi Ngọc Vận đã bị điều tra ra rồi.

Mọi người đều biết hắn là người của Đoạn Trần tự, đang học trên lớp thì không hiểu sao lại rời đi, còn kéo theo một tu sĩ khác, hiện giờ tu sĩ nọ cũng đã biến mất không thấy tăm hơi. Đa số mọi người đều cho rằng người nọ đã bị Bùi Ngọc Vận sát hại. Hơn nữa, một tu sĩ kỳ Trúc Cơ mà lại có thể ở trong Bi Môn tận một canh giờ, đúng là chuyện không tưởng. Quan trọng nhất là, tên thật lúc còn là phàm nhân của Bùi Ngọc Vận không giống thế, ngược lại, một Ma tu đã chết cách đây nhiều năm hình như cũng mang tên này.

Bởi vậy, chân tướng gần như đã nắm rõ trong tay.

Do đó các loại âm mưu phỏng đoán đều được đưa ra.

Phần đông đều cảm thấy kẻ này là một Ma tu mang tà tâm to lớn, đoạt xá một cái xác tốt sau đó đến đây để sát hại người trong Phật môn. Nếu không thì chẳng có cách nào để giải thích vì sao một Ma tu vất vả lắm mới đoạt xá thành công, lại không tìm đến những người quen trước kia của mình mà lại trà trộn vào Đoạn Trần tự làm một đệ tử bình thường?

Còn Đoạn Trần tự, dưới lời dẫn dắt của chưởng môn, đã biến thành “người bị hại”. Dù sao cũng là kẻ đánh bại được cả trưởng lão Tuyệt Niệm tự, tu vi cao thâm bí hiểm, giở trò qua mặt Đoạn Trần tự, lừa gạt Hư Nhâm trưởng lão có tấm lòng nhân từ thật sự là chuyện quá đơn giản.

Bấy giờ, chưởng môn Đoạn Trần tự quyết đoán núp sau lưng Tuyệt Niệm tự, thành công tránh được vô số lời đồn đãi.

May mà thời gian Bùi Ngọc Vận ở Đoạn Trần tự cũng không dài, lại có không ít đệ tử làm chứng, mới có thể tẩy sạch mọi hiềm nghi.

Hư Nhâm định giải thích đôi điều, lại bị Bùi Ngọc Vận ngăn cản.

Có thể kéo Tiểu Cầm ra khỏi chuyện rắc rối này, quả thật là cầu còn chẳng được.

Sau khi Bùi Ngọc Vận suy nghĩ hồi lâu, cảm thấy hẳn là do cái người tên Văn An kia. Bởi vì đệ tử ở đây đã nói mình đang lúc ngủ gật thì đột nhiên tỉnh dậy, kéo Văn An cùng rời đi.

Nói cách khác, mình là người bị lợi dụng, còn tên đầu sỏ gây chuyện chính là Văn An.

Nhưng mà tên Văn An không biết đang ở chỗ nào?

Hơn nữa, hắn là một tu sĩ kỳ Kim Đan thì sao có thể đánh bại nhiều trưởng lão kỳ Nguyên Anh như thế được?

Toàn bộ những chuyện này hắn đều không biết.

May mà Bùi Ngọc Vận có La Hán đạo thể trời sinh, vận khí vẫn xem như không tệ.

Một năm qua hắn vẫn luôn cẩn thận dè chừng, xem như đã tránh thoát không ít người đuổi gϊếŧ. Vả lại Tuyệt Niệm tự là ngôi chùa đứng đầu, cũng muốn bảo vệ mặt mũi nên sẽ không phái nhiều người đi tìm hắn, khiến Bùi Ngọc Vận dễ thở hơn được một chút.

Bây giờ lại có người kết Anh, người này lại không phải tu sĩ mà mọi người biết, hơn nữa lại xuất hiện mây vàng, rõ ràng là dấu hiệu của người mang đại công đức, lập tức thu hút sự chú ý của mọi người.

Bùi Ngọc Vận nghĩ tới nghĩ lui, cảm thấy người này rất có khả năng chính là Văn An. Hơn nữa, nếu đúng thế thật thì cũng có thể giải thích vì sao hắn lại cướp sạch nhẫn trữ vật của những trưởng lão kia, chắc hẳn là để dùng cho việc kết Anh.

Không, như vậy cũng không hợp lý lắm.

Mình và hắn không thù không oán, không cần phải phí công tốn sức vu oan mình như thế. Huống chi, nếu hắn đã có bản lĩnh để kết Anh, đương nhiên phải càng có bản lĩnh đi kiếm linh thạch mới đúng.

Phải biết rằng, kết Anh không phải chuyện chỉ một năm hai năm là xong.

Năm đó khi mình kết Anh cũng mất mười mấy năm mà!

Thời gian không đúng.

Bùi Ngọc Vận gõ gõ đầu, có chút nhức óc.

Thôi, dù có phải Văn An hay không, nếu đối phương là người mang đại công đức thì biết đâu có thể nhờ hắn giúp để rời khỏi thế giới này, đến trung thế giới lang bạt một thời gian. Nếu cứ ở đây thì chỉ tổ khiến Tiểu Cầm bị liên lụy.

Bùi Ngọc Vận nghĩ vậy, liền bay về hướng Tạ Chinh Hồng kết Anh.

Tạ Chinh Hồng ngẩng đầu nhìn dải mây mù màu vàng, trong lòng bỗng dâng lên một cảm xúc kỳ lạ.

Hắn nhìn thấy trời cao đất rộng, thấy hồng trần phồn hoa, thấy đủ thứ chuyện không thể nói không thể xem ở thế gian, trong lòng trừ “Đều khổ” thì chẳng còn suy nghĩ nào khác.

Phật nói, chúng sinh đều khổ!

Phàm nhân có sinh lão bệnh tử, tu sĩ có cầu đạo nhiều gian khó, tiên nhân có Thiên Nhân Ngũ Suy.

(Đã từng giải thích ở chương trước)

Đủ các loại khác nhau, tuần hoàn nhiều năm, chưa từng có bất cứ thay đổi nào.

Phật có lòng trắc ẩn, phổ độ chúng sinh.

Đúng vậy, Địa Tạng Bồ Tát[2]

đến nay vẫn chưa độ hết ác quỷ trong Địa Ngục, Quan Thế Âm Bồ Tát[3]

cũng chưa từng nhìn thấu hết mọi chuyện bất bình ở thế gian, Phật Dược Sư[4]

hoành nguyện thành Phật, cũng không khiến chúng sinh thoát khỏi tật bệnh khốn khổ.

Làm sao để phổ độ chúng sinh?

Chẳng qua là để chúng sinh tự độ mà thôi!

Tạ Chinh Hồng bỗng vươn một ngón tay, mặt đất dưới chân dần sinh ra một đóa hoa nhỏ màu vàng nhạt.

Ngón tay khẽ động, đóa hoa nhỏ liền bay đến đầu ngón tay.

Không có hương thơm, không có sự sống.

Do linh khí tạo thành.

Tạ Chinh Hồng nhìn mây mù trên trời, khóe miệng nhoẻn lên, lông mi cong cong.

Lĩnh ngộ được chân ý của Phật Tổ mà thành Phật.

Niêm hoa nhất tiếu[5].

******

★Chú thích:

[1]Bỏ gần tìm xa (Xá cận cầu viễn):

nghĩa là cứ mãi trông ngóng, theo đuổi những thứ xa xôi mà bỏ quên những gì nằm ngay trong tầm với.

[2]Địa Tạng Bồ Tát:

là một vị Bồ Tát được tôn thờ trong Phật giáo Đông Á. Địa Tạng Bồ-tát được biết đến bởi lời nguyện cứu độ tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi vào thời kỳ sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn cho đến khi Bồ Tát Di Lặc hạ sinh, và nguyện không chứng Phật quả nếu Địa Ngục chưa trống rỗng. Do đó, Địa Tạng thường được xem như là vị Bồ-tát của chúng sinh dưới địa ngục hay là giáo chủ của cõi U Minh.[3]Quan Thế Âm Bồ Tát:

là một vị Bồ Tát hiện thân lòng từ bi của tất cả chư Phật. Được miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau, cả thân nam lẫn nữ giới, Quán Thế Âm là một trong những vị Bồ-tát được tôn kính thờ phụng rộng rãi nhất trong Phật giáo Đại Thừa, cũng như không chính thức trong Phật giáo Nguyên Thủy.

Quan Thế Âm nghĩa là “Đấng quán chiếu âm thanh của thế gian”.Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo Phẩm Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sở dĩ ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khu nạn, mỗi khi chúng sinh bị khổn ách, nguy cấp liền nhất tâm niệm danh hiệu của Bồ Tát, ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.[4]Phật Dược Sư:

nghĩa là “vị Phật thầy thuốc”. Do bổn nguyện của ngài là “cứu tất cả các bệnh khổ cho các chúng sinh” cho nên còn có tên

Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật, là vị Phật đại diện cho sự trọn vẹn của Phật quả ngự cõi phía Đông. Tranh tượng của vị Phật này hay được vẽ với tay trái cầm thuốc chữa bệnh và tay mặt giữ

Ấn thí nguyện (Loại ấn mà lòng tay mặt hướng về phía trước, bàn tay chỉ xuống).[5]Niêm hoa nhất tiếu:

nghĩa là cầm hoa mỉm cười, nói đầy đủ là

“Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu”. Đây là một giai thoại thiền, được trích ra trong cuốn “Đại Phạm Thiên Vương vấn Phật Quyết Nghi Kinh, ghi lại sự kiện Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đưa cành hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp phá nhan mỉm cười.

Hôm nọ, trên núi Linh Thứu trước mặt đông đảo đại chúng, Đức Thế Tôn không tuyên thuyết pháp thoại như mọi ngày, mà lặng lẽ đưa lên một cành hoa. Mọi người ngơ ngác chẳng ai hiểu gì, duy chỉ có đại trưởng lão

Ma Ha Ca Diếp

mỉm cười. Ca Diếp thấy Phật đưa cái hoa lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín vi diệu bên trong, tuy có tướng mà không có tướng. Bông hoa là biểu hiện của Tâm, sự im lặng là biểu hiệu của Pháp. Tâm với Pháp tuy có mà không, tuy không mà có. Đây là biểu thị cho pháp môn lấy tâm truyền tâm, một pháp môn siêu ngôn ngữ, siêu văn tự. Trong pháp môn này chỉ có sự giao cảm, sự rung động giữa hai tâm thức Thầy và Trò, và hai tâm thức này đã đồng nhất. Đó là cái tâm vi diệu Niết bàn.