Hà Tiên - Cuộc Sống Điền Viên

Chương 1: Đi và đếnNgôi nhà nhỏ nằm trong con hiểm nhỏ im lặng giữa trưa nắng gay gắt tháng ba Sài Gòn. Ai cũng nghĩ là trong nhà không có người vì cửa nhà đã khoá ngoài. Nhưng nếu nhìn lên ban công lầu 1 sẽ nghe loáng thoáng âm thanh của chương trình tivi đang mở. Hàng xóm quen trong con hẻm đều biết đó là phòng của Ngọc Mai, con gái út nhà ông Hưng. Đã ba năm từ ngày Mai phát bệnh, các đốt xương yếu dần và cô không tự đi được. Những cơn đau âm ỉ mỗi ngày đến rồi đi mấy lượt. Gương mặt cô bé Mai hân hoan, mắt sáng như sao linh động, hoạt bát ngày nào đã không còn. Thay vào đó là đôi mắt trầm lặng như mặt nước ngày yên gió.

Tivi đang phát chương trình du lịch bốn phương được Mai yêu thích. Những con sóng tràn vào bờ cát mang theo bọt trắng xoá và âm thanh ồn ào làm căn phòng có chút sinh động hơn. Mai nhìn sóng, nghe biển hát khúc nhạc ngàn năm. Phải chăng bờ biển nào cũng vậy? Hay mỗi bờ biển có giai điệu riêng?

Biển Vũng Tàu có hàng phi lao hoà tiếng gió vi vu khác biển Nha Trang có dãy cát trắng mênh mông. Mai sẽ không bao giờ còn nghe được, sẽ không ai biết khát khao trong lòng cô. Mai xoay nghiêng đầu nhìn ra bầu trời trong xanh ngoài kia. Hôm nay nắng rất đẹp và có vẻ ấm áp. Ấm áp hơn căn phòng này. Cơ thể cô bỗng thấy lạnh, cái lạnh từ từ lan ra toàn thân làm Mai hoảng sợ. Nhưng chỉ một giây sau cô lại thản nhiên nhắm mắt lại, điều hoà hơi thở và cảm nhận cơn đau bắt đầu.

Hình như cơn đau lần này lan nhanh hơn và kéo dài hơn.

Nghĩ đến cái gì đi, nghĩ đến ba mẹ và anh hai đi,....

Nghĩ đến lần sinh nhật năm lớp mười hai lén lén uống bia,..

Nghĩ đến bờ cát dài và tiếng sóng vỗ ầm ầm,...

Đầu óc Mai càng lúc càng mơ hồ, cảm giác nhẹ tênh và trôi lang thang bất định. Thời gian dường như đã rất lâu mà cũng như trong chớp mắt. Thoáng nghe những âm thanh rất nhỏ cứ nối tiếp nhau, có khi lẫn vào nhau trôi đi. Trong một giây ngắn ngủi Mai nghe tiếng rì rầm của sóng, 'chắc là từ tivi' cô nhủ thầm. Nhưng hình như tivi đã chuyển đến vùng biển khác, âm thanh vừa quen vừa lạ. 'Ước gì mình ở đây' trong mông lung tâm trí cô vẫn thầm nhủ. Cô vẫn nghĩ sống gần biển chắc thích lắm, được tắm thỏa thích.

Bỗng nhiên có chớp loá sáng rực và như đoạn phim quay về tốc độ bình thường. Mai lại cảm nhận từng cơn đau, mệt mỏi rã rời và chìm vào giấc ngủ nặng nề.

Không biết qua bao lâu, Mai tỉnh lại, cảm giác rít rít trên da. Cô rất ngạc nhiên, ba mẹ về nhà thấy mình hôn mê chắc sẽ đưa vô bệnh viện như và mẹ sẽ lau mồ hôi, thay quần áo sạch cho mình, làm sao có cảm giác cả người vẫn rít mồ hôi được? Hơn nữa cô không phải nằm trong phòng máy lạnh sao? sao lại nóng như vậy? Mồ hôi chảy ra lúc trước không được lau khô nên cứ dính dính, thật khó chịu. Trước giờ nẹ luôn chăm sóc cô rất thật sạch sẽ. Hình như có tia nắng rọi lên mặt, Mai vội mở mắt và hoảng sợ nhắm chạt mắt. Mình đang mơ thôi, làm sao mình lại ở đây được? Ba mẹ đâu? anh hai đâu rồi!

Tiếng khóc thút thít của Mai đã gây chú ý, tiếng chân đi vội từ bên ngoài vào. Đi đầu là một 'cô' khoảng hơn 40 tuổi, khuôn mặt lo lắng, đôi mắt đỏ và sưng như đã khóc. Theo sau là một bé trai khoảng 4, 5 tuổi. Điều thu hút Mai nhất là quần áo của hai mẹ con này. Người mẹ mặc áo vải màu chàm đã cũ, quần dài đen, tóc đen bới thật to phía sau đầu cài cây trâm bằng gỗ nhỏ. Đứa bé trai đang ở trần, quần cụt đen có vài miếng vá, đi chân trần trên nền nhà đất. Đôi mắt Mai mở to nhìn hai người không phát ra lời nào.

- Mai, con. Con đã tỉnh rồi! còn đau không? đừng làm nương sợ, hic hic

- Lục tỷ, tỷ đói bụng chưa? Nương đang nấu cháo đó, là cháo cá.

Người xưng là nương thấy Mai mở to mắt, không phản ứng, có vẻ sợ nhiều hơn, vội đến sờ lên trán Mai vừa nói:

- A Phúc, con chạy đi gọi cha nhanh, nhanh!

- Con đau ở đâu? có nghe nương nói không? sao vậy?

Người phụ nữ cứ hỏi liên tục làm Mai choáng váng!

Nhắm mắt lại, chỉ là mơ thôi, mặc dù hình ảnh quá chân thật! Một chút thôi mọi chuyện sẽ quay lại, mình sẽ nằm ở bệnh viện, trong phòng lạnh hồi sức sau cấp cứu. Không sao, không sao.

Khoảng một giờ sau thì Mai cũng chấp nhận là 'có sao' rồi.

Vì đứa bé trai đã quay lại cùng với một người đàn ông trung niên, một bé trai và một bé gái nữa. Tiếng hỏi đáp ồn ào, mấy cánh tay cứ lần lượt rờ trán, rờ đầu Mai.

- Em con đã hết nóng rồi, cháo chín chưa mang lên cho em một chút, rồi uống thuốc.

Người phụ nữ nói với bé gái, rồi quay sang người đàn ông:

- Chàng qua báo Lưu ca và Lưu tẩu một tiếng, rồi quay về ăn cháo luôn!

- Nàng và các con ăn trước đi, ta đi nhắn cho cha nương biết sẽ về trễ mấy ngày, đợi Mai nhi khoẻ mới về.

- Được. Chàng đi kẻo trời tối.

Món cháo mà a Phúc mong đợi thì ra là cháo cá lóc nêm ít muối và ăn với rau luộc. Con cá cũng lớn, thịt rất ngọt nhưng Mai không nhận ra là rau gì, chỉ thấy được luộc rất xanh, rất tươi. Lúc đầu Bình Ca và a Phúc cũng không chịu ăn muốn chờ cha về ăn chung. Mai là do bệnh nên được ăn trước. Nhưng mà nhà này chỉ có ba cái chén nên Mai, tiểu Phúc và bé trai lớn hơn là Bình ca ăn trước.

Mai ăn được một chén cháo nóng thì ra mồ hôi và thấy đầu lại ê ê chắc do vận động. Người phụ nữ vội dìu cô lại giường nằm:

- Con nằm nghỉ một chút, lát uống thuốc sẽ đỡ hơn.

Ánh nắng bên ngoài dần tắt, không khí đã dịu. Trong phòng đơn sơ chỉ có hai giường nhỏ làm từ mấy tấm ván ghép lại. Một cái bàn vuông cũ, bốn ghế đẩu gỗ thô không sơn phết, chắc do ngồi nhiều nên mặt ghế mòn láng. Mái nhà lợp lá, cột nhà là mấy cây gỗ chỉ to hơn bắp tay Mai một chút. Góc phòng là mấy cái túi vải cũ lớn nhỏ.

Theo trí nhớ của cơ thể này thì đây không phải nhà của gia đình này. Gia đình họ đến làng Đông Hồ này để giúp nhà Lưu bá dựng nhà mới. Năm trước nhà Lưu bá chuyển từ xóm chài vào trong đất này sinh sống, bỏ nghề đi biển, khai khẩn đất hoang làm ruộng. Qua năm nay dành dụm được một chút tiền thì dựng nhà. Phòng Mai đang ở là nhà cũ của Lưu bá.

Thật ra Mai và a Phúc là năn nỉ cha nương mới cho đi đến đây chơi, thân thể này gầy nhom, mới hơn tám tuổi thì đâu làm được gì.

Hai ngày trước, mấy đứa trẻ rủ nhau lên núi gần đây nhìn hang động mà Tương ca chỉ. Hang động không lớn lắm, có nhiều ngóc nghách. Bé Mai (chủ cũ thân thể này) đi len vào một nghách nhỏ bỗng có một đàn dơi ào ào bay ra. Cô bé hoảng sợ chạy rồi vướng chân té vào vách đá. Đầu đập vào đá rách một mảng, chảy máu làm đám trẻ con hốt hoảng.

Sau đó mơ hồ thế nào mà Mai lại thay thế vào thân thể này. Thoáng nhớ thoáng quên âm thanh mơ hồ của tiếng sóng biển rì rầm, không biết là ký ức của ai. Miên man suy nghĩ cộng với mệt mỏi từ vết thương trên đầu, Mai ngủ rất nhanh không kịp chờ cha cô bé trở lại.

Mong đây là giấc mơ, sáng mai thức dậy cô sẽ trở về nhà!Chương 2: Đây là đâu?Tỉnh ngủ lần nữa, mở mắt ra vẫn là mái nhà lá với những lỗ thủng ánh trăng đang xuyên qua. Nhờ vậy mà Mai nhìn ra hình ảnh mờ mờ trong căn phòng. Cô đang nằm giữa nương và tỷ trên cái giường phía trong; cha và Bình ca, a Phúc ngủ giường ngoài. Chắc đang mùa hè nên nửa đêm mà vẫn không thấy lạnh. Xung quanh u u tiếng côn trùng kêu giống như nhà ngoại ở quê. Tiếng vo ve của mấy con muỗi làm cô khó chịu, thỉnh thoảng còn bị chích nữa, ahhhh. Nương bị cô làm tỉnh, thấp giọng hỏi:

- Sao vậy? còn đau sao?

- Muỗi!

- Ừ, để nương đốt lại cỏ xả, tắt rồi.

Thì ra là dùng cỏ xả, nếu không ngủ không mùng như vầy chắc bị muỗi tha.

Nương mò mẫm đi đến góc phòng nhóm lại bếp, cho thêm búi cỏ vào, khói lại quanh quẩn trong phòng xua đi mấy còn muỗi tham ăn.

-Ah,

Nương quay lại giường, xoa xoa vai Mai như dỗ cô ngủ. Buổi chiều cô tỉnh lại từ hôn mê, nhận ra sự thay thế này làm cho tâm trí hoảng loạn. Bây giờ bình tĩnh lại, Mai nên thừa nhận sự thực này thôi, cái này là vận mệnh sao?

Từ chiều đến giờ cô không dám nói gì vì phát hiện ngôn ngữ của họ không giống mình, có nhiều từ nghe không hiểu lắm, chỉ lờ mờ đoán ý. Cách xưng hô cũng hơi khác, nghe vừa quen vừa lạ, giống như trong mấy phim thời xưa vậy. Mai cố gắng nhớ lại mấy bộ phim cổ trang đã xem Thiên địa anh hùng? không giống lắm, Phạm Công Cúc Hoa, chết rồi!

Dù thế nào cũng cần thêm thời gian tìm hiểu thêm, tạm thời cứ giả bệnh không nói gì là được.

Nhắc đến bệnh mới nhớ, đầu bị đập vào đá rồi còn bị Bình ca cõng từ trên núi chạy về, dọc đường xóc nảy như vậy mới làm bé Mai rời đi. Giờ không biết có bị máu bầm trong não, xuất huyết não hay không đây? Ông trời ơi, đừng nói là sáng mai con ngủ dậy bị tưng tửng nha! Ba năm làm bệnh nhân, hết chữa tây y, trung y rồi đông y, cộng với thời gian rãnh rỗi đọc sách, xem tivi về các bệnh lạ làm Mai cũng trở thành một nửa bác sĩ rồi. Hy vọng ông trời đưa con đến đây thôi, đừng mang bệnh đến theo.

Trời chưa kịp sáng tỏ mà cả nhà đã lục đυ.c dậy, cả nhóc Phúc cũng thức dậy. Mai cũng gượng ngồi thì nương ấn vai cô:

- Con ngủ thêm đi, nương và a Cúc đi hâm đồ ăn và sắc thuốc cho con.

Mai gật gật đồng ý rồi nằm xuống nhưng không ngủ tiếp mà lặng lẽ quan sát chung quanh, lắng nghe tiếng cha nương nói chuyện.

- Ta qua nhà Lưu huynh phụ chuẩn bị.

- Được, chàng quay về ăn chút đồ trước khi làm.

- Con theo cha!

Bình ca rửa mặt xong đi vào nói.

- Cùng đi đi, nhà Lưu bá con chắc vài ngày nữa là xong.

A Phúc hai tay chụm chụm cái gì trong tay, đi lại gần hé ra co Mai xem. Trong hai tay nhỏ xíu là bốn trứng nhỏ nhỏ, màu xanh nhạt có chấm đen, chắc là trứng chim.

- Ca và đệ nhặt được ở gò đất bên kia. Tương huynh cũng không biết là chim gì.

Nhóc Phúc mặc quần đen dài, ở trần lộ ra ngực nhỏ gầy, hai cánh tay xương xương, da đen cháy nắng. Đôi mắt hai mí to sáng long lanh, nhìn biết là tiểu quỷ linh tinh. Ở làng chài tiểu tử này ít khi ở nhà mà chạy thám thính khắp nơi. Theo trí nhớ mơ hồ, tiểu tử này đã không ít lần gây phiền phức. Có lần còn lén lên một mình lên núi Lộc Trĩ khiến cả nhà tìm loạn lên, đương nhiên là sau đó nhóc bị một trận đòn sưng mông.

'Núi Lộc Trĩ' là nơi nào?

Dù sao thân thể này mới hơn tám tuổi, nhút nhát, chỉ quanh quẩn quanh làng chài nên chỉ biết nhà Lưu bá ở làng Đông Hồ, còn nhà mình thì ở làng chài cạnh núi Lộc Trĩ. Mà chỉ hai cái tên này không đủ để cô biết đây là đâu, thời nào!

Chỉ chốc sau, cháo tối qua hâm nóng được mang lên.

- Con ăn trước đi, rồi uống thuốc. Hôm nay con ở nhà với a Mai, không chạy đi chơi nghe không?

Nương quay sang dặn a Phúc.

- Dạ, mấy hôm nay con đâu có đi chơi.

Nhóc nhăn nhăn nói, hai hôm nay tỷ té chảy máu, hắn rất sợ, cứ quanh quẩn quanh nhà hoặc đi ra vào theo sau lưng nương nhìn nhìn Mai nằm yên trên giường.

Cha và tam ca vội đi vào nhà, ngồi xuống mấy cái ghế đẩu ăn sáng.

- Con ở nhà với hai em, sắc thuốc 2 cử trưa chiều nữa.

- Dạ, con biết.

Mai định lắc đầu mà vẫn thấy hơi choáng nên lắc cái tay gầy nhỏ. Cô không dám nói dài, không biết giọng mình sao nữa, lỡ đâu bị phát hiện thì hậu quả không biết ra sao. Có bị cho cho là yêu quỷ hay không? Cha và nương đều nhìn vết thương trên đầu cô. Có thêm người phụ thì nhà Lưu bá nhanh xong, cả nhà về làng chài sớm chút.

- Vậy con đau thì nói đệ chạy qua gọi nương. Trưa tỷ sẽ mang cơm về rồi sắc thuốc cho con luôn.

Cúc tỷ nhanh nhẹn mang nồi, chén ra lu ngoài bếp rửa, rửa xong úp lên giàn chén bằng cây bên cạnh. Bốn người lớn trong nhà mang theo khăn nón đội đầu rồi đi. A Phúc đi tiễn đến ngoài đường. Mai cúi xuống giường tìm đôi giày bện bằng dây mây, mang vào gượng đi ra ngoài.

- Tỷ đi đâu vậy?

- Uhm,

Mai nghiêm mặt chỉ đôi chân trần của tiểu Phúc ý hỏi sao không mang?

- Nóng quá,

Nhóc ha ha cười rồi chạy vào mang giày. Loại giày được bện bằng sợi gai giống như từ vỏ cây làm sao mà nóng chứ!

Phía trước nhà là sân trồng mấy cây rau, dây leo lá xanh viền tím nhạt không rõ là gì. Con đường đất nhỏ quẹo phải là hướng qua nhà Lưu bá. Xa hơn khoảng năm mươi mét là con rạch không rộng lắm nhưng xa hơn chút nữa là mặt Đông Hồ mênh mông. Sương buổi sáng vẫn còn vờn trên mặt vũng.

- Vũng này sâu không?

- Nghe Tương huynh nói là sâu lắm, có năm nước lớn tràn bờ luôn. Mùa mưa ở đây nhiều cá lắm, không giống cá ngoài biển của mình đâu, còn có ếch ăn ngon hơn thịt gà nữa,...

A Phúc nói huyên thuyên tất cả mới lạ mà nó nghe được từ Tương huynh là con trai lớn của Lưu bá. Nhà Lưu bá có một con trai lớn và ba con gái nhỏ gọi là tam Mi, tứ Mi và ngũ Mi. Tứ Mi bằng tuổi Mai bây giờ, sinh sau mấy tháng.

Mai vừa lắng nghe nhóc nói vừa nhẩm lại cho quen. Chỉ có một mình nhóc Phúc nên cô không cần quá đề phòng.

Trong không khí vẫn có vị mặn mặn của muối biển, chắc cách bờ biển không xa, nhưng mà đi bộ về đến làng chài cũng gần ba canh giờ mới đến.

-Tỷ, phía bên kia Đông Hồ có núi Tô Châu cao hơn gò Lộc Trĩ nhiều, có thạch động nữa,...

- Đệ còn muốn đi thạch động nữa à?

- Ah,

A Phúc le lưỡi rồi im re.

Khoan, núi Tô Châu, vũng Đông Hồ, vậy ở đây là Hà Tiên?

- A Phúc, ở nhà mình nhìn có thấy Hòn Phụ Tử không? Cô vội hỏi.

- Sao không thấy? tỷ còn nói nó cao hơn gò Lộc Trĩ mà.

Vậy đúng rồi sao? Mình đang ở sát bên vũng Đông Hồ, gần hòn Phụ Tử. Mà năm nay là năm nào? Từ từ thăm dò, không cần vội!

- Tương huynh ca còn kể gì nữa không?

- Xây nhà xong Tương huynh sẽ tát đìa trong đồng đó, có nhiều cá lắm, cá rô, cá lóc, cá trê, cá trạch nữa; đệ chưa biết cá trê là cá gì. Mà lúc đó nhà mình đã về rồi. A, trưa nay Lưu bá mẫu nấu khoai ăn với chuối, thế nào nương cũng sẽ mang về cho tỷ đệ. Mà nước ở đây không mặn như ở biển phải không tỷ?

- Ừ, đệ nói núi Tô Châu ở đâu?

- Bên kia, đi ra cửa mới thấy,

A Phúc chỉ chỉ tay về hướng bên phải nhà.

Mai không muốn ở trong nhà nữa, mà đã lâu rồi cô không có cảm giác đi trên đôi chân của mình. A Phúc cười cười đứng dậy đi đến gần cô, đỡ một bên tay. Mai vịn vai nhóc hơi mỉm cười, nhóc thật ngoan, rất quan tâm đến cô. Sáng giờ ngồi trong nhà chắc cũng buồn chân.

Đường đất có nhiều vết nứt nẻ, cây cối xung quanh đã có lá vàng. Dọc theo đường đi cỏ vẫn còn xanh, a có cỏ đầu gà. Đây là trò chơi lúc nhỏ Mai về quê ngoại hay chơi cùng anh hai và các bạn nhỏ trong xóm.

Mai chỉ chỉ nhóc Phúc, cúi xuống tìm cỏ đầu gà.

- Cái này làm gì tỷ?

Mai đưa cho a Phúc một cọng, cô lấy cọng cỏ mình đang cầm quất vào 'cổ' cọng cỏ gà đó.

- Tỷ thắng, haha,...

Rất nhanh a Phúc đã biết, bé hưng phấn tìm kiếm trong đám cỏ thêm nhiều cọng cỏ gà khác.

- Cọng nào mập mạp ở phần cổ này nè, nó mới không gãy.

- Dạ, như cọng này hả tỷ?

- Đệ tìm đâu hay vậy? Cọng này chắc là cỏ gà vua rồi, thử xem.

Cọng cỏ này chắc khoẻ thiệt. Nhóc Phúc cười hớn hở, khoe hàm răng sữa nhỏ như bắp. Niềm vui của a Phúc như lan sang cả Mai. Hôm qua đến giờ cô vẫn hoảng sợ, lo lắng khi đến nơi này. Dù sao nơi này cô cũng có gia đình, vẫn còn xa lạ nhưng dần dần sẽ quen. Hơn nữa cô đang chiếm thân thể này mà họ không biết, cô thấy áy náy, tự hứa sẽ làm hết sức giống như bé Mai có thể làm. Nếu đây là sự hoán đổi thì chắc bé Mai còn hoảng sợ và khó khăn để thích ứng hơn cô nữa.

- Núi Tô Châu kìa tỷ,

Tiếng a Phúc ngắt ngang suy nghĩ của cô. Vũng Đông Hồ rất rộng hình giống như nút cổ chai, ở giữa hồ có mấy dãy đất xanh um hay gọi là cồn. Chỗ cô đang đứng thấy cổ nút, xéo góc bên kia hồ là núi Tô Châu. Biển chắc là phía ngoài cổ chai này. Xa phía sau núi Tô Châu là hòn Phụ Tử.

Xung quanh đây chỉ có vài ngôi nhà lá nhỏ, cách nhau khá xa. Trước sau nhà đều là đất trồng rau, trồng cây, dây leo. Xa xa phía sau nhà có mấy dãy núi thấp, cây cối xanh xanh chen lẫn màu xám của đá. Ấn tượng chính nơi này mang lại là sự mênh mông và hoang sơ, có hồ, có sông rạch, có đồng ruộng, có đồi núi và biển.

Ừ, vậy sẽ không lo đói rồi! Chỉ cần chăm chỉ làm ruộng hay đánh cá là sẽ đủ ăn no.Chương 3: Cuộc sống đồng quêCon rạch nhỏ uốn lượn quanh co đã cạn hơn một nửa, có mấy con cua bò qua lại trên phần đất còn ẩm. Cô không biết nó là cua hay còng, mà ở đây chắc người ta gọi khác. Mấy chỗ con rạch cạn cứ thấy cá quẫy bùn, lộ cả sống lưng. Bây giờ chắc khoảng cuối mùa nắng, sắp sang mùa mưa rồi.

Tỷ đệ đi một hồi thì đến gần nhà Lưu bá.

- Mai nhi à? Đầu hết đau chưa?

Người đàn bà dáng người cao cao, đầu quấn khăn, mặc bộ quần áo xanh đậm màu là Lưu bá mẫu. Bà đang cùng con gái tứ Mi bằng tuổi Mai lom khom đào khoai trên ruộng gần nhà. Cô bé cũng đội khăn, quần vén cao, đang nhặt khoai bỏ vào rổ tre.

- Bá mẫu, con khoẻ rồi. Cảm ơn bá mẫu hỏi thăm.

A Phúc không đợi nói đã chạy đến phụ tứ Mi nhặt khoai. Mấy củ khoai này không to lắm, lớn hơn nắm tay a Phúc một chút, là giống khoai lang dài có vỏ ngoài nâu nhạt. Mai nhìn khoảng khoai đang trồng không lớn lắm, rộng gấp đôi sân đá bóng.

- Hai đứa ở lại bên này ăn cơm trưa luôn. Xế xế bá mẫu luộc khoai cho ăn.

- Dạ.

Đào khoai được đầy hai rổ thì ngưng.

- Đủ hôm nay ăn thôi, khi nào dựng nhà xong thì mới đào hết mang về. Con để tứ Mi bưng cho.

Bá mẫu quay sang nói Mai khi thấy cô vươn tay định mang rổ khoai. Tứ Mi mặc dù nhỏ tháng hơn cô nhưng lại cao hơn một chút, mà có da có thịt hơn cô. Chân tay cô bé cũng chắc nịch, khoẻ khoắn. Bốn người nối đuôi nhau đi vào nhà.

Giờ này khoảng mười giờ sáng, mặt trời chưa gắt lắm, đúng là lúc mọi người làm việc hăng say nhất. Trên khoảnh đất rộng, cao hơn xung quanh đã có mấy hàng cột. Cha cô, Lưu bá và một người đàn ông trung niên đang lắp mấy thanh kèo cho mái nhà. Người đàn ông hình như là thợ chính, ông vừa làm vừa luôn miệng hướng dẫn người khác. Một nhóm hai người đàn ông trẻ hơn cha cô thì đo, chọn những cây gỗ ở sân. Bình ca và hai đứa bé trai khác thì đang kéo từng đám lá dừa được phơi từ ngoài gò đất cao vào xếp trong sân.

Cách sân dựng nhà một khoảng có 2 cái chòi nhỏ lợp lá gần bờ rạch. Nhóm của Mai đi thẳng đến căn chòi nhỏ hơn. Ngoài cửa căn chòi là nhị tỷ Cúc nhi của Mai và tam Mi đang lặt rau, cắt mấy trái bầu xanh lớn hơn cùm tay. Nương đang trong bếp nấu, 2 bếp đều là cơm, nước cơm đang sôi toả ra mùi thơm thơm khiến người ta đói bụng. Bếp là ba tảng đá cao khoảng hai gang tay, người nấu phải ngồi xổm hoặc đứng lom khom mới thấy thức ăn trong nồi.

- Nương, nương,

A Phúc chạy đến dựa chân nương giống như lâu lắm mới gặp.

' hừ' Mai hừ trong miệng, nhìn qua cái sạp nhỏ có ngũ Mi đang ngồi, cô bé mới hơn hai tuổi, ôm mấy trái dừa nước nâu nâu vàng vàng, thỉnh thoảng còn đưa lên miệng ngậm.

- Mi Mi, gãy răng bây giờ!

Tứ Mi đi vào trong vừa thấy thế liền la bé, cô bé giật mình buông xuống, mặt nhăn nhăn chắc là ngậm ra vị chát của trái dừa rồi.

- Cơm sắp chín, Cá ráo nước rồi. Ta để ngoài sóng chén.

Nương Mai nói với Lưu bá mẫu.

- Được.

Tứ Mi lấy cái chậu đất ra cầu nước lấy một nửa chậu, mang vào chỗ tam Mi ngồi, đổ khoai vào rửa.

- A Cúc, con về sắc thuốc cho em, rồi mang qua đây.

Lưu bá mẫu nhắc tỷ. Tỷ nhìn nương, thấy nương gật đầu thì buông trái bầu gọt vỏ xong vào rổ rồi đứng dậy đi. Mai ngồi vào thế chỗ, bắt chước tam Mi lặt rau. hình như là cây cải, lá vẫn còn xanh non, cao khoảng hơn một gang tay. Khi ngắt bỏ rễ cây có vị cay hơi nồng. Đầu Mai thấy hơi đau, chầm chậm làm và nghe mọi người nói chuyện. Thỉnh thoảng nghe tiếng bác thợ chính ngoài kia lớn tiếng nói ai đó làm không đúng.

- Tối nay ông nội a Tương đi biển về, sẽ nhanh đến đây giúp nữa.

- Vậy thì chắc vài ngày nữa là xong rồi. Haiz, zzz... Nhà tẩu mới một năm đã xây được nhà riêng, ta thật tốt. Trong làng ai cũng muốn đến xem. Hết mùa đi biển chắc sẽ đến đó.

- Cái gì mà hâm mộ chứ? Dựng nhà này cũng không tốn bạc gì, toàn là dùng đồ xung quanh thôi. Ở đây được cái là có thể làm việc quanh năm, vất vả chút nhưng không đói, không lo là được.

- Thì chính là cái này,

Lưu bá mẫu nhìn nhìn mấy đứa nhỏ rồi thấp giọng nói:

- Vẫn chưa nói với Lê thúc và thẩm sao?

- Haizz,... Lần này Mai nhi té, đã tốn gần hết tiền mang theo. Tối qua nhờ người đưa tin về. Chàng còn không ngủ được mấy hôm nay, làm sao dám nói cái này nữa.

'Hết tiền', Mai chưa từng nghĩ đến phiền toái lớn này. Từ nhỏ đến khi tốt nghiệp ra trường có ba mẹ lo, thỉnh thoảng đi làm thêm chủ yếu là học kinh nghiệm, tiền lương còn không đủ xài. Đến lúc bệnh, tiếp tục được ba mẹ trả viện phí, thuốc men. Nên cô thật sự ít lo nghĩ về việc tiền thiếu hay không thiếu.

Ở nơi này thiếu thốn đủ thứ, đặc biệt thuốc; thầy thuốc càng hiếm và phí chữa bệnh cũng cao. Nhà Mai đương nhiên là nghèo rồi. Mà nhìn mấy ngôi nhà xung quanh đây là mái lá, vách lá, chỉ vài gian phòng thấp cũng đoán được làng này nghèo khó. Có một lang y ở gần đây đã là may mắn lắm rồi.

Theo như Mai biết, khu vực này khí hậu ôn hoà, hai mùa mưa nắng, ít có thiên tai, cây trái - sản vật phong phú. Hơn nữa ở thời này đất rộng, người thưa nên dựa vào tự nhiên vẫn đủ ăn. Nhưng chuyện bệnh tật lại là chuyện lớn. Ai mà không bệnh chứ, mình phải lưu ý hỏi thăm mới được.

- Còn hơn tháng nữa là mùa mưa, bắt đầu gieo lúa, trồng khoai. Nếu không chuyển đến kịp thì phải đợi qua năm mới tốt.

- Ta biết, đành vậy.

Thì ra cha nương muốn chuyển đến đây ở. Không phải đang ở cùng ông bà và mấy nhà thúc bá ở làng chài sao? Người xưa rất thích ở chung một nhà mấy thế hệ, hiếm khi rời quê đi xa. Mai còn nghe nói có nhiều làng toàn là người cùng họ hàng mấy đời nữa. Vậy tại sao cha. nương muốn rời đi? 'bé Mai' này không biết gì hết, chắc còn nhỏ nên không biết những chuyện đã xảy ra. Cũng phải thôi, gia đình lớn, nhiều người thì càng nhiều chuyện phức tạp. Đau đầu ghê!

Cơm trưa hôm nay có cá kho, canh bầu nấu tôm và cải xanh ăn sống chia ra hai mâm. Mâm lớn ngoài sân nhà đang dựng cho mấy ông thợ. Nồi cơm gạo lức hương thơm quanh mũi. Tô cá kho có mấy loại cá, Mai chỉ biết có mấy đầu cá lóc nhỏ hơn tay cô, còn lại nhìn giống cá trám, cá phi. Khu vực này là vùng nước lợ, đi sâu vào Vũng Đông Hồ là sông Giang Thành nước sẽ ngọt; nếu đi dần ra biển hướng làng chài nhà cô thì nước sẽ mặn dần. Gần cuối mùa nắng, nước xuống thấp lại càng mặn hơn.

Thức ăn tươi, ngọt; ăn vào thật thoải mái, mà gia vị thật ít. Nước canh ngọt nhờ tôm và bầu, không cần nêm thêm gia vị ngoài mấy cọng hành lá. Riêng món cá kho chỉ có muối, nước mắm và một ít gừng, hành nên Mai không quen miệng lắm. Thịt cá rất tươi nhưng nếu có thêm chút ớt, đường nữa sẽ rất ngon.

Sau bữa cơm Mai còn phải uống một chén thuốc sắc to, nên cô chỉ ăn vừa bụng. Nương gắp để dành vào chén Mai hai con tôm to, đỏ au. Cái này để ăn sau khi uống thuốc. Chén thuốc đắng rùng mình, ăn vào thịt tôm ngọt đỡ hơn một chút.

Lưu bá vừa ăn xong đi vào dặn:

- Chiều nay nàng và nương a Bình bắt đầu tề lá, ngày mai có thể lợp rồi.

- Ta biết, chàng mời Bùi thúc và mọi người ngả lưng đi. Ta ướp nước lạnh rồi chút nữa dùng.

- Được.

Nhóm đàn bà con gái ăn xong lo dọn dẹp và rửa chén đũa ở lu nước cạnh cầu rạch, để lên sóng chén hong khô. Lưu bá mẫu thay nước ngâm khoai trong chậu.

- Thím và mấy đứa nhỏ về bên kia ngả lưng đi, xế lại qua.

- Được, chúng ta về, thấy bên này làm ta sẽ đi qua.

Lưu bá mẫu còn đưa nương cầm theo cái bình nước được ủ lạnh trong lu. Trời nắng nóng mà uống nước lạnh này vào thì rất đã khát. Nhưng mà nương không cho Mai uống, cô còn bệnh uống nước này dễ sinh bệnh nặng thêm.

Nhóm đàn ông đã trải mấy tấm móp dưới gốc cây mát ngả lưng, Bùi ông và một thúc khác còn hút thuốc lá nữa. Bình ca không ở trong nhóm đàn ông mà theo mấy người Mai về nhà. Trời đang giữa trưa nắng lớn, từng cơn gió từ biển thổi vào mang theo vị mặn nhưng cũng làm mát được ít nhiều. Trước mặt là khoảng xanh mênh mông của những bụi cây thấp mọc hoang, chen vào đó là những khoảnh đất đen thưa thớt đã được cuốc lên chuẩn bị trồng trọt. A Phúc nhảy nhót lại gần Bình ca cười cười nịnh nọt:

- Ca cho đệ đi chung với, đệ phụ bắt cá nhỏ thôi, ha...

- Đệ chỉ dọc bùn thôi, hơn nữa nắng như vậy, dễ sanh bệnh.

- Đệ đội khăn giống như tam Mi tỷ,

- Ha ha, đệ là con gái sao!

Bình ca vừa nói vừa cười hắc hắc rất đắc ý. Tam Mi năm nay mới mười bốn nhỏ hơn Cúc tỷ một tuổi nhưng đã ra dáng thiếu nữ. Từ khi chuyển vô làng Đông Hồ này học mấy cô nương người ta, ra đồng hoặc đi đâu nắng sẽ quấn khăn kín mít khuôn mặt, đôi khi còn đội nón; nếu không tháo khăn còn không biết là ai. Lúc đi tam Mi còn đánh hai tay hay bên sườn rất yểu điệu. Tưởng tượng bộ dáng a Phúc như vậy cả nhà không khỏi bậc cười ha ha.

Nhóc Phúc quê nên xị mặt muốn khóc, miệng đã mếu.

- Đìa gần con rạch phía sau phải không?

Cha lên tiếng hỏi Bình ca.

- Không phải cha, Lưu bá nói hôm nay tát đìa phía trong ruộng trước. Đìa đó nhỏ, cũng gần cạn rồi nên Tương huynh và con làm một buổi chiều xong. Mấy cái đìa lớn gần rạch để dựng nhà xong bá ấy sẽ làm.

- Ừ, con dẫn a Phúc theo đi, mà lúc cạn rồi, trời hơi mát con mới xuống đìa biết không?

Câu sau là cha dặn a Phúc. Thằng bé hớn hở gật đầu lia lịa.

Thì ra là chiều nay Lưu bá kêu Tương huynh và Bình ca đi tát đìa. Đìa là cái ao nhỏ nằm trong ruộng, đất thấp hơn ruộng nên khi mùa nắng nước rút về đìa, cá cũng theo đó rút hết về. Đến cuối mùa, nước trong đìa gần cạn là lúc người nông dân đến 'thu hoạch' rất nhiều cá tôm mà tốn ít công. Mấy con lớn thì ăn, mấy con nhỏ thì mang đến đìa đã bắt thả xuống để dành mùa sau. Thật ra đìa vừa tát xong cạn nước thì hôm sau nước sẽ rút về đó lại nên thành ao nuôi tiếp.Chương 4: Tát đìaCông việc lao động chân tay rất tốn sức, nên dù làm nông, chài lưới đều cần nghỉ trưa. Có người sẽ ngủ một chút, có người không ngủ nhưng ai cũng tranh thủ ngả lưng (nằm xuống). Mai cũng cảm thấy hơi mệt, cộng với tác dụng của thuốc nên vừa nằm xuống đã ngủ luôn.

Giấc ngủ sâu thật có lợi cho sức khoẻ, cô tỉnh dậy thì cảm giác đau đầu gần như biến mất. Trong nhà không còn ai, mặt trời đã nghiêng góc về hướng tây, ánh nắng chói chang. Giờ này khoảng ba giờ chiều rồi. Mai bước xuống, mang giày gai đi lại cái bàn uống nước trong bình. Vừa mang theo bình, vừa lấy cái nón lá trên vách đội lên đầu đi ra ngoài.

Mai bước chầm chậm, cảm nhận từng cảm động ở đôi chân nhỏ, hốc mắt đỏ rưng rưng nước. Sau mấy năm dài chôn mình trên giường nhìn ra cửa sổ, giờ cô lại được bước đi trong nắng, cảm thấy nguồn sinh lực chảy trong từng ngón chân. Hạnh phúc! Đơn giản là đi từng bước trên con đường đất này!

Mai không đi đến nhà Lưu bá mà đi vòng phía sau nhà ra đìa cá. Đất ruộng đã cứng sau mấy tháng mùa khô, cỏ mọc lưa thưa, vàng úa. Trên mặt đất có nhiều lỗ nhỏ là hang của những con còng hay cua gì đó. Chốc chốc trong bụi cây có tiếng sột soạt nho nhỏ. Phía xa xa, có vài người nông dân cũng đang làm đồng, cuốc đất.

Nhóm Tương huynh đã tát gần cạn nước trong đìa. Tương huynh và Bình ca đang múc từng gàu nước từ đìa đổ ra đất trũng gần đó; đất khô hút nước rất nhanh. Gàu nước làm từ lá dừa nước, có cỡ lớn, cỡ nhỏ. A Phúc cả người dính bùn, chụp bắt mấy con tôm nhảy loạn bên mép đìa.

- Muội có mang bình nước đến đó.

Mai đặt bình nước trên tảng đá cạnh bờ đìa, đi đến nhìn vào cái sọt cá. Trong sọt đã có mấy con cá trám trắng lớn, cá lóc trọng trọng.

- Thấy cá trê đang trũi bùn kia không tỷ, có gai đó. Gai chích rất đau.

A Phúc chỉ tay góc đìa đang sủi bọt, leo lên bờ chạy đến, trên hai tay đang cầm con tôm đất lớn, gương mặt hung phấn. Nhóc bỏ con tôm vào chậu rồi qua uống nước.

Kế bên sọt cá có một cái chậu, bên trong có đám bụi cỏ được quay lại, phía trên úp mấy tàu lá chuối. Trong chậu là những con tôm đất xanh nhạt, mấy con cá phi. Tôm rất dễ sặc bùn, nên lúc tát nước người ta cũng sẽ bắt tôm luôn. Ngược lại có mấy loại cá thích chui nhũi trong bùn như cá chạch, cá trê. Nhiều khi phải móc mấy lớp bùn mới bắt được bọn chúng.

- Tương huynh, cá trê.

Tiếng Bình ca la lên khiến Mai và a Phúc quay lại nhìn. Trên mép đìa là con cá trê thật lớn. Nó đang trườn trở lại đìa. Bình ca nhanh tay hất nó ngược lại bờ. Cá trê có ngạnh rất nhọn trên đầu, bị chích vào tay là chảy máu và rất nhức. A Bình sống ở làng chài đâu có rành mấy loại cá nước lợ này. Lúc nhỏ nương có dẫn về quê ngoại ra đồng, bắt cá. Nhưng lúc đó A Bình cũng cỡ tuổi a Phúc nên người lớn đâu có cho xuống bắt cá.

Tương huynh đã nhanh tay nắm hai nắm đất dẻo, chụp lên đầu con cá, kẹp chặt để nó không động được rồi bẻ hai ngạnh cá ghim xuống bờ cỏ cạnh đìa. Thế là xong. Con cá trê bị tước vũ khí, quăng vào sọt, nhảy lên xuống trông rất tức giận. Ba anh em nhìn Tương huynh làm lưu loát thật hâm mộ.

Một lúc sau thì trong sọt đã có đủ loại cá, có nhiều loại Mai không biết tên. Bình ca học rất nhanh, đã thuần thục 'xử lý' được mấy con cá trê rồi. Mai không lội xuống đìa bắt cá mà đứng trên bờ, Tương huynh và Bình ca thảy cá lên bờ để cô bắt bỏ vào sọt. Có mấy con cá rô còn sung sức giương vây trên lưng ‘rẹt rẹt’ hù dọa.

Được gần nửa canh giời, từ xa thấy dáng Lưu bá đang đi về hướng này.

- Được nhiều không?

Mai gật gật đầu nhìn lên, nắng ngược hướng thật chói.

- Gần xong rồi cha.

Tương huynh ngẩng đầu lên trả lời. Lưu bá nhìn vào sọt cười thật vui.

- A Phúc bắt được gì rồi? con cá lóc lớn là con bắt hả?

- Là Tương huynh bắt, con bắt được mấy con nhỏ thôi.

A Phúc cười cười trả lời, vừa thẹn vừa nhìn Lưu bá.

- A Phúc giỏi rồi, lại đây bá chỉ con, nè chỗ có bọt khí nổi lên này thế nào cũng có cá lớn đó,....

Lưu bá rất hay cười hay nói, tính tình thẳng thắn. Đặc biệt bá ấy rất thích a Phúc. Nhà bá chỉ có một mình Tương huynh là con trai, vẫn muốn có thêm con trai nhưng liên tục sinh ra ba cô gái. Lần sinh ra ngũ Mi, bá ấy còn rất thất vọng.

Có Lưu bá hỗ trợ, những sủi bọt không còn nữa, cá lớn nhỏ được hơn nửa sọt tre. Lưu bá nâng cái sọt trên vai, Tương huynh mang cái chậu tôm. Ba đứa nhỏ thì cầm các món còn lại đi về nhà. Tối nay có cá tôm tươi để ăn rồi. Dọc đường đi Lưu bá chỉ Bình ca ôm mấy nhánh rơm khô, cành cây trên ruộng. A, sẽ nướng cá sao? Tuyệt! vậy mà mình không nghĩ ra. Mai hớn hở cười.

Đúng như Mai nghĩ, bữa cơm chiều hôm đó có món cá nướng, tôm nướng. Sân trước có đống lửa lớn, mấy đứa con trai đang ghim ngược đầu cá lóc nướng rơm, tôm thì xâu thành cây nướng trên than đỏ. Sân sau cũng náo nhiệt không kém, nhóm đàn bà, trẻ em bày la liệt mấy con cá nướng, tôm nướng trên lá chuối.

Cơm và mấy món ăn cũng được dọn ra. Mặt trời lặn dần, chỉ còn vài tia nắng ửng sáng trên đám mây cao. Tiếng bìm bịp kêu nước lớn rộ lên từng chặp như hối thúc, báo hiệu mọi người nghỉ tay, đã hết một ngày làm việc vất vả.

Hai hôm nay Mai cố gắng lắng nghe, ghi nhớ cách mọi người nói chuyện, gọi tên cây cỏ xung quanh; cũng nhớ lại gương mặt, câu chuyện trong trí nhớ còn sót lại trong đầu ‘bé Mai”; cách xưng hô, điệu bộ chào hỏi khác nhiều so với hiện đại.

Hai đứa bé nhất là a Phúc và ngũ Mi ăn tôm cá nướng nhiều hơn cơm, sau đó bị bá mẫu và nương ép ăn thêm một chén cơm. Mai đang cầm một xâu tôm nướng, ăn chậm chậm. Vỏ tôm nướng đỏ, có vài chỗ bị cháy khét. Hương vị thật thơm, gạch tôm bùi bùi. Vết thương trên đầu Mai chưa lành, lẽ ra phải kiêng ăn tôm. Ở thời này chắc người ta chưa biết nên nương không ngăn. Mà đã lâu rồi cô mới cảm thấy thèm ăn như vậy, ăn hôm nay thôi, Mai tự nói với mình.

Tuy là chia hai mâm cơm, nhóm đàn ông con trai ở sân trước, nhóm đàn bà con gái ở sân sau nhưng không cách nhau xa lắm, nên tiếng nói chuyện vẫn vọng xuống. Tương huynh nướng xong mấy con lóc đặt xuống tàu lá chuối nói:

- Ông kể chuyện ở miệt trong nghe đi.

Bùi ông uống hết ly rượu, khà mội hơi sảng khoái nói:

- Chuyện gì? Chuyện trong đó nghe cả đời không hết.

Đống lửa nướng ngoài sân trước được thêm củi, ánh sáng bập bùng rọi lên gương mặt những người đàn ông da sạm nắng, vết nhăn trên khóe mắt và miệng chứng tỏ họ cũng có những lúc cười rất vui vẻ; những vết hằn sâu trên trán và ánh mắt đen thẳm, trũng sâu cũng nói rõ họ đã trải qua rất nhiều gian nan, thử thách.

– Muốn nghe chuyện ông ba mươi trong rừng rậm kia không?

Vừa nói Bùi ông vừa hất càm chỉ về hướng khoảng rừng rậm xanh ngút ngàn phía nam, là miệt trong theo cách gọi của người làng Đông Hồ.Chương 5: Chuyện xưaTừ khi cha ông vào đây khai phá, từ ven biển đi lần theo sông rạch vào miệt trong nơi có những vùng đất phù sa màu mỡ, cây cỏ tốt tươi, nước ngọt trong lành quanh năm. Những tưởng đã tìm được miền đất hứa, nhưng rất nhanh họ phát hiện ra nơi đây cũng dung dưỡng các loại động vật ăn thịt đáng sợ. Dưới sông là thuồng luồng, cá sấu. Trên rừng là hổ, gấu, beo, voi. Đó là chưa kể rắn độc, trăn rừng; mùa khô bọn chúng còn ở trong hang, đến mùa nước nổi chúng tràn ra chạy đến các vùng đất cao thành từng đàn.

Lên rừng mà gặp hổ thì chín phần dữ, may mắn lắm mới còn mạng quay về. Không biết từ bao giờ, người ta đã lập miếu thờ hổ và không dám gọi tục danh “hổ” mà chỉ gọi là Ông Ba mươi, và rỉ tai nhau những chuyện kể về ông.

Ánh lửa bập bùng, trăng hạ tuần chưa lên, gió thổi xao xạc trong rặng cây làm câu chuyện xưa thêm kỳ bí. Mấy đứa nhỏ sợ sệt ngồi sát vào người lớn nhưng vẫn mở to mắt, dỏng tay nghe lời Bùi ông kể.

- Gần chục năm trước, thầy ta là thợ cả dựng chùa lớn miệt trong. Lúc dựng chính điện cần gỗ lớn phải tìm trong rừng sâu.

Giọng Bùi ông trầm trầm, như đang tả lại cảnh mười năm trước.

Nhóm thợ mộc cùng nhau mang búa, rìu, cưa vào rừng tìm cây gỗ lớn. Đi từ lúc trời còn sớm đến giữa trưa mới chọn được cây gỗ như ý. Nhóm thợ bắt tay tỉa cành, đốn gốc; đến khi trời tối đã ngã được một cây và một phần thân cây thứ hai. Họ nghỉ ngơi, đốt lửa, nướng thức ăn, còn trò chuyện vui vẻ. Nồi nước trên đống lửa vừa sôi già thì xung quanh bỗng dưng im bặt. Lúc đầu chỉ mình người thợ cả lớn tuổi nhận ra điểm bất thường, ông im lặng lắng nghe, còn ra dấu các chàng thanh niên im lặng.

Trong rừng, dù ngày hay đêm luôn có tiếng côn trùng kêu, sinh vật đi ăn sột soạt trên lớp lá khô; giờ thì im phăng phắc, không có cả tiếng gió vu vu. Mhóm người nhìn dáo dác, kinh nghiệm đi rừng cho họ biết có bất thường. Đống lửa không đủ sáng để nhìn xa, bỗng lóe lên ánh xanh phía xa, từng chút lại gần. Nhóm người sợ hãi đứng quanh đống lửa nhìn ra.

“G r.... ầm...”!

Tiếng gầm cao, vang vang.

“Chết chắc rồi!”

Nhóm người đều nhủ thầm trong bụng, tiếng gầm này là của ông ba mươi rồi!

Nhóm họ có mười người, không biết có thoát được người nào không!

Thợ cả trầm giọng hô nhỏ: “bình tĩnh”. Rồi tự mình nhích lại gần chỗ đặt búa rìu, chuyền tay cho cả nhóm, có vũ khí trên tay, mọi người đều tập trung hướng về phía hai tia sáng xanh lè đang chầm chậm tiến về. Đến khi ánh lửa mập mờ chiếu vào, đúng là một con cọp, nhưng con này còn nhỏ, chưa trưởng thành.

Thợ cả giờ mới biết tại sao ông thấy có điểm kỳ lạ, tiếng gầm không trầm thấp như thường và đôi mắt không cao như ông nghĩ. Dù chỉ là con cọp nhỏ, nhưng không phải là không có nguy hiểm, nó vẫn có sức khỏe phi thường, hàm răng vẫn đủ khỏe để cắn chết con mồi và bốn chân vẫn nhanh nhạy hơn con người nhiều.

Ông đang thầm tính cách thoát thân, thì một người trong nhóm thợ quơ cái búa lên, áng sáng kim loại lóe vào mắt con cọp, nó gầm lên chói lói. Tiếng gầm của nó chưa dứt thì từ phía xa có tiến gầm trầm đυ.c đáp lại.

Lần này thì lành ít rồi! Con thứ hai chắc là cọp mẹ!

Tiếng gió ào ào, lao tới là con cọp to lớn; đôi mắt xanh lóe sáng trong đêm. Nó phóng tới sau con cọp con thì dừng lại, nhìn chăm chú vào nhóm người phía sau đống lửa. Trên miệng nó là con nai bị cắn ngang cổ, máu còn chảy ròng ròng xuống đất.

“Tối nay mẹ con nó có con mồi rồi, sẽ tha cho mình chứ”. Cả nhóm đều nghĩ bụng, vẫn không dám động.

Hai bên “nhìn” nhau giằng co qua đống lửa, được gần một khắc thì đống lửa sắp tàn, thợ cả đang lo lắng không biết mình động thì sẽ gây hậu quả gì; mà họ không thể bất động cả đêm. Con cọp nhỏ không kiên nhẫn như cọp mẹ, nó cúi đầu liếʍ và xé thịt con nai dưới chân; còn rít nho nhỏ qua họng làm mọi người rúng động. Cọp mẹ gầm một tiếng, kéo con mồi lui dần về phía sau, mắt vẫn nhìn về nhóm người như cảnh cáo.

Thợ cả chậm rãi di chuyển nhặt củi khô cho vào đống lửa, ông nói nhỏ:

- Đêm nay thay phiên nhau canh, nhóm hai người; chia thành hai đống lửa, làm chậm thôi. Uống nước, ăn tạm cơm khô đi.

Theo lời ông, cả nhóm chia nhau canh chừng, ăn vội bữa tối rồi nhẹ nhàng nằm ngả lưng giữa hai đống lửa. Nói là thay phiên nhau canh gác, nhưng cả đêm không ai dám ngủ, chị chợp mắt đỡ mệt mà tai thì lắng nghe tiếng động, tay thì lăm lăm vũ khí.

Hôm sau trời vừa sáng, cả nhóm thợ mệt nhoài sau một đêm căng thẳng, một nửa muốn quay về, tìm nơi khác đốn, một nửa thì luyến tiếc cây gỗ tốt. Ông thợ cả im lặng đi vòng quanh chỗ hai mẹ con cọp đứng hôm qua, vết máu con nai vẫn còn đọng lại, mấy con kiến đen đang bu quanh không ngừng ăn ké. Dấu chân cọp mẹ thật lớn, in sâu xuống lớp đất ẩm, xuyên qua lớp lá dày như thế nặng chứng tỏ nó rất nặng.

Ông mang nhang đèn, thành khẩn đốt và khấn: “Ta đang đốn cây về dựng điện thờ Phật tổ, kính ngài nén nhang, bỏ qua để mang mấy cây này về. Sau này sẽ không xâm phạm lãnh địa của ngài nữa”.

Khấn xong ông còn quỳ dâng ba lạy rồi mới đứng dậy tiếp tục đốn cây.

- Làm vậy được không? Tối nay tính sao?

Một người trong nhóm vẫn còn lo sợ hỏi, thợ cả trầm mặt không nói, chỉ càng lo ngã cây, tay búa càng ra sức. Hôm đó mấy người không dám quay lưng đốn củi hết mà để một người canh chừng xung quanh.

Chuyện cọp dữ, trăn nuốt người trong rừng sâu nào cũng có; nếu cứ lùi bước thì sẽ không sống được ở đây. Theo tình hình tối qua, cọp mẹ này đang nuôi con nên nó thận trọng, không say mồi như cọp đực. Chỉ khi đυ.ng đến con cọp con thì mới kích động nó dữ tợn. Cọp cũng sợ chỗ đông người, nhóm ông có mười người cũng có thể ứng phó thêm một đêm nữa.

Mặt trời ngả dần về phía tây, tâm trạng mọi người căng thẳng hơn, ai cũng nhanh tay nhặt củi vun thành hai đống, nhóm lửa, ăn uống vội vã và âm thầm nghe động tĩnh xung quanh. Thợ cả một lần nữa mang nhang đến khấn vái ở chỗ lúc sáng, tiếng lâm râm và gương mặt thành kính của ông như lan ra xung quanh, ai cũng im lặng tập trung làm theo ông.

Đêm cuối tháng, trăng chưa lên chỉ có vài ngôi sao nhấp nháy, màn đêm phủ kín xung quanh. Nhóm người chia nhóm canh lửa, còn lại ngả lưng sát nhau trong im lặng. Thời gian chậm chạp trôi qua, đổi phiên thứ nhất là khoảng giữa giờ hợi; không khí bỗng lạnh giá, im ắng. Cả nhóm người đều bừng tỉnh, căng thẳng nhìn xung quanh; đúng như linh tính chỗ đất hôm qua có hai tia sáng xanh chiếu đến.

Hôm nay chỉ có cọp mẹ xuất hiện, ai nấy đều hơi run sợ lại không dám động. Nó chầm chậm bước qua chỗ thợ cả đốt nhang, miệng quắp một con nai, bước chân nhẹ nhàng không tiếng động trên lá. Tiến được hơn ba thước, nó thả oạch con nai xuống, gầm gừ hai tiếng lớn rồi lui vào rừng sâu.

Đến khi nó quay đi nhanh chóng mất hút trong rừng, mọi gười mới hơi thả lỏng, nhìn chăm chú vào con nai đã chết.

“Cái này là ý gì?”

“Mang con mồi đến cho bọn họ sao?”

Những câu hỏi không lời đáp, quan trọng là không thể để con nai ở đó. Mùi máu tươi sẽ thu hút những động vật ăn thịt khác đến, sẽ gây nguy hiểm cho mọi người. Thợ cả dẫn đầu cầm đuốc tiến lại gần con nai, hai người khác đi theo mang nó về. Một nhóm mấy người xẻ thịt nướng chín, còn đốt lửa để máu con nai cháy hết. Mùi máu cháy khét và mùi thịt nướng thơm lừng, đến đầu giờ tý thì con nai được dọn dẹp sạch sẽ.

Một đêm trải qua căng thẳng nhưng cũng không khỏi phấn chấn. Hôm sau không ai dám nói về hành động của con cọp mẹ, chỉ lẳng lặng làm việc thật nhanh rồi kéo mấy cây gỗ về phía bìa rừng.

Từ hôm đó, tiếng đồn về cọp thiêng ở khu rừng đó lan rộng, nhưng không phải nhóm thợ nào vào rừng cũng may mắn như thế. Mấy năm sau, nhóm người tìm trầm vào sâu trong rừng đó bị hai con cọp to lớn, dữ tợn tấn công; đi vào tám người, lúc ra chỉ có hai người hốt hoảng, trên vai, lưng đề bị vết thương chí mạng; không qua được cũng mất mạng sau đó.Chương 6: Chuyện tiền nongNhà Mai phụ dọn dẹp bếp xong thì cùng nhau về. Lưu bá mẫu đưa rổ khoai đã luộc, tôm cá và một quài chuối mang về.

- Để tối mấy đứa nhỏ đói bụng thì ăn. Sáng mai thím qua đây ăn sáng luôn đi, khỏi nấu mất công.

- Dù sao cũng phải sắc thuốc cho Mai nhi, nấu nồi cơm cũng không lâu gì.

- Ừ, ta biết rồi. Cha a Bình chắc về sau.

Nương và Bình ca ra sân trước chào nhóm đàn ông và báo cho cha biết họ về trước. Cúc tỷ và Mai thì đứng ở lối ra đường đất chờ. Nước đang lớn, gió thổi mạnh hơn. Mặt vũng Đông hồ lăn tăn từng gợn sóng. Xa xa tiếng con chim gì kêu đứt từng tiếng như gọi bầy.

Nhìn về hướng làng Đông Hồ nơi có mấy gian nhà lá, có mấy đống lửa nhỏ đang cháy. Chắc họ cũng nướng cá tôm, ngồi quây quần bên đống lửa ăn cơm, nhanh nhanh kẻo trời tối.

Ngôi nhà cũ của Lưu bá chỉ có một gian chính và hai gian chái. Gian chính có vách ngăn cao qua đầu người ngăn thành hai phần. Phần ngoài là bàn tiếp khách và bàn thờ. Nhà Lưu bá chưa có bàn thờ nên chỉ đặt một bàn nhỏ, cao có lư hưong bằng đất sét. Phía trong gian chính là nơi đặt giường ngủ của cả nhà. Gian chái bên phải thường là bếp, có mấy lu chứa nước ngọt, gian còn lại để các dụng cụ làm ruộng, phía sát vách gian chính thì có che chắn mấy thúng xé bằng tre đựng lúa, gạo hoặc khoai làm lương thực. Nơi này thường phải khô ráo và đề phòng chuột, rắn. Nhà tắm, vệ sinh đặt cách hơi xa nhà, gần mương rạch.

Vừa về đến nhà nương đã bắt a Phúc đến cầu nước tắm lại. Lúc tát đìa xong bé chỉ tắm sơ rồi cùng ăn cơm. Trên tóc và người của A Phúc còn hôi mùi bùn. Cúc tỷ thì mang chậu nước vào phòng trong giúp Mai rửa vết thương trên đầu và lau mình. Nhìn a Cúc mới mười lăm tuổi đã biết chăm sóc người khác, Mai thấy hơi xúc động. Ở tuổi này thời hiện đại vẫn còn được cha mẹ chăm sóc. Sau cả ngày nắng tốt, nước ấm áp không cần phải đun, thật thoải mái.

- Cảm ơn tỷ.

- Hôm nay ngoan vậy?

A Cúc liếc nhìn Mai mỉm cười. A Cúc và Nguyễn thị - nương của Mai rất giống nhau. Cả hai có gương mặt thon thon, da hơi ngăm chắc do sống gần biển. Đôi mắt hai mí to và mày dày như vẽ rất thu hút. Mái tóc đen, suông dài nửa vấn nửa thả phía sau càng tôn lên vẻ dịu dàng, nữ tính. Mai không giống hai người, gương mặt tròn hơn, có thể do còn bé, đặc biệt môi hơi dày lúc nào cũng có nét cười. Mái tóc dài quá vai buộc hai búi bằng dây vải nhỏ. Mặc dù có vết thương nhưng tóc cũng không bị cắt đi. Ở thời này người ta rất kiêng cắt tóc, không phải đại sự sẽ không đυ.ng đến tóc.

Sau khi cả nhà tắm rửa xong thì đem ghế ra sân ngồi, mang theo rổ khoai và nải chuối cắt từ quài ra.

- Mai ăn ít khoai thôi con, tối đừng ăn chuối, con còn yếu.

- Dạ.

- Ngày mai chàng mời Đỗ lang y đến xem lần nữa được không? thuốc đã hết rồi.

Lúc cha về thì trăng hạ tuần đã lên trện rặng dừa ven sông, nương thấy cha bước vào nói.

- Được, qua ngày mai nữa nhà Lưu ca cũng gần xong. Chúng ta về nhà thôi.

- Được, chàng nói Lưu bá, ta sẽ nói tam tẩu.

Ba đứa nhỏ vừa nghe cha nương nói chuyện vừa nhấm nháp mấy trái chuối. Loại chuối này quả không to lắm nhưng có vị ngọt ngọt mặn mặn, do ảnh hưởng nước mặn của vùng này.

- Lưới cá ở đây nhỏ hơn ở nhà mình, nhẹ hơn nữa đó cha.

Bình ca nửa như hỏi nửa như kể.

- Ừ, lưới đánh cá trên vũng này nhỏ, nhẹ hơn. Mà cũng đánh cá được quanh năm. Mùa nước lên có thể đi vào miệt sông bên trong, cá tôm nhiều lắm.

- Nhà Lưu bá xin khẩn hoang được hơn năm mẫu ruộng lúa, khoai. Năm nay chắc sẽ bận bịu lắm.

-........

Cả nhà mỗi người một câu đến khi cha rửa mặt, tắm rửa xong vào nhà chuẩn bị ngủ thì ngưng. Ánh sáng trăng già lạnh lẽo rải trên mặt Đông Hồ. Mấy con muỗi bắt đầu vo ve xung quanh. Cúc tỷ nhóm bụi xả trong phòng xong thì cả nhà vào trong, đi ngủ. A Phúc đã gọn gàng lên giường, cả ngày nay chạy loạn nên chắc mệt mỏi lắm rồi.

Mặc dù buổi trưa ngủ nhiều, Mai vẫn ngủ rất nhanh. Cơ thể cô vẫn cần nghỉ ngơi thêm. Tiếng côn trùng râm ran như điệu ru buồn tẻ.

Sáng hôm sau, nương dẫn Cúc tỷ ra hái mấy đọt rau non ngoài vườn. Cơm sáng là rau nấu canh tôm với cá kho. Cha muốn ăn cơm sớm hơn chút để đi đến nhà vị lang y mời đến xem bệnh cho Mai. Sương mai vẫn còn là đà trên mặt nước.

Nương và Cúc tỷ mang chậu giặt quần áo ra cầu nước. Cầu nước là hai miếng gỗ rộng cỡ gang tay ghép lại bằng dây đai. Cầu dài khoảng hơn năm thước (1 thước đất = 0,47 m). Một đầu cầu ghim chặt xuống mặt đất, đầu còn lại đưa ra mặt nước. Đầu cầu này có gắn thêm miếng gỗ lớn để chậu giặt đồ hay hoặc người đứng trên đó. Tối qua, cha và Bình ca đều đứng tắm ở đây.

Mai thấy nương và Cúc tỷ vò một loại trái khô cho ra ít bọt rồi giặt chung quần áo trong chậu. Các tiện nghi ở đây thật ít, súc miệng bằng nước muối loãng, tắm nước sông lóng phèn trong lu; nấu ăn bằng nước mưa, có nhà không có lu đựng nước thì dùng nước sông lóng phèn nấu ăn luôn. Phụ nữ thỉnh thoảng gội đầu bằng trái cây khô (là trái bồ kết phơi khô - nướng than) ra bọt tương tự như loại dùng giặt quần áo, nhưng có mùi hơn một chút.

Lúc cha về thì mặt trời đã lên, sương đã tan dần. Đỗ lang y đi phía sau cha, vai quàng hộp gỗ chữ nhật đã cũ. Cha nương bận rộn mời lang y ngồi, rót nước mát rồi kêu Mai ngồi xuóng ghế đẩu gần đó. Vị Đỗ lang y hơn bốn mươi tuổi một chút, có một chòm râu ngắn dưới cằm. Giọng nói ông khác so với gia đình Mai. Ông từ vùng khác đến đây được 2-3 năm. Mà ông cũng hay đi lại nhiều nơi, có khi đi tìm mua thuốc, hái lá thuốc hoặc trị bệnh cho người bệnh ở xa. Mấy ngón tay ông dài, có vết nâu trong móng tay chắc là nước thuốc. Ông nhìn kỹ gương mặt Mai rồi gật gật đầu.

- Không tệ, hồi phục rất nhanh.

Sau đó ông mới vạch vết thương trên đầu Mai xem xét. Mai rất muốn hỏi về khả năng tụ máu trong não hay di chứng. Nhưng cô bâng khuâng không biết ông hiểu không? Hơn nữa mấy kiến thức này không phải ai ở thời này cũng biết.

- Sau này, sau này cháu có bị đau lại không?

Mai rất khéo léo chọn từ.

- Có lúc cháu quên, hơi choáng váng nữa.

Đỗ lang y nghe vậy cũng không nhăn mày, mà đưa tay bắt cổ tay phải của cô. Mai điều hoà hơi thở, lặng im chờ khoảng vài phút. Đỗ lang y buông tay đứng dậy nhìn cô. Phía sau ông cả nhà Mai đều trông mong nhìn, chờ nghe ông nói.

- Vết thương bên ngoài không sao rồi, tâm mạch điều hoà. Ta sẽ kê thêm đơn thuốc uống thêm ba thang nữa.

Ông ngưng một chút rồi chậm rãi nói tiếp:

- Sau này có choáng váng hay buồn nôn thì đến tìm ta.

- Được, tạ ơn lang y.

Đỗ lang y đi đến cái bàn, tự mình bốc thuốc chia làm 3 gói đưa cho nương Mai. Bà nói cảm ơn, đưa tay nhận thuốc. Sau đó bà nhìn chồng như hỏi ý. Ông gật đầu rồi rót thêm nước vào ly cho lang y.

Ba đứa bé nghe lang y nói thế cũng yên lòng, biết ý cha nương nên cùng nhau vào gian trong. Nương Mai cũng đi vào hướng mấy cái túi, lấy trong đó ra một cái túi vải nhỏ. Mai kéo tay Cúc tỷ, nói nhỏ vào tai tỷ:

- Nhà mình còn tiền không tỷ? Tiền thuốc cho muội hết bao nhiêu?

- Lúc đi ông nội đưa hai xâu tiền mua gạo mang về, thuốc và tiền chữa bệnh cho muội hơn một xâu.

Mai thở dài.

- Gạo ở đây giá rẻ hơn ở làng mình, cha nói còn bao nhiêu tiền thì mua hết, mua được một tạ (1 tạ =10 yến = 100 cân = 60kg).

Bình ca ngồi nghe hai tỷ muội nói chuyện cũng lên tiếng. Chắc cha nương đã có tính toán.

- Về nhà ông nội sẽ la đó.

- Cũng chịu thôi, hôm đó muội làm cả nhà hoảng hồn. May mắn là bây giờ muội không sao.

Bên ngoài cha nương đang tiễn lang y đi về. Cúc tỷ vội ra ngoài dọn cơm sáng lên bàn. Mai và a Phúc đã ăn cơm trước giờ đang cắt mấy trái chuối chín mang lên bàn.

- Con ngồi đi, nếu có choáng váng hay buồn nôn phải nói nương biết nghe không?

- Dạ.

Mai không nhịn được nên hỏi:

- Nương, mình còn bao nhiêu tiền?

- Hả? còn 78 văn.

Nương nghĩ nghĩ rồi trả lời. Bình thường Mai không hỏi về tiền bạc trong nhà. Con bé mới mấy tuổi, đâu biết cái này, chưa chắc đếm được đến 100 nữa là. Lần này nó bị thương, tốn không ít tiền nên mới hỏi.

- Trưa nay nương đi mua gạo tẻ và khoai lang, ngày mai mang về cho ông nội. Bà nói tiếp, vừa nhìn như hỏi ý chồng.

- Ừ, nàng mua một tạ gạo tẻ, còn bao nhiêu thì mua khoai hết. Lúc bà nội A Bình hỏi ta sẽ giải thích.

- Dạ.

- Đi qua Lưu ca đi, lúc nãy ta về ngang thấy Bùi bá đã đến rồi.

Cả nhà vội vàng lấy nón, khăn, khép cửa nhà, nối đuôi nhau đi ra. Nương nhét túi vải tiền vào trong ngực áo. Áo thời này có thắt lưng nhỏ và được choàng sang một bên. Phía bên trong hay may thêm một túi nhỏ đựng tiền, khăn tay hay các thứ linh tinh.

Nắng sớm ấm áp, gió thổi nhè nhẹ như trôi đi những lo toan, bắt đầu ngày làm việc bận rộn. A Phúc cúi đầu tìm cỏ gà, chốc chốc dừng lại nên tụt xuống cuối hàng. Mai vừa đi vừa nhớ lại cuộc nói chuyện của cha nương vừa nãy. 78 văn mua được một tạ gạo và khoai lang nữa, tiền ở đây thật có giá. Nếu là tiền đồng (đúc bằng đồng) thì càng có giá hơn.

Đi xa như vậy mà còn muốn mua gạo, khoai mang về. Vậy chắc giá gạo ở làng chài cao hơn, cũng phải thôi, ở làng chài ven biển, kế đó là mấy dãy núi, tuy không cao nhưng cũng không thích hợp trồng lúa hay khoai. Dân làng chài muốn tiết kiệm thì sẽ đi vào các làng vũng này để mua gạo, khoai, mấy loại trái cây hay kim chỉ, vải vóc.Chương 7: Về làng chàiDựng nhà ở đây cũng đơn giản nên làm rất nhanh. Mới hôm qua còn đặt đòn tay thì hôm nay đã bắt đầu lợp lá. Lợp mái, dựng vách xong thì đắp nền, gắn cửa là xong ngôi nhà rồi.

Không khí ngoài sân nhà mới thật náo nhiệt, sáng sớm trời mát tinh thần mọi người hăng hái. Hơn nữa, sau một đêm ngủ ngon thì năng lượng cũng tràn trề.

- Đến rồi à, ta chờ ngươi gọt đầu cột này. Tam Lưu này làm chẳng đẹp gì cả.

Bùi thợ mộc từ xa nhìn thấy cha Mai đã lên tiếng.

- Được, ta đến đây.

Cha Mai cùng Bình ca đưa tay cột lại khăn đầu, vội vàng đi đến. Từ nhỏ a Bình giống như cái đuôi của cha. Là con trai đầu của ông nên đi đâu làm gì cũng mang theo. Mặc dù a Bình nhỏ tuổi hơn Cúc tỷ nhưng hiểu biết hơn nhiều. Một phần là được cha dẫn đi ra ngoài làm việc, gặp người; một phần là bản thân a Bình cũng học nhanh, chú ý nghe mọi người nói chuyện.

A Phúc cầm một nắm cỏ gà đến rủ tứ Mi chơi. Nhóc cũng khôn lõi chọn những cọng mập mạp, khoẻ mạnh trước mà làm bộ như chia đều. Mai cười cười liếc nhóc. Tứ Mi lần đầu chơi cỏ gà, rất phấn khích, thua thì nhăn mày, thắng thì cười ha ha. Đứa nhỏ ngũ Mi thấy vậy bò đến nhìn nhìn rồi chộp lấy cỏ gà trên tay chị. Ba đứa nhỏ quấn thành một cụm rối rắm làm mọi người nhìn đều cười.

Nương và Lưu bá mẫu vấn khăn, đội nón đi ra sân nhà mới. Hôm nay lợp mái, có một người đứng ở dưới chọn từng cặp lá đưa lên cho người đang ngồi trên mái. Người này sẽ lợp lá theo từng lớp, rất dày để không bị dột hay nắng rọi, dùng sợi dây lạt buộc vào các cây đòn tay. Người lợp lá cần có kinh nghiệm và cẩn thận, từng hàng lá phải đều và đẹp, dây buộc cũng phải đều tay, chắc chắn. Khi lợp xong, từ dưới nhìn lên từng hàng dây buộc đều đẹp, chắc tay sẽ biết chủ nhà có mời được thợ giỏi hay không? Nhà được dựng tốt hay không liền.

Hôm nay nương và Lưu bá mẫu đứng dưới trao lá cho Lưu bá và một người đàn ông tên Mã Thanh, nhà ở phía nam làng Đông Hồ.

Tam Mi và Cúc tỷ đang xếp mấy bó dây lạt ra phơi ở sân sau. Mai ra sân nhìn một lúc thì đi vào bếp xem nhóm a Phúc. Mấy cọng cỏ đầu gà đã gãy hết, bị quăng ra ngoài cửa. Tứ Mi bế em đặt trên nền đất trống giữa nhà, đưa cho bé mấy trái dừa nước, mấy trái cau khô chơi. Cô bé lấy chậu xúc hai gáo đậu xanh vào, cũng ngồi gần đó lựa đậu.

Mai đi đến cùng làm. Đậu xanh trồng trên ruộng hái về, tách hạt xong lựa bỏ hạt sâu mang cất. Tuy nhiên, trước khi nấu cũng phải lựa lại lần nữa. Mấy hạt thâm nâu, bị sâu cắn bỏ ra, mang đậu ngâm nước, thấy hạt nào nổi lên cũng bỏ ra luôn. Ngâm nước mấy giờ cho đậu mềm thì nấu chung với khoai, đường là món chè đậu xanh khoai. Mấy đứa nhỏ rất thích món này, nhưng không được ăn thường. Khoai rất rẻ, đậu xanh mắc hơn một chút nhưng có thể tự trồng, mắc nhất là đường. Một cân đường giá bằng mấy cân gạo, mà không phải làng nào cũng có bán. Cho nên món chè đậu này chỉ dùng đãi khách, nhà có tiệc hay lâu lâu người lón thương nấu cho con nít ăn một lần.

Tam Mi và Mai vẫn còn lựa đậu thì Nương và Bình ca đi vào. Nương đưa túi tiền cho Bình ca rồi dặn:

- Con mua trước một tạ gạo, còn lại một nửa là mua khoai lang, một nửa mua khoai mì.

- Con nhớ rồi. Nương nói Tương huynh chờ con đầu đường, con về lấy ba cái bao.

- Ừ, con đi đi, nhớ cẩn thận.

Nương dặn dò thêm mấy câu nhớ buột chặt bao,... mới thả Bình ca đi. Mai muốn đi theo nhưng nghĩ lại vết thương nên thôi. Lần sau sẽ có cơ hội đi, nếu cha nương đã muốn chuyển đến đây ở thì chắc chắn sẽ có lần sau. Mai không nhớ rõ 'hoàn cảnh' ở làng chài cũng như lý do cha nương muốn dời đi nên cô không biết là tốt hơn hay không.

Chiều hôm đó, nhà Lưu bá nấu chè đãi mọi người, mấy đứa nhỏ rất háo hức. Mỗi đứa được một chén chè đậu, đường hơi ít nhưng chính vì vậy mà mùi đậu thơm lừng, khoai vừa chín tới dẻo ngon. Lưu bá mẫu cũng để dành mấy chén cho nhà thợ nào có con nít.

Sáng mai nhà cô sẽ về làng chài sớm, nên cha còn ở lại trò chuyện và chào nhóm thợ đàn ông. Lưu bá mẫu đưa khoai, chuối, cá muối cho nương mang về, còn cho một túi đường nhỏ nhưng nương từ chối. Mấy cái kia là của nhà trồng thì nhận được, còn đường thì phải mua giá cao, làm sao nhận của Lưu bá mẫu được.

- Nhà thím đến đây giúp, A Mai còn bị thương nữa, cầm về nấu chè ăn, ngại gì.

- Tẩu cho nhiều lắm rồi, đường giữ lại đãi khách, cho ngũ Mi nữa.

- Ta mong nhà thím đến đây, ở gần mà thân nữa còn giúp đỡ nhau. Người ở đây mới quen sao bằng hai nhà chúng ta.

Lưu bá mẫu nhỏ giọng nói. Mai thấy nương hơi nhăn mày rồi thở dài.

Chào hỏi, dặn dò xong thì trời cũng đã ngã bóng dài. Nhìn nương, Cúc tỷ, Bình ca tay xách tay mang đủ thứ Mai cũng thấy vui vui. Người nhà Lưu bá thật biết quan tâm. Trong nhà có gì đều mang ra cho nhà Mai. Tấm lòng này làm người ta thấy thật ấm áp.

Đến đây mới hai ngày, chỉ qua lại con đường này, nhìn phong cảnh xung quanh chỉ bấy nhiêu mà Mai có cảm giác rất gần gũi, thân quen. Ngày mai trở về làng chài rồi, bỗng nhiên lưu luyến, muốn nhìn nhiều thêm một chút, muốn thời gian dài thêm chút nữa. Phía xa trên vũng Đông Hồ có dáng một chiếc xuồng ba lá đang đi về phía làng trong.

- Cha, phía kia có chiếc xuồng. Cha đã đi đến xa trong đó chưa?

Mai hưng phấn hỏi cha, a Phúc quay nhìn về phía đó, nghiêng đầu chờ cha trả lời.

- Chưa đi xa như vậy. Ông nội con thì đã ở đó lúc nhỏ đó.

- Phải rồi tỷ, có lần ông kể trong đó có cá sấu, có ông ba mươi nữa. Chúng ăn thịt người ta đó.

A Phúc nghe cha nhắc thì chen ngang nói, nhóc sợ nhất mà cũng thích nhất nghe kể chuyện cọp, cá sấu. Mai bỗng nhớ đến Bác Ba Phi trong các câu chuyện ở Miền Tây, nếu có Bác Ba ở đây chắc nhóc Phúc thích mê luôn.

Cả nhà dọn và phân chia các túi riêng nặng nhẹ khác nhau để sáng mai mang về làng chài. Túi nặng nhất đương nhiên là của cha mang, là bao gạo. Gạo đã được giã bằng cối đá nên không sạch vỏ và trắng tinh như hiện đại mà vẫn còn lớp vỏ vàng nhạt. Nương mang túi khoai mua và một túi nhỏ hơn là khoai nhà Lưu bá cho. Hai túi quần áo do Cúc tỷ mang. Bình ca thì vác một quài chuối lớn, loại này giống chuối sứ, nhưng trái không to bằng hiện tại. Mai nghĩ mấy loại rau quả này mọc tự nhiên, không phân bón nên trái chỉ vừa vừa, lúc chín cũng không chín đều mà những nải ở đầu chín thì những nải ở cuống vẫn còn xanh.

Mai và a Phúc mỗi bé mang một cái rổ tre. Mỗi rổ chứa nhiều gói lá chuối có tôm rang muối, cá kho, đậu xanh,... Sáng mai sẽ hái rau cải xanh sân trước nữa. Dù mới đi xa mấy ngày mà hình như ai cũng nhớ nhà, trên mặt mọi người đều vui vẻ.

Một đêm bình yên cũng trôi qua. Trời chưa sáng cả nhà đã thức dậy. Nương và Cúc tỷ quét dọn nhà, lau chùi bàn ghế, sắc thuốc cho Mai xong thì trời cũng đã hửng sáng. Ăn vội hai chén cơm, gói một ít cơm và khoai nấu mang theo vào rổ thì cùng nhau đóng cửa rời nhà.

Gió sớm mang theo hơi lạnh làm Mai khẽ rùng mình, hơi lạnh nhưng cảm giác thật thoải mái. Bước trên con đường đất cỏ ướt sương mai, cô khẽ nhủ 'về nhà thôi'.

Đến nhà Lưu bá chào tạm biệt, quay lại một chút đường đất, đến ngả rẽ thì đi về phía bắc để ra khỏi làng Đông Hồ về làng chài, về phía biển Hà Tiên.Chương 8: Đường quêĐi được gần nửa canh giờ (một canh giờ là hai tiếng thời hiện đại) thì đến ngả ba vào con đường lớn, cũng là đường đất nhưng hai bên đường có những khối đá chặn như một dạng bờ kè thô sơ. Đường rộng cỡ tám thước (một thước đất = 0.47m) nằm cách bờ nước hơi xa. Có những đoạn đường gần bờ nước thì có thể thấy nước đang lớn, dòng nước đυ.c từng ngày bồi thêm phù sa cho bờ bên này. Những rặng dừa nước xanh tưoi men theo bờ sông, lá dừa xào xạt như đang trò chuyện cùng gió.

Mặt nước mênh mông không thấy bờ bên kia, chỉ thấy xanh xanh từng mảng cây, xen lẫn là vài khoảng đất bùn màu xám, không biết bên kia có nhiều làng xóm chưa? Con người thích sống quần cư, và có như vậy mới có thể sinh tồn, phát triển. Ở đây đất rộng người thưa, cảm giác con người thật bé nhỏ, đơn độc.

A Phúc đã không chạy lon ton tới lui như lúc nãy mà có vẻ thấm mệt rồi. Dù sao cũng chỉ là đứa bé sáu tuổi. Cha nương đợi đến mấy góc cây to, rễ lồi lên mặt đất mới bảo cả nhà dừng lại.

- Đúng rồi đó, cậu thương tỷ hơn đệ nhiều.

A Phúc nghe hai chị em nói chuyện cũng chen miệng vào, mặt còn nhăn nhăn phân bì. Cậu hai không có con gái, bốn đứa con trai làm cậu 'ngán' nên rất thích hai đứa cháu gái. Đặc biệt Mai còn có nét giống cậu nữa, lại càng được thương.

- Hai năm rồi không gặp cậu. Nương năm nay có về ngoại không?

Cúc tỷ hỏi.

- Chưa biết nữa, phải gần Tết mới tính.

Nhà ngoại ở 'miệt trong' là tên gọi vùng phía trong từ sông Giang Thành đi vào nam, cách làng chài hơn ba ngày đi đường, mà chủ yếu đi bằng ghe dọc theo các con sông. Do vậy cả nhà lâu lâu mới được về nhà ngoại. Không riêng gì nhà Mai, những nhà khác có con gái gả đi xa đều vậy.

Mai nhìn a Cúc đang ngồi nhìn ra con sông rộng, đôi mắt đen long lanh nhấp nháy trong nắng, có mấy giọt mồ hôi rịn ra dưới chân tóc. Gương mặt Mai và a Cúc không giống nhau nhiều lắm; có lẽ do Mai giống cậu hai nhà ngoại nhiều hơn. Mặt nương và a Cúc hơi giống nhau, hàm thon nhỏ, sóng mũi không cao lắm, cánh mũi hơi to; mày như vẽ dài qua đuôi mắt rất đẹp. Cúc tỷ mới mười lăm, nét mặt thiếu nữ căng mịn đầy sức sống. Con gái làng chài nên nước da không trắng mà ngăm ngăm khỏe khoắn.

Mai thích nhất mái tóc dài, thẳng và đen mượt của nương và a Cúc. Nương hay bới tóc phía sau đầu lúc làm việc, a Cúc thì xõa dài giữa lưng; những lúc ngồi đan lát nhà sau, mái tóc theo gió nhẹ bay làm cô mê mẩn. Mai mới hơn tám tuổi nên tóc chỉ vừa qua vai, hôm nay đi xa trời nắng nóng cô đã thắt hai bím nhỏ thật gọn gàng hai bên vai.

Bình thường a Cúc hơi ít nói, làm việc chăm chỉ; giống như nương và Lưu bá mẫu trong tay luôn có việc; nấu nướng, giặt giũ, đan lát, may vá. Nghe Lưu bá mẫu nói là chuẩn bị làm để vào mùa lúa sẽ không kịp. Nói vậy là đến mùa lúa sẽ bận rộn hơn nữa; làm ruộng bằng sức người chắc là vất vả lắm!

Nghỉ ngơi một lát lại tiếp tục lên đường, con đường và dòng sông như đang chơi trò rồng rắn cứ uốn lượn cùng nhau. Có lúc cách nhau rất xa, có lúc lại gần nhau chỉ cách một mảng hẹp cây lát hoặc cây bần. Rải rác là những làng nhỏ người dân sinh sống, có khi là một cụm hơn mười mái nhà, có khi chỉ lơ xơ hai ba mái nhà.

Khoảng hơn môt canh giờ thì cha và Bình ca lại ghé vào nhà gần đường xin nước uống. Có một nhà chỉ có đứa bé lớn hơn a Phúc ở nhà. Nhóc chỉ đưa cái gáo dừa và chỉ nước trong lu trước nhà. Nhà Mai cũng tự nhiên múc nước uống, cho nhóc một trái chuối và củ khoai lang rồi rời đi.

Gần trưa ghé vào một xóm có ba gian nhà thì gặp gia đình nhỏ. Người đàn ông trẻ tuổi nồng nhiệt mời vào trong, rót nước mời cả nhà. Cả hai người hỏi thăm nhau ở đâu, đang đi đâu. Mai để ý thấy người phụ nữ đang mang thai nói chuyện giọng cao như đang hát, nước da đen và đôi mắt rất to. Bà ấy chắc là người Chân Lạp (người Khơ me, Campuchia xưa).

Trên sân là mấy hàng lát đang được phơi khô để đan đệm, đan giỏ. Sau nhà thúc ấy có năm sáu cây thốt nốt già, thân to, ngọn cao vυ't lên trời. Trước khi rời đi, nương Mai để lại nhà họ một gói tôm khô một gói đậu nhưng cả hai người đều không nhận, ngược lại còn nhét vô tay a Phúc một ống tre bên trong có chứa nước cây thốt nốt. Nhà Mai cảm ơn rồi chào xin phép đi, người đàn ông - gọi là Tiêu Ân - còn dặn cha nương khi nào đi ngang thì ghé thăm họ.

Mùa khô đất nứt nẻ chạy thành lằn dài nhìn từ xa đen ngòm như con rắn, đường này chắc không nhiều người qua lại nên dấu vết rất mờ, có đoạn đám cỏ lát mọc tràn qua không thấy lối đi. Nếu mùa mưa chắc sẽ lầy lội và bị cỏ mọc lấn hết lối quá.

Ở chỗ nhóm cây xanh, Mai phát hiện một cây ổi hoang, trái chín thơm lừng đang bị mấy con chim nhỏ giành ăn. Cô kéo tay a Phúc chạy đến, cây ổi hơi cao sợ a Phúc leo té nên đành phải nhờ Bình ca đến hái. Trái không to lắm, nhưng ăn rất ngọt, phía cao là những chùm to, trái xanh vừa giòn hơi chua. Loại ổi hoang này rất nhiều hột, phần cơm mỏng dính, thấy Mai bỏ hột chỉ ăn phần cơm a Phúc cười ha ha trêu chọc, ý nhóc là lõi hột mới ngon, chua chua ngọt ngọt.

Chân Mai mỏi rã rời, đầu bắt đau âm ĩ, cô ráng bước đều, giữ nhtho73o73. Bây giờ mà dừng lại chắc nàm xuống luôn!

Xế chiều thì đến biển, tiếng sóng vỗ rì rầm. Qua khỏi đồi thấp đá dựng sát biển, phía xa bên trái là hai núi đá dựng đứng giữa biển, đúng là Hòn Phụ tử rồi! Vị trí hòn có vẻ xa bờ hơn so với ở hiện đại. Dù sao cũng cách biệt hơn ba trăm năm, biển dâu thay đổi là chuyện có thật. Nghe nói phía đó là bãi bồi, mỗi năm phù sa bồi đắp thêm một ít, mấy trăm năm sau khoảng cách hòn Phụ tử gần bờ hơn cũng đúng.

Mai vừa đi vừa ngoái nhìn hòn Phụ tử, cảm giác “quen thuộc” làm cô thở nhẹ, ít ra mình cũng “biết” một chút về nơi này, hơn ba trăm năm sau mình đã từng đến đây! Nghe có vẻ lạ, cũng thấy hơi phấn khích! Mai không khỏi nhẹ mỉm cười!

Đoạn đường này rất khó đi, quanh co theo triền dốc; một bên là núi đá dựng, một bên là bờ biển đá lổm chổm. Nếu đi bằng ghe sẽ nhanh hơn nhiều, còn có thể lợi dụng thủy triều đẩy ghe xuôi dòng.

Đến khúc quanh qua một khúc quanh là làng chài nhà Mai. Trời nắng to, gió biển mang hơi mặn thổi vào làm rát da. Nhưng cũng mang niềm vui về nhà cho mọi người. A Phúc hết nhăn nhó mà hớn hở chạy nhanh về trước. Đôi chân Mai như nhũn ra, dọc đường cha muốn cõng Mai vì sợ cô quá mệt, bệnh còn chưa hết; nhưng Mai không chịu. Cô vẫn cảm thấy hơi “xa lạ” với cha nương mới.Chương 9: Nhà nộiLàng chài nằm sát chân núi, ở khoảng đất bằng có hơn hai mươi nhà. Rải rác dọc theo bờ biển từ đây đến núi Lộc Trĩ cũng có mấy xóm chài khác, ít nhà hơn. Làng chài không được bố trí theo hình gì mà cứ phát triển theo tự nhiên, nhà nào đến chọn một khoảng đất dựng nhà, có sân trước sân sau. Người đến sau thì tiếp theo đó mà dựng.

Nhà Mai nằm phía trong gần chân núi, nghe nói là ông cố Mai mang theo con trai di dân từ miệt trong ra biển mấy chục năm trước, định cư ở đây. Lúc đó ông nội mười mấy tuổi. Năm nay ông đã gần sáu mươi tuổi, ông vẫn rất khoẻ và là trụ cột trong nhà.

Con đường dọc theo biển để vào làng chài vắng vẻ, thời điểm này đàn ông thanh niên thì nghỉ ngơi chuẩn bị tối đi đánh cá, đàn bà con nít còn ở trong nhà tránh nắng. A Phúc chạy lên trước vào cổng.

- Bà nội, bà nội, cháu mới về.

- Ừ, về rồi hả. Sao không đội nón?

Tiếng hai bà cháu nói chuyện mang theo nhiều bước chân. Liền đó là hai bé trai chạy nhanh ra. An ca năm nay mười hai tuổi, Vĩnh ca mười tuổi là anh tư và anh năm của Mai. Cả hai đều gầy, cao hơn Mai một chút.

- Cha, nương!

Hi cậu nhóc vừa cười nhe răng vừa gọi. Vĩnh ca chạy đến lấy cái rổ tre trên tay Mai. Theo trí nhớ thì Mai và A Vĩnh rất hợp ý nhau. Cậu nhóc rất thương và nhường nhịn Mai.

Sân trước nhà rộng cỡ hai miếng (1 miếng = 36m2). Phía bên trái là mấy tấm lưới đang phơi, có lớn có nhỏ. Bên phải có hai đống củi, một cái chòi lá nhỏ cũng chứa củi. Bắt đầu từ tháng năm là mùa mưa, dân sống ở đây phải cất củi để nấu ăn vào những ngày mưa bão.

Căn nhà lá năm gian hai chái quay mặt ra hướng biển. Hàng hiên trước nhà hơi thấp. Bà nội đang đứng với A Phúc trước hiên.

- Nương,

- Bà nội.

Cả nhà Mai đi đến thưa bà. Bà nội lưng hơi còng, gương mặt cười tươi mang theo nhiều nếp nhăn ở mắt và khéo miệng. Bà là vợ thứ hai của ông. Bà nội lớn mất khi tam bá mới ba tuổi. Ông cưới bà về sanh được cha, ngũ cô, lục cô và thất thúc. Thất thúc chỉ bằng tuổi Bình ca nhưng cao và khoẻ mạnh hơn.

- Vào nhà đi, nắng quá, để nương lấy nước uống đỡ khát.

- Nương, để con đi lấy.

Nương Mai vội vàng nói rồi đi xuống nhà sau. Mọi người vừa để đồ đạc xuống vừa trò chuyện, nương chưa kịp xuống lấy nước thì lục cô đã mang nước lên. Lục cô đã mười bảy tuổi, cao ráo lanh lợi, được cả nhà yêu thương. Bà nội nắm tay Mai kéo cô ngồi xuống giường.

- Cho nội coi vết thương coi, còn đau không?

- Dạ không nội.

- Tội không, mai mốt phải cẩn thận, chắc là có sẹo rồi.

Lục cô, hai anh cũng đi qua xem. Nhị bá mẫu, tam bá mẫu từ nhà sau đi lên cũng đến xem. Thật ra vết thương không rộng lắm, mới kết vảy vẫn còn ê ê do đang đắp thuốc nên nhìn lẫn lộn nước thuốc và máu, chắc là sẽ có sẹo, nhưng Mai cũng không để tâm.

- Sao lại té vậy? Tứ đệ cho người nhắn về, làm ông bà lo lắng, mà tốn hết nhiều tiền thuốc như vậy?

Mai nghe tiếng tam bá mẫu khàn giọng nói.

- Có mời lang y bốc thuốc, còn bao nhiêu tiền đệ mua gạo và khoai theo cha dặn.

- Được rồi, uống nước, nghỉ ngơi chút đi. Giờ này cha con cũng sắp về rồi.

Bà nội lên tiếng dặn rồi hối mọi người ai làm việc nấy.

- Cả nhà đi đâu rồi nương?

Ý của cha 'cả nhà' là chỉ ông nội, nhị bá, tam bá và mấy đường ca; vì hầu hết thời gian trưa và xế chiều đám đàn ông sẽ ngủ hoặc nghỉ ngơi lấy sức tối đi đánh cá, giăng lưới.

- Tối hôm qua ghe mắc đá, bị nứt một đường, cha và hai anh con kéo lên bãi cạn trét lại, chắc sắp về rồi. Tối nay chắc không ra biển.

- Nứt lớn không nương?

- Không sao, ghe cũng cũ rồi, cần sửa nhiều chỗ nữa.

- Mấy hôm nay đi biển nhiều không?

- Cũng như mọi lần, bán một ít cá lớn sáng nay, nhị tẩu đang làm cá nhà sau đó.

Cha và Bình ca mang gạo khoai vào để trên sạp gỗ thấp bên chái nhà. Nương, Cúc tỷ cất quần áo vào phòng rồi vội ra nhà sau rửa mặt.

- Nhà Lưu ca có gửi cho mấy bao khoai, đậu, rau, con để dưới bếp được không nương?

- Được, mang xuống đi.

Nhị bá mẫu thấy quài chuối đã chín mấy nải, quay hỏi bà nội:

- Con bẻ nải lớn để trên bàn cho cha, nương. Mấy nải trái nhỏ cho mấy đứa nhỏ?

- Ừ, để trên bàn hai nải lớn chín đó đi.

- Dạ,

Nhị bá mẫu lấy dao cắt gần nửa quài đã chín ra, chọn hai nải ngon nhất để trên bàn rồi mang hết xuống nhà sau. Mai theo lục cô và Cúc tỷ vào phòng. Phòng này nằm phía sau chái nhà, là phòng của nhóm con gái có lục cô, Cúc tỷ, Lan tỷ - con của nhị bá, Trúc tỷ - con của tam bá và Mai. Phòng không lớn, để hai cái giường tre và hai tủ tre. Tủ chia mấy ngăn chứa quần áo của mấy cô cháu. Phòng có một cửa sổ nhỏ hướng phía sân sau. Mai kiệt sức ngả lên giường nằm im. Cúc tỷ giúp cô cởi giày, dịch người vào trong.

- Muội nghỉ đi, tỷ mang chén nước để góc giường, khát thì uống, coi chừng đá đổ.

- Dạ, cảm ơn tỷ.

Tuy rằng rất mệt, nhưng Mai chỉ ngủ chập chờn, thỉnh thoảng vẫn nghe giọng nói, tiếng bước chân của người nhà. Cảm giác nóng nực giảm dần, khi cô mở mắt tỉnh ngủ thì bên ngoài trời đã tắt nắng.

Trong không khí có mùi cá khô nướng và mùi hơi tanh đặc trưng của làng chài. Mùi này là sự hoà quyện của nước biển mặn, xác cá, tôm, nghiêu sò chết bị phân huỷ lâu ngày mà thành. Người dân chài đã quen với mùi này từ khi mới lọt lòng. Đối với họ đây là mùi của 'nhà', của tự nhiên; để rồi khi đi xa nó sẽ là mùi của quê hương.

Chắc đến giờ cơm rồi. Mai ngồi dậy, lấy chén nước uống cạn rồi đi về phía sau bếp.

- Con dậy rồi à, rửa mặt đi.

Nương Mai vừa trở mấy con cá khô trên bếp, vừa canh lửa nồi canh rau bên cạnh. Mai rửa mặt xong vào bếp phụ nương canh lửa. Sân trước sân sau đều có người bận rộn mang từng mẹt tre cá khô mang vào chái nhà, đặt trên sạp gỗ. Cúc tỷ từ sân sau vào.

- Ông bà nội nói dọn cơm đó nương.

- Được, con gọi a Lan xuống dọn chén dĩa đi. Nương xong rồi.

Ăn cơm chia làm hai bàn, bàn trước ở nhà trên - gian chính là cho đàn ông, bàn sau - trong bếp cho nhóm đàn bà, con nít.

Cả nhà hơn hai mươi người chia ra ngồi. Buổi cơm chiều nay có khô cá lóc nướng, canh rau nấu với tôm khô. Thời này, hạt lúa giã bằng cối đá, cối gỗ; rồi sang sảy bỏ trấu vụn nên hạt gạo không trắng tinh như hiện đại mà còn lớp cám vàng nhạt, nấu chín toả ra mùi thơm hơn. Mà theo Mai biết, lớp cám trong hạt gạo chứa rất nhiều dinh dưỡng và vitamin tốt cho cơ thể. Cá mặn, canh rau ngọt mát chan vào cơm ăn thật ngon, mà có lẽ do Mai đói quá nên ăn rất nhanh. Hai chén cơm đầy ăn xong thật no.

- A Lan, húp canh to dữ vậy, con gái con đứa không giữ ý tứ gì cả.

Tam bá mẫu khan giọng nói. Thật ra giọng của vị bá mẫu này là giọng khàn trầm, nên cất tiếng giống như người ta bị khan vậy. Nếu không nhìn người, dễ đoán là giọng của đàn ông. Tam bá mẫu cũng cao hơn so với phụ nữ thời này, lại là dân chài từ nhỏ nên sức rất khoẻ và thạo việc nhất trong ba con dâu. Nhà tam bá mẫu cũng ở trong làng chài gần đồi Lộc Trĩ, cách đây khoảng một khắc đi bộ. Trong nhà có thuyền đánh cá to, bắt được các loại cá quý xa bờ nên trong nhà sống rất tốt. So với con dâu hai là nhị bá mẫu và con dâu tư là nương Mai thì tốt hơn.

Lại thêm tính tam bá mẫu hay xét nét, bắt bẻ người khác nên ai cũng ngại gần bà. Cháu trai, cháu gái trong nhà đều cách xa bà nhất có thể. Vừa rồi Lan tỷ uống canh kêu cái rột cũng hơi lớn, nếu là người khác sẽ nói nhẹ nhàng hơn. Dù sao Lan tỷ bình thường cũng rất ý tứ, mà cũng mười lăm tuổi rồi, cũng cần mặt mũi.

- Trong nhà mà, có sao đâu.

Nhị bá mẫu tuy là dâu lớn trong nhà nhưng do tính tình xởi lởi, hay cười hay nói nên cũng chỉ nói vậy rồi thôi. Nhị bá mẫu cũng sinh ra ở làng chài nhưng xa hơn về phía tây, đi khoảng hai canh giờ và phải qua cửa sông Giang Thành mới đến. Bà có mẹ là người Chân Lạp, cha là người Việt di cư. Từ nhỏ quen sinh hoạt, nếp của người Chân Lạp. Khi đến làm dâu nhà Mai thì không nấu nướng theo cách người Việt. Có một điều nữa là lẽ ra bà sẽ rất khéo tay, tỉ mỉ như mẹ bà; nhưng ngược lại khoản này lại không giống mà bà vụng về trong chuyện may vá.

Bà hình như không thể ngồi yên một chỗ lâu được. Mỗi lần ngồi vá lưới là cực hình với bà, ngồi một lúc là bà lại kiếm cớ chạy ra chạy vào như đi trở cá ngoài mẹt cho mau khô, xem giàn phơi khô mực đã được chưa, quét sân trước rồi quét sân sau. Thật ra bà rất chịu khó làm những việc không phải ngồi yên một chỗ.

Nương của Mai - Nguyễn thị thì lại rất tỉ mỉ, chăm chỉ, nấu ăn rất khéo, may vá cũng tốt. Nhưng bà là người miệt trong nên không thạo công việc ở làng chài như vá lưới, làm cá mắm, mực khô. Từ ngày về làm dâu mới được bà nội và cha dạy làm. Còn một điểm nữa là dáng người bà hơi mảnh khảnh, xương tay chân đều nhỏ nên sức yếu.

Cha Mai cũng không cao lớn lắm nên mấy anh chị em Mai có vóc người mảnh dẻ, nhỏ nhắn. Nhìn Bình ca so với mấy đường ca liền biết ca ấy sẽ không vượt lên cao lớn, vạm vỡ như họ. Lan tỷ nhỏ hơn Cúc tỷ một tuổi mà đã cao hơn, trổ mã hơn rồi. A, là gen di truyền mà, đành chịu thôi!Chương 10: Đi biển hay làm ruộng?Cơm chiều vừa xong trời cũng sụp tối. Dọn dẹp hai mâm cơm rồi thì đốt một chén đèn dầu ở nhà trên, người lớn ngồi bàn nói chuyện, con nít ngồi hàng hiên. Hôm nay không có gió lớn, ngoài bãi có một hai nhà đã chuẩn bị lên ghe đánh cá, tiếng nói xôn xao xa xa vọng đến.

Nhóc Phúc chạy đến gần Mai, tay cầm ống tre lúc trưa nhà Tiêu thúc cho. Trên đường đi nhóc không nỡ uống hết nước thốt nốt mà để dành lại. A Trúc nhỏ hơn A Phúc mấy tháng đang cầm cái chén nhỏ đi theo.

- Đệ không uống hết nước sẽ chua đó.

Bình ca nói.

- Đệ biết.

A Phúc vừa nói vừa rót từ trong ống tre ra nứa chén.

- A Trúc, muội và Mai tỷ uống cái này. Ca, An ca, Vĩnh ca sẽ uống hết trong ống nhé.

- Dạ,

A Trúc bưng cái chén đến ngồi cạnh Mai trên ngạch cửa. Mai nâng chén cho bé uống một hớp, rồi mình mới uống. Nhìn gương mặt thoả mãn của bé, Mai cũng thấy vui. Nước thốt nốt này chắc mới được lấy sáng nay nên giờ vẫn chưa bị lên men chua, nhưng nếu để vài giờ nữa, không khí dịu mát của đêm sẽ làm nó lên men ngay. Ba anh em trai bên kia vừa chỉ trỏ phía bãi vừa thì thầm nói chuyện rất hưng phấn.

- Lúc sáng nhà Lưu bá con đã đi vô trong đó phụ dựng nhà. Con có gặp trên đường không?

Ông nội ngồi trên ghế hỏi cha Mai.

- Dạ không cha. Chắc Lưu bá đi đường trong, con đi đường ngoài.

Đầu Mai nhi chưa hết hẳn nên con đi đường ngoài, tuy xa hơn nhưng dễ đi chút.

- Ừ, đã khoẻ hẳn chưa? cần mời lang y nữa không?

- Đỗ lang y nói chỉ cần uống ba thang này nữa là khoẻ. Cẩn thận trông chừng xem có bị choáng váng, nhức đầu, nôn mửa thì báo ông biết.

- Trời, nếu bị bệnh lại có kịp đi mời ổng không? Mời nữa thì tốn bao nhiêu? Hay chú thím tư bị lang băm gạt rồi!

Tam bá mẫu lại khan giọng lên tiếng, hình như bà rất 'nhạy cảm' khi nhắc đến tiền.

- Đỗ lang y đã ở làng Đông Hồ mấy năm rồi, trong làng ai cũng biết. Sao đi gạt ta chứ.

Cha Mai lên tiếng giải thích.

- Nhưng mà,...

- Cha có nghe tiếng ông ấy.

Tam bá mẫu vừa nói tiếp hai tiếng thì bị ông nội chặn lại, bà đành im lặng.

Nhị bá hỏi cha:

- Lưu Hà đệ mới đến đó hơn một năm đã có thể dựng nhà. Đệ thấy trong đó làm được không?

- Nhà Lưu ca dựng cũng lớn, xung quanh đất ruộng trồng lúa, khoai, đậu. Cá tôm thì bắt trong vũng, trong mương, cũng không lo đói.

Cha Mai cứ tuần tự kể lại mấy việc đã thấy ở làng Đông Hồ, có mấy chuyện Mai không biết như: Mỗi tháng nước lớn sẽ có ghe xuồng từ miệt thứ lên mua bán đồ. Mấy người trong làng cũng quá giang ghe đó lên chợ.

Năm rồi, miệt trong nước nổi cao hơn bình thường, nhiều gia đình không chịu được nên theo ghe đi vào sống phía trong làng Đông Hồ tránh con nước, rồi ở lại luôn. Cha còn kể mấy chuyện nghe được từ Bùi ông cho cả nhà nghe nữa.

Mấy đứa nhỏ ngoài sân nghe một đoạn cũng bị doạ nên đều rúc vào ngồi trên ván gần người lớn. Vĩnh ca, An ca lần đầu nghe nên rất chăm chú, hai mắt sáng như sao. A Phúc đã nghe rồi mà vẫn dóng tai nghe lại, còn thì thầm bổ sung thêm lời cha kể làm Mai nhịn cười nhìn. Đúng là cái gì sợ thì thích nghe, càng nghe càng sợ.

Nương Mai ngồi góc bên này thấy cha kể xong liếc qua thì gật gật đầu ra hiệu. Mai lên tinh thần, biết là hai người sắp nói tới điểm chính đây. Từ khi nghe Cúc tỷ kể tình hình trong nhà, cô cũng suy nghĩ đến việc này.

Thời này rất coi trọng đạo hiếu, tam đại - tứ đại đồng đường là việc thường. Nhưng ở vùng đất mới xa xôi này, cộng thêm nhiều tộc người sống chung, văn hoá trộn lẫn vào nhau nên mọi thứ cũng 'linh động'. Muốn thuyết phục ông bà nội cho nhà Mai chuyển ra ngoài nên làm cách nào đây?

- Cha, nương,...

Cha Mai ấp úng rồi cũng cương quyết nói:

- Con định theo Lưu ca vô trong đó làm ruộng rẫy sinh sống.

Không khí trong nhà trầm lại, mấy đứa nhỏ đang tự doạ mình sau khi nghe kể chuyện cũng tỉnh lại.

- Con,... ý con là sao?

Bà nội lắp bắp nói, giọng đã nghẹn lại. Đây là đứa con đầu ruột thịt của bà, lúc nhỏ vì để cả nhà hoà thuận nên chịu không ít thiệt thòi. Dù bây giờ cưới vợ sinh con, coi như trưởng thành nhưng bà vẫn yêu thương; trong lòng muốn chăm sóc nó, con cái nó cho đến hết đời. Giờ nó lại muốn chuyển ra ngoài sống, cách xa bà, hỏi sao bà không đau lòng.

- Cha, vết thương ở chân con,... sau này con và tụi nhỏ cũng khó tự mình đi biển được. Làm ruộng thì đỡ hơn, ít ra cũng đủ ăn no.

Ai cũng trầm mặc suy nghĩ, lời của cha Mai là sự thật. Nghề đi biển đánh cá thu nhập cao hơn nhưng sóng to, gió lớn; giữa biển không đủ sức là không thể làm. Ở lại làng chài mà không đi biển thì lấy gì ăn? Người làng chài đâu có làm lúa gạo, lương thực gì? Bây giờ còn ông bà thì nhà Lê nhị, Lê tam sẽ phụ chia nhau thức ăn.

Sau này ông bà mất rồi, hai nhà kia có nguyện ý hay không còn phải xem lại. Huống chi cả gia đình tám người chẳng lẽ cứ bám người ta, dù là họ hàng cũng không ngẩng mặt lên được. Vậy nên tiếp tục bám biển mưu sinh hay làm ruộng kiếm ăn?Chương 11: Tâm sự riêngLê nhị và Lê tam mặc dù không phải đối đãi hết lòng với người em khác mẹ này, nhưng sống chung cũng mấy chục năm, cùng nhau lớn lên. Ngày thường có chút so đo, khi gặp chuyện vẫn là đoàn kết, là người nhà. Lần này Lê tứ muốn ra ngoài, còn đi xa như vậy họ cũng bất ngờ, tự nhiên ngẫm lại mình cũng tệ quá nên em trai mới muốn đi?

Cách đây hai năm, khi a Vinh cưới vợ, nhà đông người không có phòng. Nhà Lê lão suy tính xây phòng mới cho cả nhà Lê nhị, đương nhiên là bên cạnh nhà chính, chứ không phải ở riêng. Chưa kịp làm thì Lê tứ gãy chân, tốn hết tiền trong nhà mới khoẻ lại. Sau đó, đành phải thu dọn một phòng nửa sau chái nhà cho vợ chồng a Vinh ở.

Năm nay a Hân đã gần mười tám, sắp cưới vợ; Lê lão còn chưa biết tính toán thế nào. Phía trên sườn núi vẫn còn mấy vị trí dựng nhà được, ông đang định gặp trưởng làng hỏi thăm; giờ con trai muốn vô miệt trong sinh sống làm ông suy nghĩ đủ đường.

Mấy đứa nhỏ biết đây là chuyện lớn, chỉ im lặng theo dõi, không dám chen miệng.

- Cha, 'đất lành chim đậu' là gì vậy? Con nghe Đỗ gia gia nói vũng Đông Hồ là đất lành đó. Tương huynh dẫn con với A Phúc, Bình ca đi tát đìa quá chừng cá tôm luôn; nướng, nấu canh đều ngon.

Mai cất giọng hỏi cha nàng, giọng không lớn không nhỏ trong không khí yên lặng làm mọi người đều nghe được. A Phúc gật đầu liên tục.

- Tương huynh dẫn con với Bình ca đi tát đìa, quá chừng cá, con tự mình bắt được đó, đào khoai trên ruộng sau nhà Lưu bá nữa,

Không biết A Phúc có hiểu ý Mai không nhưng nhóc huyên thuyên khoe khoang tự mình làm cái này cái kia. Vĩnh ca, An ca chăm chú nghe rất hâm mộ.

- Tương huynh nói năm sau muốn mua cái ghe nhỏ.

A Bình liếc Mai rồi không nhanh không chậm nói.

Cả nhà hít hà.

- Thật sự?

Tam bá mẫu nhanh miệng hỏi. Không trách được mọi người đều ngạc nhiên.

Ở vùng đất mà bước chân ra là sông rạch này, có một cái ghe là có cuộc sống tốt. Nhưng đóng ghe không dễ nên giá rất cao. Có nhà tích luỹ hàng năm mới mua được chiếc ghe đi lại, đánh bắt cá kiếm sống. Nhà ông nội Mai cũng vậy, để dành rất lâu mới mua được chiếc ghe hiện tại, là tài sản quí nhất trong nhà.

Nhà ở hư hỏng có thể từ từ sửa, chứ ghe hư là phải sửa ngay. Nhà tam bá mẫu khá như vậy cũng vì có chiếc ghe lớn, đi đánh bắt xa bờ, chở nhiều cá hơn. Tam bá mẫu hãnh diện vì cái này, không phải sao?

Nhà Lưu bá đến vũng Đông Hồ hơn một năm mà đã dành dụm đủ tiền mua ghe, thật sự làm mọi người hâm mộ!

Mai liếc nhìn Bình ca 'ha, đúng là người càng ít nói, một khi nói ra là hù chết người ta'. Sau này Mai phải cẩn thận mới được, không để tên nhóc phát hiện ra 'bất thường' của cô.

- Hèn chi, Lưu tẩu nói lần dựng nhà này cũng không tốn bao nhiêu. Là muốn để dành tiền sắm ghe.

Nương Mai cũng thấp giọng nói.

- Cha, đi ghe từ đây vô đó xa không?

- Theo con nước thì chừn

g hai canh giờ là đến.

Những điều cần nói cũng đã nói, Mai kín đáo quan sát biểu tình của ông bà nội.

Gương mặt bà nội dàu dàu, nhìn con trai hơi cúi đầu cũng không thể không đồng ý. Đợi vài năm gả a lục thì bà cùng a thất có thể ra đó thường xuyên săn sóc bù lại vậy.

Đứa con này của bà luôn lo nghĩ cho bà. Tuổi của Lê tam và Lê tứ gần nhau, từ nhỏ hắn luôn nhường Lê tam để bà không khó xử. Tiếng mẹ kế của bà muốn vuông tròn đành phải ép con nhường nhịn.

- Hai canh giờ cũng không lâu, A Phúc, a Mai hai đứa phải nhớ về thăm bà đó.

Cuối cùng bà nội cũng lên tiếng. Như vậy coi như đồng ý rồi. A Phúc còn chưa hiểu thì Mai đã dịch lại gần bà, ôm bà nhõng nhẽo:

- Ngày nào cháu cũng về nha, cha không rãnh thì Bình ca chèo ghe đưa cháu về.

- Cháu đó, miệng thật ngọt.

Bà nội xỉ trán Mai nói. Được sự đồng ý của bà nội coi như hơn một nửa rồi. Ông nội vốn hiểu rõ tình cảnh Lê tứ, sớm muộn cũng phải tự mình lo kế sinh nhai, bây giờ vợ chồng nó đang khoẻ cứ tách ra tìm cách sống. Ông ở đây dành dụm còn giúp được vài năm. Nghĩ xong, ông quay sang hai con trai lớn dặn.

- A Tân, A Kim, mấy ngày này hai đứa ra biển. Cha đi cùng A Tâm vô trong đó xem sao.

- Có Lưu bá con trong đó cũng nhờ giúp một chút. Nếu kịp có thể gieo lúa mùa này, đến hết năm cũng có lương thực dằng bồ (bồ là nơi cất lúa có hình tròn, vách là mấy tấm đan bằng tre, cao ngang vai người lớn, rộng thì tuỳ vào lượng lương thực cần chứa).

- Được cha.

Mai thở dài, thông qua cũng không khó. Những ngày sau không biết Mai có hối hận không, nhưng con người cần tiến từng bước một, khó khăn thì cố gắng vượt qua thôi.

Ai cũng có tâm tình riêng nên không ai nói thêm nữa. Ông nội đứng dậy vào nhà trong chuẩn bị đi ngủ.

Đêm nay là hạ tuần tháng ba, trăng còn chưa lên, chỉ vài ánh sao nhấp nháy phía xa. Ánh sáng yếu ớt không đủ sáng mặt biển. Làng chài nằm khuất dưới chân núi và mấy cây cổ thụ càng tối hơn. Chỉ còn vài ngôi nhà leo lét ánh đèn dầu trông thật lẻ loi, tội nghiệp.

Người đã từng thấy ánh đèn sáng rực bãi biển ở thời hiện đại như Mai nhìn khung cảnh này càng cảm khái sự khác biệt của thời gian và không gian. Bao trùm cảnh đêm là tiếng sóng biển và tiếng gió hú. Thiên nhiên ngự trị hoàn toàn. Nếu như đêm có bão thì càng doạ người hơn.

Trong căn phòng ngủ nhỏ, giường sát vách ngoài là của Cúc tỷ, Mai và bé Trúc. Mai nằm phía trong sát cửa sổ đã khép.

- A Cúc, ở trong đó được lắm hả?

Lục cô nhỏ giọng hỏi. Hai cái giường chỉ cách nhau một lối đi, lục cô cùng Cúc tỷ đều nằm phía ngoài nên thì thầm nói chuyện. Ở đây chữ 'được' nghĩa là tốt lắm.

- Trong đó, nhà không sát nhau như ở làng mình. Cách xa nhau, đi một đoạn mới tới. Nhưng mà ruộng thì sát bên nhà. Tam Mi tỷ nói có con trâu cày ruộng, nếu có tiền mua con trâu về sẽ đỡ vất vả. Mà nó còn kéo xe được nữa. Nhưng nó mắc tiền lắm.

Cúc tỷ cứ thì thầm, a Lan cùng nghe, thỉnh thoảng hỏi này kia, bé Trúc xoay xoay một hồi thì ngủ. Mai không biết làm ruộng, cũng chưa biết rõ cuộc sống ở Hà Tiên thời hiện đại ra sao. Cô chỉ nhớ vài hình ảnh và vài thông tin tóm lược lịch sử Hà Tiên qua các chương trình du lịch bốn phương.

Tuy nhiên, kiến thức cơ bản về địa lý, tự nhiên miền này cô cũng biết. Cô muốn theo ông nội và cha quay lại Đông Hồ ngày mai để 'tư vấn' cha khi cần thiết. Bình ca cũng cần đi theo. Sau buổi tối nay, cô và Bình ca đã 'nhìn' ra nhau và cùng phát hiện ra rằng cả hai sẽ 'hợp tác' được.

Làm cách nào để ông và cha đồng ý cho cô theo. Thuốc mà lang y bốc chắc có loại an thần nên cô thấy buồn ngủ. Ah, có cách rồi, Mai mỉm cười trước khi chìm sâu vào giấc ngủ.

Phía sau gian thờ, khoảng giữa nhà chính và bếp đặt mấy cái giường tre cho đám cháu trai ngủ. Mấy đứa nhỏ cũng chưa ngủ mà rì rầm kể chuyện, thỉnh thoảng A Phúc ré lên, A Bảo - con trai thứ hai của nhị bá - thì cười ha ha, chắc đang nhát nhóc con đây.

- Còn chưa chịu ngủ, muốn ăn đòn phải không?

Nhị bá từ phòng trong nói vọng ra. Đám nhóc im được một lúc lại rì rầm, lâu sau thì từ từ cũng ngủ hết.

Trong phòng nhỏ của vợ chồng tam bá thì tam bá mẫu đang kề sát nói:

- Lần này tứ đệ dựng nhà chắc tốn thêm tiền nữa. Liệu còn tiền cưới vợ cho a Hân không?

- Cha sẽ tính toán, dù sao lần này tứ đệ đi xa như vậy, cũng phải cho đệ ấy nhiều một chút.

Lê tam không kiên nhẫn nghe vợ cằn nhằn. Từ lúc Lê tứ nói muốn chuyển đến Đông Hồ, ông thấy hơi 'hụt hẫng'. Hai người gần tuổi nhau, ông luôn so đo tính toán sợ kế mẫu chỉ lo cho con ruột, xử ép anh em mình. Giờ thì người ta rõ ràng không xem những việc đó là gì, luôn nhường mình. Đúng, Lê tam nhận ra kế mẫu và Lê tứ luôn nhường hắn mấy phần.

Lúc nhỏ không hiểu gì, nghe bên ngoài xì xầm chuyện kế mẫu, con riêng nên hắn rất cảnh giác, so đo. Từ từ lớn lên, bắt đầu nhận ra sự thật. Nhất là lúc cưới vợ, nhà vợ cho của hồi môn nhiều nhưng cũng đòi sính lễ nhiều. Sính lễ thì lấy tiền trong nhà ra, của hồi môn thì là riêng hai vợ chồng hắn dùng, cha và kế mẫu chưa hề hỏi tới. Đến khi Lê tứ cưới thì trong nhà chỉ còn ít tiền, phải đi mượn một ít. Vợ Lê tứ vào cửa thì xuất tiền ra trả lại.

Mấy năm nay Lê tứ gãy chân, sức lao động yếu, hắn và vợ hắn lúc nào cũng so đo hơn thiệt, nào là Lê tứ con nhiều, còn nhỏ, nhiều miệng ăn mà lao động ít. Giờ thì xong rồi, ha, cả nhà người ta chạy thật xa, tự mình kiếm ăn.

Sao trước đây hắn không nghĩ lúc a Hân, a Thịnh, a Lan còn nhỏ chẳng phải vợ chồng họ cũng có phần nuôi dưỡng sao? Người ta có than câu nào đâu? Mấy đứa nhỏ ngoan ngoãn gọi hắn tam bá, còn hắn xứng sao? Cha đã mấy lần nhắc nhở nhưng hắn không phục, nghĩ là cha thiên vị nữa chứ. Càng nghĩ hắn càng khó chịu.Chương 12: Trở lại Đông HồSau một đêm thì mọi chuyện trở lại bình thường, ai lo việc nấy. Nương, lục cô và a Lan nấu bữa sáng, Mai phụ mấy đứa con trai đem giàn phơi mực, mẹt cá ra sân. Mùa này phơi cá khoẻ nhất. Nếu là mùa mưa thì phải nhìn trời, nhìn trăng xem có mưa hay không mới dám mang ra. Mà lúc đó không khí ẩm cá rất dễ ương, thúi, có khi phải hong cá trên bếp than cả đêm.

Mai cẩn thận kéo a Bình ra góc sân:

- Chút nữa ca nhớ xin đi theo ông nội và cha vô Đông Hồ.

- Tại sao?

A Bình thắc mắc.

- Có việc, muội sẽ nói sau.

Mai nhanh giọng đáp rồi quay vào trong nhà.

Mặt trời chưa lên mà bãi làng chài đã tan, ai neo thuyền thì neo, ai mang cá đi bán thì đi. Rất nhiều ngư phụ, bé gái mang thúng cá tôm về nhà. Cá lớn thì bán, cá nhỏ, tôm, nghêu sò thì mang về. Vào mùa sò, dân làng chài cũng không muốn mang chúng về mà quăng lên bãi cạn.

Tối qua nhà Mai không đi đánh cá, nhưng sáng sớm ông nội cùng người lớn trong nhà cũng đi ra bãi xem những nhà khác. Thỉnh thoảng phụ kéo ghe lên bãi. Ông cũng đến xem lại cái ghe đã sửa hôm qua. Về đến nhà, ông đã dặn bà nội dọn cơm sáng.

- Ta có hỏi trong làng, nhà Chu bá vô Phương Thành, cho mình đi nhờ theo.

Ăn sáng là cháo nghêu, khoai và chuối. Mấy nải chuối còn lại sau một đêm đã chín tới, còn một chút vị chát nhưng lại giòn hơn chuối quá chín. Mai vừa ăn cháo vừa chú ý nghe bàn trên nói chuyện, trong lòng hơi lo lắng không biết Bình ca có nói theo cô dặn hay không.

- Ông nội, con đi theo ông và cha vô trong đó được không?

Cuối cùng cũng lên tiếng, Mai thở nhẹ. Ông nội và cha chắc sẽ đáp ứng. Lần này vô đó là quyết định dựng nhà, xin đất, là chuyện lớn của nhà Mai. Bình ca là con trai lớn trong nhà, dù con nhỏ cũng cần tham dự. Tính tình Bình ca ít nói, làm được việc, từ trước giờ cha hay dẫn theo ra ngoài.

- Cha, để a Bình theo cũng có người phụ việc lặt vặt.

- Được, tối nay ngủ lại một đêm, bà mang đồ đơn giản thôi.

Ông nội nói vọng xuống bàn dưới với bà nội.

Ăn cơm xong, Mai đi xuống sau nhà phụ rửa chén. Vừa cúi xuống cô đã nôn ra gần hết cháo. Cúc tỷ đứng gần đó thấy vội kêu to:

- Nương ơi, a Mai bị nôn!

Nương và a Cúc vội chạy đến đỡ Mai vào trong phòng. Cô vẫn tiếp tục nôn, mắt đỏ hoe, người lảo đảo.

- Mai, con sao rồi? Nằm xuống đây. Cúc nhi ra lấy cái chậu đi. A Vĩnh, con rót ly nước nóng.

Nguyễn thị cuống quít, thấy Vĩnh ca chạy đến cũng kêu giúp.

- Con không sao, nương. Chỉ muốn nôn thôi.

Mai cất tiếng khàn khàn nói như hết sức. ‘Xin lỗi nương’ cô thầm nói. Mai nôn thêm một chút vào chậu để dưới đất, xúc miệng rồi nằm im trên giường. Tiếng Nguyễn thị đang nói.

- Chàng xem xin với cha được không? Ta lo quá.

- Ừ, nàng xếp đồ cho con đi. Ta xin cha.

Mai nằm khép mắt trên giường, nghe tiếng nương thở dài rồi xếp quần áo trên kệ vào túi vải. Phía nhà trên loáng thoáng tiếng cha nói chuyện, nghe không rõ lắm. Bà nội cũng vào phòng ngồi bên giường, sờ trán Mai hỏi:

- Còn nôn nữa không? Haiz,... Sáng nay cha con bảo ta đưa cho a Tâm tiền. Giờ ta đưa con luôn, xem lang y nói sao. Bệnh chữa càng sớm càng tốt, để lâu không được đâu. Vợ chồng con đừng vội, ở nhà có nương lo.

- Dạ, cảm ơn nương.

Giọng bà nội chầm chậm, từ tốn ẩn ẩn lo lắng làm Mai thấy ấm áp. Ông bà nội lúc trước cũng rất thương cô. Thời hiện đại ít con cháu nên ông bà nội yêu quí, chăm sóc cháu. Giờ bà nội có mười mấy cháu nội ngoại mà bà vẫn quan tâm lo lắng như vậy thật hiếm có.

Thay vì chỉ có ông nội và cha đi thì giờ thêm Bình ca, có nương theo để săn sóc cho Mai. Thấy cả nhà lo lắng, cô cúi đầu hơi thẹn, là cô móc họng nôn để được trở vô trong đó. Cô muốn tham gia ý kiến trong việc dựng nhà mới, cô tin sẽ giúp nhà mình sau này. Bây giờ đành phải xin lỗi mọi người trước.

Lần này cha nhất định cõng cô từ nhà ra ghe nhà Chu ông, cách cũng không xa lắm, ngay góc cua ven bờ lặng sóng.

- Chu huynh, nhà ta đi thêm 3 người nữa. Thật xin lỗi, làm phiền huynh.

- Không sao, ngồi được.

- Tạ ơn huynh, chúng ta chèo đoạn này. Huynh và a San nghỉ chút đi.

- Được.

Chu ông cũng không khách sáo, dù sao ông và a San cũng đánh cá vất vả đêm qua. Ghe đánh cá biển lớn hơn ghe sông, thành ghe cao hơn ngăn sóng biển. Nắng và gió sớm mai mơn man nhẹ nhàng, chỉ có Mai được đặt nằm trong. Chu ông và San bá ngồi bên ngoài nói chuyện với ông nội. Cha thì đang chèo ghe, ghe đang xuôi theo dòng vào vũng Đông Hồ nên cũng không mất nhiều sức.

Người dân ở đây rất rành tận dụng ‘thuận’ dòng nước, tiết kiệm sức. Buổi chiều, Chu ông cũng sẽ ‘xuôi dòng’ từ Đông Hồ ra biển.

Mai rất muốn nhìn phong cảnh cửa biển và dọc theo dòng sông nhưng cô không dám, phải giả bệnh ít nhất đến nhà Lưu bá mới được.

- Gần đây, chợ cá miệt trong đông người hơn. Nghe nói nhiều nhà tránh đi đã trở về. Haiz,... cũng mấy năm rồi không nghe nói giặc Xiêm La đến nữa.

- Cũng mong như vậy, chưa nghe nói tăng số lượng sản vật phải dâng nạp.

Giặc Xiêm La, dâng sản vật? Tin tức này làm Mai tỉnh người. Cô hoàn toàn không biết việc này, phải cẩn thận lưu ý mới được, lại thêm một nỗi lo lắng nữa. Ah, hy vọng không có đánh nhau nha.

Nhóm trẻ im lặng ngồi nghe Chu ông và ông nội nói chuyện. Lát sau thì nội nhắc Chu ông nghỉ ngơi nên trên ghe yên tĩnh, thỉnh thoảng có tiếng ‘cạch, cạch’ do cây sào chạm vào thành ghe.

Nguyễn thị chốc chốc lại rờ trán Mai, thấm nước vào khăn tay nhỏ, lau mặt cho cô. Tối qua ngủ ngon nên giờ cô không buồn ngủ, giả bệnh cũng khổ. Sáng ăn bao nhiêu đều nôn ra, bây giờ bụng thấy hơi đói. Cô xin mẹ chút nước đỡ vậy. Cha cô thấy vậy càng chèo nhanh hơn. Bình ca cũng lấy chèo phụ đi về phía đầu này ghe giúp sức.

Gần trưa thì đến nơi, cha cõng Mai từ bờ sông lớn hướng vào nhà Lưu bá. Có thêm người nhà Lưu bá từ làng chài vào nên số người dựng nhà đông hơn. Mọi người đang làm việc hăng say, tiếng nói chuyện rôm rả, Thỉnh thoảng có tiếng trêu đùa mấy cậu trai trẻ.

Lưu bá thấy nhà Mai đi đến đã vội ra đón.

- Lê bá, nhà Lê tứ đệ đến rồi.

Ông nội, cha và Bình ca đi sân trước, nương dìu Mai vào sân sau. Lưu bá mẫu và tam Mi tỷ đứng ở sân sau nhìn ra.

- A Mai sao vây?

Lưu bá mẫu đưa tay xách giúp túi vải trên vai nương, cùng vào nhà.

- Sáng nay a Mai nôn quá, ta sợ nên đưa đến nhờ lang y xem.

- Nương, con đói bụng.

Mai không muốn nương mời lang y, tốn tiền, mà nhà nàng phải để dành tiền dựng nhà mới nữa. Nhưng cô cũng không thể nói không mời lang y, chắc chắn nương sẽ không đồng ý. Cách hiện thực nhất là để nương thấy cô không còn nôn nữa, kéo dài thêm thời gian – chưa vội mời lang y. Sau đó thì cô khoẻ mạnh, hết bệnh.

- Ăn cháo cá được không?

Lưu bá mẫu hỏi nương Mai.

- Được, để ta làm, phiền nhà tẩu quá.

- Nói vậy làm gì.

- Ta tính mượn nhà cũ bên kia một hai ngày, được không?

- Được, sao không được.

Nghe hai người nói chuyện, Mai chen vào:

- Giờ mình qua đó luôn đi nương. Bá mẫu còn lo cơm trưa mà.

- Ừ, đi.

Nương ra ngoài rồi quay lại cùng Bình ca. Lưu bá mẫu đưa ít gạo trong chậu, mấy con cá bị xỏ mang bằng dây lạt, dặn:

- Ta còn để nồi niêu bên đó, ngươi nấu cháo cho a Mai thôi, cơm qua bên này ăn, khỏi nấu rườm rà.

- Cảm ơn tẩu.

Ba mẹ con đeo túi vải quần áo, chậu gạo, cá đi lại nhà cũ hôm trước. Con đường đất có thêm nhiều vết nứt, đất khô cứng hơn. Bây giờ là ngày nóng nhất trong năm, mặt trời gay gắt, mồ hôi vừa rịn ra đã bị nắng gió làm khô, dính vào người như lớp da thứ hai.

Uống mấy hớp nước trong lu trước bếp, nương vo gạo nhóm bếp, Bình ca thì mang cá ra bờ mương làm sạch, Mai vào nhà lên giường soạn quần áo trong hai túi vải. Túi của ông nội chỉ có hai bộ quần áo nửa cũ nửa mới, một cái khăn đầu.

Túi nhà Mai nhiều đồ hơn, có túi gút nhỏ được nhét trong áo nương, là túi tiền bà nội đưa sáng nay. Lần này dựng nhà không biết tốn bao nhiêu, còn hạt giống lúa, khoai nữa. Nhà Mai trước đây đánh cá, những cái này không có, chắc phải mua rồi. Còn mấy dụng cụ cuốc, liềm, nồi niêu nữa, nghĩ đến là rầu.Chương 13: Chọn đất, dựng nhàTrong bếp, mùi gạo chín trộn mùi thuốc sắc hoà quyện. Hôm qua Mai chỉ uống một thang lúc tối, cả ngày đi đường không uống được. Cô sẽ ‘nhờ’ thang thuốc còn lại này để ‘khỏi bệnh, hết nôn’.

- Nương, đợi con ăn cháo, uống thuốc xong mà còn nôn thì đi mời lang y, nếu con không nôn thì đừng mời nhé? Buổi sáng chắc do con ăn nhiều nghêu quá, lạnh bụng.

- Thật không? Con không ăn được nghêu? Lúc trước vẫn ăn mà.

Nguyễn thị cũng nhớ ra là nghêu ăn nhiều sẽ lạnh bụng, tự trách mình vô ý. Nhìn gương mặt nhỏ nhắn của con gái mà đau lòng.

- Con ăn cháo, uống thuốc xong nằm nghỉ, a Bình sẽ ở nhà với con. Nương qua phụ bá mẫu. Nếu em nôn con chạy qua báo nương liền nghe.

Nương xoay qua nói với Bình ca.

- Con biết, nương.

Thấy Mai uống hết thuốc, nằm xuống giường xong thì nương lấy nón ra ngoài. Bình ca đi vào ngồi mép giường nhìn Mai. A Bình năm nay gần mười lăm tuổi, vóc người gầy, xương tay chân không lớn như mấy đường ca nhà nhị bá, tam bá. Sau này trưởng thành sẽ giống Lê tứ - cha Mai, gương mặt hẹp, dài với sóng mũi cao, cằm thon, đường nét miệng tinh tế. Mái tóc không dài, vuốt rồi buộc gọn phía sau bằng dây vải xanh đậm.

- Ca đoán đúng rồi, muội không bệnh nặng, chỉ hơi mệt. Muội muốn nương cùng đi theo để biết chuyện ở đây. Ca cũng cần biết, dù sao cũng là nhà của chúng ta. Chúng ta phải biết chứ, đúng không?

- Ừ.

Mai trợn mắt, cô nói nhiều vậy mà hắn chỉ ừ một tiếng, thiệt tình. Thôi, bỏ qua đi, vô chuyện chính.

- Ca thấy nhà mình ở đâu thì tốt? Gần nhà Lưu bá hay phía trong kia?

Cái gọi là phía trong kia là ở trong làng có hơn mười mấy nhà, ở đó có nhà lang y, Bùi thợ mộc, nhà trưởng làng. Phía trong đất thấp hơn, xung quang là một khoảng đất rộng xanh um, được mấy con rạch bao bọc.

Nhà Lưu bá hướng gần về phía biển hơn, vùng đất cao, xa hơn một chút là mấy đồi thấp, có vài khu rừng cây cổ thụ nữa. Xung quanh đây cũng có vài mái nhà, nhưng cách nhau một đoạn, đi khoảng một khắc hơn mới đến. Thật ra các nhà gần, đều nằm gần con rạch lớn, đi ghe theo rạch rất nhanh, đi bộ thì phải vòng vòng nên xa.

Bình ca nghĩ nghĩ rồi nói:

- Ca không biết. Lúc nãy ông nội đã nói với Lưu ông. Lưu bá nói nhà mình sáng mai đến gặp trưởng làng xin đất ruộng, còn nhà thì ở đâu cũng được. Lưu bá nói chúng ta ở gần đây càng tốt, hai nhà qua lại giúp đỡ cũng tiện. Ta thấy ông nội, cha cũng muốn vậy.

Nhà Lưu bá tốt bụng, siêng năng. Nếu hai nhà ở gần nhau quả thật giúp đỡ thuận tiện. Mai xuống giường, mang giày vào:

- Bình ca, đi, mình đi ra nhìn xem gần đây chỗ nào tốt.

Hai anh em vừa ra cửa đã thấy tứ Mi đi đến, tay ôm rổ tre.

- Bình huynh, cơm trưa của huynh nè.

- Cảm ơn muội.

Tứ Mi cười cười mang rổ đặt trên bàn rồi xoay sang hỏi:

- Hai người định đi qua nhà muội sao? Tứ thẩm hỏi Mai tỷ có nôn không?

- Không, tỷ khoẻ rồi. Muội ăn cơm chưa?

- Chưa, giờ muội về nhà ăn.

- Được, muội nói nương ta khoẻ rồi, đừng lo lắng.

Trong cái rổ tre là tô cơm đầy, tôm kho mặn và canh rau. Bình ca ngồi xuống ăn cơm rất nhanh. Hai đứa trẻ lại đội nón ra ngoài.

Từ trong nhà đi ra theo con đường đất, Mai nhìn ngó xung quanh định hướng. Theo hướng đông bắc là dãy núi cao thấp trập trùng, màu xanh đen của rừng cây, chen vào lác đác dãy bạc sáng lấp lánh những con rạch uốn lượn rồng rắn.

Xung quanh nhà mới Lưu bá có mấy khoảng đất nhỏ cây cối xanh um.

- Ca, mình đến xem mấy khoảng đất kia.

Vòng vèo một lượt cũng xem qua hết, mùa này khô nên đi dễ, mùa mưa thì có vài chỗ sẽ ngập nước, hoặc mấy con rạch nhỏ đầy nước thì không cách nào đi qua.

Bình ca nhìn lại, rồi chỉ một khoảng đất gần con mương lớn nhất.

- Chỗ đó hơi xa nhà Lưu bá hơn nhưng đất rộng, đường đi cũng thuận lợi. Nếu có ghe nhỏ thì không ngại, đậu ghe trước nhà luôn.

- Muội cũng thích chỗ đó. Có mấy cây lớn sẵn hạ làm cột luôn.

Trên tay Mai đang cầm mấy nhánh trái trâm và nhãn l*иg hái được lúc đi vào khu đất. Cô định mang về cho ngũ Mi. Xem chung quanh một vòng, hai anh em đi thẳng đến nhà mới Lưu bá. Mai nhắc a Bình lau mồ hôi trên mặt:

- Đừng để nội biết mình đi xem đất trước.

- Ta biết.

Thật mệt a, hai chân mỏi nhừ, đi một hồi đã hơn nửa canh giờ rồi. Xong việc này mình cần tập luyện đi bộ mỗi ngày mới được. Sống ở đây chắc sẽ đi bộ nhiều, sau này học chèo ghe, học bơi nữa.

Nhà mới của Lưu bá đã sắp xong, một nhóm đang làm vách, một nhóm đầm nền nhà. Hai ngày sau là ngày tốt sẽ cúng gác Đòn Đông, lợp úp mái. Nhìn ngôi nhà mới rộng rãi của Lưu bá, Mai tự nhắc mình phải cố gắng nhanh xây được nhà mình. Miếng đất đó đủ rộng, cũng cao nên không sơ ngập, có thể ở lâu dài.

Ngũ Mi ăn mấy trái trâm, miệng lưỡi đều tím ngắt, bé còn le lưỡi nhác mọi người. Mấy đứa nhỏ nhà Lưu bá và hai anh em Mai rủ nhau ra ruộng đào khoai. Tương huynh cũng đi theo, có nhà nội hắn vào giúp nên đã đủ người.

Một lát sau, bá mẫu và nương cũng ra giúp. Mai và tứ Mi còn nhỏ thì chỉ đi gom dây khoai lang lại thành từng đống. Dây khoai già, chỉ ngắt phần ngọn luộc ăn, nhựa khoai trắng dính mấy đầu ngón tay chốc lát thì đen thui. Ngũ Mi nhỏ xíu, đội nón lá lớn, lụp xụp như cây nắm nhỏ chạy tới lui trên ruộng. Có mấy củ khoai bự chảng, bá mẫu dặn không để trầy xước, để làm giống vụ sắp tới.

Nương Mai chốc chốc lại hỏi cô khoẻ không, lau mồ hôi trên mặt cho cô. Lúc trưa Mai chỉ ăn cháo rồi uống thuốc, nên giờ thấy hơi đói, cộng với thuốc có an thần nhẹ nên cô xin về nhà nghỉ. Bình ca định đi theo nhưng cô nói không cần, cô tự về được.

Đến nhà, cô bỏ giày lên giường. Thời này phân biệt nam nữ rất rõ, dù họ chỉ là nông dân bần cùng, đàn bà con gái cũng ra ngoài đồng làm việc, nhưng những việc lớn trong nhà lại không đến phiên họ. Ông nội và cha chắc chắn không hỏi ý kiến bà nội, nương chuyện dựng nhà, xin đất. Nhưng a Bình dù còn nhỏ lại được nghe, đơn giản vì hắn là con trai. Mai chỉ có cách thông qua a Bình để tác động, tạm thời vậy. Từ từ, cô sẽ gây ảnh hưởng để nương, a Cúc và cô ‘có tiếng nói’ hơn, ít nhất là với gia đình nhỏ này.

Suy nghĩ miên man, cô ngủ lúc nào không hay. Khi tỉnh dậy thì trời đã tắt nắng. Trên giường có thêm mấy cái chăn và mấy bộ quần áo.

- Con dậy rồi à, có khó chịu không?

Nương đang múc canh vào tô hỏi.

- Con khoẻ lắm, chắc sáng ăn nhiều nghêu nên mới nôn. Không cần bốc thêm thuốc đâu.

- Ừ,

Nguyễn thị nhìn gương mặt Mai không còn tái như lúc sáng, lúc nãy ngủ rất sâu, hơi thở nhẹ nhàng cũng yên tâm. Dù sao vẫn còn ở đây thêm hai ngày nữa, nếu sáng mai vẫn nôn thì mời lang y.

- Con ra rửa mặt, mời bá mẫu, mấy tỷ vào ăn cơm.

Bên ngoài, bá mẫu và tam Mi đang giặt quần áo cạng cầu nước, tứ Mi giúp phơi quần áo, ngũ Mi ngồi trên đất tự chơi.

- Bá mẫu, tam Mi tỷ, tứ Mi vào ăn cơm,

Mai vừa gọi, vừa cúi xuống bế tiểu Mi vào trong nhà. Cô kéo ghế đẩu ra, dọn chén, đũa xong thì ra rửa mặt.

Hôm nay có món mới là trứng luộc, không phải trứng gà, vịt mà là trứng chim. Tương huynh nhặt được một ổ lớn, hơn mười trứng trên gò đất gần đìa.

- Mùa này đã hết, còn sót lại ổ này. Mấy tháng trước có rất nhiều chim về đây. Chúng bay từng bầy. Lúc đó tha hồ nhặt trứng, đặt bẫy.

Bá mẫu vui vẻ nói. Mai thích ăn trứng luộc với nước tương, hoặc trứng chiên cuộn. Nhưng dầu mắc tiền, mỡ heo thì bá mẫu đã dùng gần hết. Nước tương thì chưa nghe nói, hình như ở đây chưa có ai làm nước tương.

Nhà Lưu ông vào đây bốn người, thêm năm người nhà Mai nữa nên không đủ chỗ ngủ. Cuối cùng là nhóm đàn bà con gái qua nhà cũ bên này, nhóm đàn ông con trai ở bên kia. Bên kia ăn cơm chiều và dọn dẹp xong, bá mẫu và nương mới về đây lo phần ăn bên này.

Mặt trời lặn rồi nhưng ngày vẫn còn chưa tối, bá mẫu và tam Mi ngồi hiên trước vá mấy bộ quần áo. Mai, tứ Mi phụ nương dọn dẹp hai cái giường, quét nhà và mấy việc linh tinh khác.

- Lo xong cái nhà cũng sắp đến sạ lúa rồi. Thím tranh thủ đan giày, làm nón cho tứ thúc và tụi nhỏ. Ở đây lội sình bùn, giày mau hư lắm. A Tương có khi không thèm đi giày, nhưng ta sợ nó đạp gai, đạp rắn.

- Rắn ở đây độc không?

- Cũng có, ta chưa thấy con nào lớn. Không giống miệt trong.

Hai người phụ nữ vừa làm vừa nói chuyện, mấy đứa con gái xúm lại ngồi nghe.

- Thuế ở đây cao không tẩu? Bao nhiêu một mẫu?

- Không cao, một mẫu nộp mười giạ. Nhưng phải nộp thêm sản vật giống ngoài mình. Năm nay chưa biết nộp cái gì.

- Sản vật là nộp gì vậy bá mẫu?

Mai chen miệng hỏi.

- Năm rồi mỗi làng một miếng trầm hương, một cặp sừng hươu.

- Vậy mình phải đi vô rừng tìm sao?

- Đâu có dễ tìm vậy, phải mua. Mỗi nhà giao một phần tiền.

Bá mẫu vỗ vỗ đầu Mai nói, đúng là con nít.

- Trong làng có bán lúa giống không tẩu? Hay đi chợ Cửa sông lớn.

- Trong làng chắc có nhà còn giống nhiều, mua trong kia sợ không phải cùng loại, trồng chung mất công lộn xộn. Nhà ta cũng có dư, lúc đó cho nhà thím.

- Nhờ nhà tẩu nhiều quá rồi.

- Nói gì chứ, có mấy hột lúa. Hai nhà ở gần thì phụ qua lại. Mà thím có nói thúc ấy chọn đất dựng nhà chưa?

- Chưa, do ông nội a Bình chọn. Ta chưa biết, mà cũng muốn ở gần tẩu hơn là vô trong làng.

Bá mẫu và nương cũng nói lợi hại chỗ trong làng, ngoài này như Mai thấy. Mai nghĩ chắc ông nội và cha cũng nghĩ vậy. Hơn nửa là chọn ở đây, có Bình ca theo nói, khả năng chọn khoảng đất đó cũng lớn.

Sáng hôm sau, mọi người đậy sớm, rửa mặt rồi vội vã qua nhà mới chuẩn bị nấu bữa sáng. Ăn sáng xong, nhóm đàn ông làm tiếp. Lưu bá mẫu và tam Mi đi đã quá giang ghe trong làng đi chợ sớm mua ít thịt heo ngày mai cúng.

Đợi mặt trời lên hẳn, cha xuống nhà sau lấy túi tiền.

- Lưu bá dẫn chúng ta đi gặp trưởng làng. A Bình đi theo, nàng ở nhà phụ giúp.

- Được.

Nương đưa túi tiền, theo cha vài bước ra cửa, thấp giọng nói.

- Nương có đưa thêm chiếc vòng bạc nhưng chàng đừng dùng. Ta còn đôi bông tai hồi cưới, chàng cần thì nói ta đưa.

- Ta sẽ không lấy đâu, xin ít ruộng một chút. Khi nào có dư tiền thì xin thêm.

- Tuỳ chàng, chàng đi đi.

Mai ngồi lựa khoai nhưng không tập trung lắm, không biết chuyện bên Bình ca sao rồi. Gần một canh giờ thì Bình ca chạy nhanh vào.

- Nương cho con bình với chén nước lạnh, trưởng làng dẫn nội đi xem đất.

Mai kéo tay Bình ca có ý hỏi.

- Nương, Mai nhi theo con ra đó luôn.

- Ừ, đi đi.

Mai mỉm cười nhìn Bình ca đang nháy nháy mắt với mình.. Hai đứa trẻ ôm bình, chén nước chạy đi. Chạy ra hướng con rạch lớn đã thấy bốn người lớn đang đi dần về ba miếng đất lớn hôm qua.

Mai khoanh tay thưa trưởng làng, ông nội rồi bưng chén nước cho Bình ca rót vào. Cha đón lấy chén mời trưởng làng.

- Dương thúc uống nước,

- Được,

Sau đó là mời ông nội, Lưu bá, cha uống sau cùng. Dương ông chỉ phía trước nói:

- Ở gần a Hà thì mấy chỗ đất này được, cao ráo, đủ rộng làm vườn tược. Bên này là ba mẫu đất ruộng, xa hơn là đất hoang. Nhà cháu khai khẩn thì được miễn thuế mấy năm. Lê huynh với cháu Tâm thấy được không?

- Mấy hào trũng ở giữa sao Dương huynh?

Ông nội nhìn khoảng đất rồi hỏi.

- Ghi tên nhà huynh luôn, không tính thêm thuế đâu. Haiz,.. loạn lạc qua đi mấy năm rồi mà chưa ai dám quay về. Người Chân Lạp tản đi cũng không về. Ở đây chăm chỉ làm lụng sẽ không lo đói. Có mấy làng người Việt mình ở gần chợ Cửa sông lớn đông lắm.

- Ta biết, huynh ghi tên cho a Tâm nhà ta đi. Nhà nó có bốn đứa con trai, vài năm nữa trưởng thành thi khai hoang thêm mấy mẫu ruộng, rồi cưới vợ sinh con.

Mai nhịn cười, ông nội thiệt là, cô khẽ kéo tay Bình ca hướng mắt phía miếng đất.

- Ông nội, miếng đất kia gần rạch lớn, sau này dễ đậu ghe, ghe lớn cũng ghé được.

- Bình nhi,

Cha hơi trầm giọng nhắc Bình ca.

- Ha ha ha, muốn mua ghe lớn nữa à! Giỏi, có chí lớn.

Dương ông quay đầu nhìn Bình ca cười lớn, còn vỗ vỗ vai hắn như khích lệ.

- Miếng đất kia được đó, Lê huynh cùng lại đó xem sao.

- Được, chúng ta đi xem.

Ông nội đáp ứng rồi nối bước theo Dương ông. Lưu bá hướng cha gật đầu cũng theo sau. Một đoàn người tiến về miếng đất gần con rạch lớn nhất uốn lượn song song vũng Đông Hồ.

Con rạch rộng cỡ hai chiếc ghe đi ngang, nước sông đυ.c phù sa lặng lờ chảy. Bờ rạch có những đoạn hẹp đủ hai người đi. Miếng đất rộng, có mấy cây lớn thân to, cành lá sum xuê. Xung quanh là mấy bụi chuối lá xanh mướt, có cây đang trổ bông, cây đã có buồng.

Dương ông cúi người bẻ cành cây bên đường, dùng nó đánh lao xao phía trước, a, là đuổi rắn. Mấy người phía sau cũng làm theo rồi đi xung quanh xem miếng đất.

- Chỗ này dựng nhà được, Lê huynh thấy sao.

- Cháu thấy chỗ này được, ra ruộng gần, muốn khai hoang thêm cũng thuận, liền thành một.

Ông nội gật đầu rất hài lòng, nhìn cha Mai rồi đáp lời:

- Ta thấy được. Sau này nhờ Dương huynh giúp a Tâm nhà ta. Ta rất cảm kích.

- Vậy được rồi, mấy văn tự trình lên trên ta lo giúp, hơn một tuần trăng mới có văn tự được. Nhà huynh định rồi thì tranh thủ dựng nhà, dọn đất trước khi mưa tới.

- Đa tạ huynh. Ta về bàn trong nhà, vài ngày nữa bắt đầu.

- Được, khi nào làm đến báo ta biết.

Dương ông nhìn một vòng rồi quay đi ra.

- Không cần tiễn đâu. Nhà huynh và Lưu huynh đều bận rộn. A Hà, ngày mai cúng Đòn Đông phải không?

- Phải, chiều nay con đến nhà mời bá sáng mai giờ tỵ cúng.

Lưu bá chắp tay nói với Dương ông.

- Ta biết rồi.

Dương ông xoay người chắp tay chào ông nội, gật gật đầu Lưu bá, cha rồi đi. Mấy người ở lại nhìn xung quanh, ông nội hỏi Lưu bá:

- Cháu nhắm năm nay mưa sớm không?

- Giờ cuối tháng ba, trời còn chưa có mây nhiều. Cháu nghĩ hơn tháng nữa, năm rồi cũng tầm giữa tháng năm mới mưa dày.

- Được vậy thì tốt quá. Đi về thôi.

Dọc đường đi cha hỏi Lưu bá mấy việc ruộng đồng.

- Đệ cũng biết, ta không rành việc ruộng rẫy. Nhị tẩu đệ còn biết nhiều hơn. Nhà nàng làng trong. Nương a Bình là người miệt trong chắc cũng biết việc làm đồng.

- Nàng cũng biết một chút.

Nói xong cha nhìn ông nội.

- Ta không nhớ được nhiều, mấy chục năm không làm rồi. Thật không nghĩ là đời này sẽ quay về làm ruộng rẫy.

Nhớ lại chuyện xưa làm ông thở dài, khuôn mặt dàu dàu. Cha áy náy định nói thì ông khoát tay.

- Không có gì, chuyện bể dâu. Con còn trẻ từ từ học cũng không muộn.

Mai lại nhịn cười. Ông nội cũng hay thật, lúc nãy thì nói mấy anh em nhà Mai trưởng thành, lấy vợ sinh con; giờ thì nói cha Mai còn trẻ, thiệt là ông không phải lúc nào cũng nghiêm túc sao! Cũng biết đùa!Chương 14: Bắt đầu bận rộnNền nhà hôm qua đầm kỹ, đã khô lại, có thể dọn một ít đồ vào. Nhóm đàn bà thì lau chùi bàn ghế, tủ giường, lu khạp mang ra phơi nắng sạch sẽ. Nhóm đàn ông tranh thủ ráp cửa đi, cửa sổ, tề lá, buộc dây lạt cho chặt, cho đẹp. Sau đó dọn sân trước, sân sau, đầm đất.

Sáng mai cúng gác Đòn Đông xong sẽ dọn vào, chính thức vào ở.

Lúc ăn trưa, ông nội hỏi nhờ Bùi ông đến dựng nhà Mai vào hai ba ngày sau. Bùi ông đồng ý, còn dặn khi nào đốn cây thì báo ông biết đi theo chỉ cách làm. Tiền công thì giống nhà Lưu bá, làm mấy ngày tính tiền mấy ngày.

Mai rất muốn chạy ra miếng đất xem lại cho kỹ để tính toán trước. Nhưng ai cũng đang làm nhà Lưu bá cho xong, cô chạy đi không phải. Mà nhà Lưu bá đã giúp đỡ rất nhiều, mình không thể chỉ lo chuyện nhà mình.

Lúc bận rộn thì thấy thời gian qua thật nhanh. Tối hôm đó ngủ chưa bao lâu thì trời đã sáng. Nấu nướng, chuẩn bị xong thì vừa đúng giờ cúng. Nhóm người lớn rất nghiêm trang, khấn vái cũng nhiều. Đàn bà con gái không được tham gia nên cô chỉ đứng phía sân sau nhìn.

Cúng xong, nhà Mai không chờ ăn trưa mà gói theo xôi, cá khô, tôm khô rồi về làng chài. Lần này đi nhanh dọn đồ chuyển vào đây chuẩn bị dựng nhà nên Mai không đi theo mà ở lại nhà Lưu bá. Cô nhỏ quá, không thể đi nhanh mà sợ phát bệnh nên ở lại.

Ngày hôm đó và hôm sau, Mai theo tam Mi, tứ Mi dọn dẹp lau chùi, sắp xếp đồ đạc nhà mới, thỉnh thoảng bá mẫu kêu Mai ngồi chơi bé Mi. Bé hơn hai tuổi, tóc lưa thưa dài đến ót. Mai tìm sợi vải túm tóc bé lên cao buộc trên đỉnh đầu theo kiểu tóc cây dừa nhìn rất ngộ.

Sân sau nhà Lưu bá rất rộng, góc có bụi dây nhãn l*иg lớn, lá đã vàng, từng chùm nhãn l*иg chín vàng lẫn trong lá. Mai dắt tay bé Mi, mang theo cái rổ nhỏ cùng nhau hái. Chỉ một lúc đã hái đầy rổ trái chín vàng ươm, chua chua ngọt ngọt. Hai gian nhà làm bếp tạm hôm trước nay để ít khoai, đậu và mấy đồ linh tinh khác.

Hôm nay Mai dậy từ lúc trời chưa sáng, cảm giác hồi hộp và háo hức, dù sao hôm nay là ngày bắt đầu dựng nhà cô. Cô đến đây gần mười ngày rồi. Tuy chưa quen thuộc nhưng đã dần thích ứng. Cô cần ổn định để cùng người nhà tìm kế mưu sinh. Ăn sáng xong cô xin phép Lưu bá mẫu đi ra miếng đất chờ, cầm cây đuổi rắn thật dài.

Khoảng cuối giờ tỵ thì ghe nhà cô đến, cập vào bờ con rạch, nước cạn nên ghe không vào sát bờ. Cha Mai và Bình ca nhảy xuống, vác túi to lội sình đi vào.

- Ông nội, nhị bá, tam bá, cha, nương

Mai cất tiếng chào giòn giã, không dấu được niềm vui.

Cha đi vào đất, chọn chỗ đất cao đặt túi xuống. Mai vội chạy theo quơ cây đuổi rắn xung quanh. Bình ca nhìn Mai cười cười, lấy con dao từ trong túi, bắt đầu chặt cây dọn chỗ.

Mai hiểu ý, đi đến gom cành lá vụng quăng ngoài rìa miếng đất. Chưa đi hai lượt Mai nghe tiếng chân chạy, quay lại là An ca, Vĩnh ca chân dính đầy bùn chạy đến.

- Ca,

- A Mai

Ba anh em hớn hở, An ca, Vĩnh ca là lần đầu đến đây. Biết nhà mình ở đây thì nhìn khắp xung quanh hưng phấn. Bình ca thấy vậy lắc đầu nói:

- Còn không lại phụ ca, nhìn cái gì.

Ba đứa trẻ hì hì chạy lại dọn chỗ.

Phía ngoài ghe, Lê nhị đã xuống ghe, cùng Lê tứ khiêng đồ vào trong đất. Trên ghe là Lê lão và Lê tam chuyển xuống. Nguyễn thị và a Cúc xếp các rổ, thúng và túi ngoài thành ghe, cởi giày bước xuống. Hai mẹ con lội sình đi vào.

- Con nhóm bếp nấu nước, chuẩn bị cơm. Nương mang đồ vào.

- Dạ, nương.

Mai cười chạy lại chỗ nương, bà vừa vuốt tóc Mai vừa dặn Cúc tỷ, rồi vội vàng ra ghe. A Cúc cười nhéo tay Mai rồi quay vào lo bắc bếp, nhóm lửa. Trong hai cái thúng nương và tỷ mang vào là mấy cái nồi, chén.

Cả nhà ai làm việc nấy, bận rộn. Một lát sau đã chuyển đồ xong.

- Con đi báo Bùi bá biết ngày mai mình đốn cây. Báo Dương bá, a Hà bên kia một tiếng luôn.

- Dạ, cha.

Nương tìm ba gói lá từ trong đống đồ đưa cha, là quà biếu ba nhà kia. Cha nhận rồi đi nhanh.

Tam bá và Bình ca bắt đầu ráp mấy món đồ. Ông nội, nhị bá thì dựng tạm cái chòi ngủ buổi tối. Mai cầm hai cái rổ, ngoắc tay Vĩnh ca đi. Mấy lần đến đây Mai đã thấy rau, cây trái mọc hoang rất nhiều. Cô muốn đi hái về làm cơm và ăn vặt.

- A Phúc không đến sao?

- Ha ha,

A Vĩnh cười rất không phúc hậu.

- Nó khóc đòi theo mà không ai cho, dựng nhà xong mới được đến.

Mai hiểu, mấy ngày nay sẽ vất vả, không ai chăm sóc nó. Nếu Mai không đi theo hôm đó thì chưa chắc cô được đến.

- Ca, quài chuối kia chín rồi, bẻ đi.

A Vĩnh chạy về lấy con dao, hai đứa nhỏ cố gắng lắm mới đem được quài chuối xuống. A Vĩnh lại vác quài chuối về. Mai đứng chờ thì thấy đám dây khoai lang. Khoai này mọc hoang, có thể có củ ở dưới, cô xua rắn rồi vui vẻ đi tới. Nói thật là cô rất sợ rắn, miếng đất hoang này có thể là nơi rắn ở, cô phải đề phòng mọi lúc mới được.

Đám khoai lang này vừa có ngọn luộc, vừa đào được mấy rổ củ. Mai làm giống nhà Lưu bá, cùng Vĩnh ca chọn để dành mấy củ lớn làm giống, mấy củ nhỏ mang đi rửa sạch đưa nương.

- Mấy đường ca không đến sao?

- Có, ngày mai đến, chiều nay nhị bá đi ghe về. Ngày mai mang thêm ít đồ còn lại, đi cùng mấy đường ca luôn.

- Nghỉ đánh cá sao?

- Ông nội nói nghỉ vài ngày, bên này gần xong thì về.

- Ca, leo dừa được không? Cao quá.

Mai nhìn mấy cây dừa cao mà ốm nhôm, lá xào xạc trong gió.

- Được, muội đứng xa ra.

Không nghĩ là a Vĩnh leo như khỉ, thoáng cái đã vặn mấy trái dừa thảy xuống. Tiếng bịch bịch liên tục, mấy chỗ đất ẩm, trái dừa lún xuống nằm im. Mấy trái dừa lớn đều bị hái xuống.

Chạy tới chạy lui, Mai đã thấy mệt, khát. Cô rót nước Cúc tỷ nấu uống hết một chén. Cha trở lại cùng với Lưu bá. Chào hỏi một vòng xong, nhóm người lớn đi vào giữa miếng đất. Mấy đứa nhỏ theo sau. Mai nhét mấy rổ tre cho An ca, Vĩnh ca. Cô rất muốn vô phía trong nhưng sợ rắn, đành chờ đến bây giờ.

Mấy cây nhỏ hay rau dại đều bị chặt dạt sang hai bên.

- Đệ định dựng nhà sao?

- Bùi bá nói dựng gấp, cây gỗ tươi không tốt. Ta tính dựng nhỏ, ở vài năm rồi sửa hoặc làm mới.

Cha vừa nói vừa nhìn ông nội như hỏi ý. Ông nội nghĩ nghĩ rồi gật đầu.

- Lần này dựng nhà gấp, nhà thúc chưa đủ tiền. Tính vậy trước.

- Dạ, nếu vậy đệ nói Bùi bá ý này. Bá ấy giúp dựng cột chính, chúng ta làm mái, làm vách; không cần tìm người khác, tiết kiệm mà làm nhanh còn chuẩn bị đất làm lúa.

- Được, sáng mai bá ấy đến ta nói.

- Giờ đến chiều, nhà ta dọn dẹp cỏ, cây dại. Cháu về lo việc nhà đi.

Ông nội nói xong Lưu bá hơi chần chừ.

- Không cần lo, nếu cần gì ta sang nhà cháu.

- Được, thúc đừng khách sáo, cần thì gọi cháu.

- Được, cháu về đi.

Sáng nay Lưu bá đã ra ruộng cuốc đất, làm cỏ, rất vất vả rồi, làm sao để bá ấy phụ nhà Mai được.

- Sau này, hai nhà các con ở gần để ý giúp đỡ hắn, a Hà là đứa sống có tình.

- Con biết, cha.Chương 15: Thám thính xung quanhKhông cần tiễn Lưu bá, cả nhà bắt đầu dọn cỏ xung quanh. Nương cùng Cúc tỷ bưng một mâm nhỏ có cơm, cá, tôm, mấy cái ly, bình rượu và mấy cây nhang đến. Cha đặt lên khoảng đất trống nhỏ vừa dọn, mời ông nội cúng đất. Mọi người đứng im sau lưng ông nội, Mai nghe ông lâm râm khấn vái, cắm nhang rồi quỳ lạy. Ai nấy đều làm theo, ông bước lên rải rượu xuống đất.

Sau đó cả nhà bắt đầu chặt cây, dọn cỏ. Mai cứ phân tâm sợ gặp rắn, có lẽ tiếng động sáng giờ quá lớn, mấy con rắn đã rời đi nên không thấy con nào. Đến khi nước ròng ra biển, nhị bá lên ghe xuôi về làng chài thì đã dọn gần xong. Lúc mọi người dọn thì ba đứa nhỏ đã đem về thêm mấy quài chuối, mấy rổ đu đủ, rau xanh đủ loại. Nương chọn chuối, đu đủ, khoai đưa nhị bá mang về.

Mai nhìn mấy trũng nước xung quanh, ngày mai đường ca vô sẽ tát nước bắt cá. Cô chạy đi gom đống xả đã héo, có cái này tối ngủ mới được đó. Muỗi là ác mộng của cô.

Lo cơm chiều, dọn dẹp xong ba mẹ con Mai đi đến nhà cũ Lưu bá ngủ. Bên này dành chỗ ông nội và tam bá. Cha và Bình ca mang theo giường tre qua, nương dặn Bình ca trông chừng a Vĩnh, a An mới yên tâm để hai cha con đi.

- Hồi nãy bá mẫu có nói con gì không?

- Dạ, có hỏi nhà mình ai vô, làm đến đâu rồi, cần cái gì qua nhà bá mẫu lấy. Con thấy Tương huynh cuốc đất rộp tay luôn, làm ruộng cũng cực quá.

Mai than thở, người ta nói ‘có sức người sỏi đá cũng thành cơm’ mà sức người cũng bị vắt thành nước, thành máu rồi.

- Con tưởng làm ruộng nhẹ nhàng như chiều nay con đi nhặt mấy trái cây đó sao.

Nương nhìn gương mặt nhỏ nhắn đỏ rực rám nắng thở dài như ‘người lớn’ của Mai mà phì cười, đúng là con nít. Hôm nay mấy đứa nhỏ biết lo việc tìm thức ăn mà không phải chạy loạn chơi đùa làm bà cũng vui. Nhưng nhìn con gái nhỏ mặt đỏ bừng vì nắng lại đau lòng, đan thêm mấy cái nón rộng vành che nắng mới được.

Nghĩ đến bà liền ra ngoài chặt mấy tàu lá dừa nước, chọn mấy lá lớn, không bị rách, sáng mai phơi ít nắng khi lá dốt thì đan, nan tre chắc sáng mai mới làm được.

Bữa ăn sáng là canh đu đủ xanh nấu tôm, khô cá nướng với cơm. Trên bếp nương còn nấu sẵn nồi khoai ăn thêm. Mặt trời chưa lên đã ăn xong, ai cũng bắt tay làm việc.

Chiều hôm qua Mai thấy mấy con ong nhỏ bay về hướng góc xa miếng đất, nếu có tổ ong thu được mật thì tốt quá. Mật ong rất tốt cho sức khoẻ, đặc biệt ông bà nội. Còn sớm như vậy không biết ong rời tổ chưa ta?

Mai kéo Vĩnh ca theo hỏi:

- Ca biết lấy mật ong không?

- Ong gì? ở đâu có?

Vĩnh ca mắt sáng lên hỏi, lần trước bọn chúng chọc tổ ong nhỏ ở chân núi Lộc Trĩ, bị ong đuổi theo chạy như điên.

Có người lớn xung quanh, Mai dạn dĩ hơn, cầm cây xua xua đi về góc xa. Hai đứa nhỏ ngẩng đầu chăm chú nhìn lên mấy tán cây xanh rờn. Đi một vòng mà chưa thấy tổ ong nào, bỗng nhiên Vĩnh ca la lên:

- Nghe thấy không? Tiếng vo ve như tiếng ong, gần đây nè.

Mai đi lại gần hơn, đứng im, trong tiếng gió, tiếng lao xao Mai nghe được âm thanh rù rù nho nhỏ, đúng rồi, chúng ở gần đây. Ánh nắng sáng chiếu lung linh trên tán cây cao, thỉnh thoảng chui vào mắt chói loà.

- Ở kia, gốc cây mục lớn đó.

Vĩnh ca háo hức chạy bị Mai nắm tay kéo lại. Hai đứa nhìn về hướng gốc cây có gò đất nổi lên. Ong cũng thích làm tổ ở gốc cây, gò đất mà Mai quên mất. Cái tổ chắc lớn, có năm sáu con đang bay xung quanh, vo ve giống như bảo vệ.

Mai không dám lớn tiếng, nháy mắt hất càm về phía người nhà, a Vĩnh hiểu ý gật đầu. Cô rón rén bước đi, xa một chút thì hưng phấn chạy về phía cha.

- Cha ơi, có tổ ong. Cha đi lấy cho con.

Nghe tiếng cô, cha và tam bá gần đó quay lại.

- Ở đâu, lớn không?

- Dạ, lớn. Vĩnh ca đang ở đó canh chừng.

- Được,

Tam bá nói xong thì cùng cha đi theo Mai. Vĩnh ca đã lùi xa hơn vị trí ban nãy, ha ha nhóc con này cũng sợ. Tam bá nhìn xung quanh rồi nói:

- Hướng gió bên này, ta hun khói ở đây. Nhìn giống ong lỗ.

Theo tam bá chỉ, tìm mấy nhành cây khô đốt lửa, rồi nhét nhánh còn tươi vào. Khói bắt đầu bay lên, theo hướng gió về phía tổ ong. Chỉ một lát sau, mấy trăm con ong bay vèo vèo ra khỏi tổ, Mai hơi hoảng, không ngờ mình cũng thấy được cảnh này.

Tam bá chạy đến tổ, nhanh tay đào gốc cây mục, cha phụ đào đất xung quanh lấy ra cái tổ ong đặt vô rổ Vĩnh ca đang cầm. Một ít miếng vụn cũng được đặt vào rổ Mai. Mùi mật thơm lan toả, Mai hít thật sâu, nước miếng muốn chảy ra.

Tam bá dập khói, bốn người rời đi. Mai nghĩ đến mấy động tác thuần thục của tam bá, ngạc nhiên nhìn nhìn. Cha hiểu ý cười cười:

- Lúc nhỏ bá con là cao thủ săn ong đó.

- Ha ha, lâu rồi không đi nữa. Nhớ lần đầu đệ theo ta săn ong không?

- Sao không nhớ, ca hại ta bị ong chích mấy mũi trên mặt,...

Thấy hai đứa nhỏ hứng thú nghe chuyện, còn nhìn mình hâm mộ, tam bá vui vẻ kể mấy chuyện đi săn ong, ong gì, tổ lớn như thế nào. Mai không biết là tam bá cũng có những lúc sảng khoái như vậy. Trong trí nhớ cô thì bá ấy hay nhăn nhó, ít khi cười lớn. Có thể cuộc sống vất vả, mệt nhọc làm người ta quên đi cảm giác vô tư, thoả mãn.

Về đến chòi, thấy ông nội đang uống nước. Cả nhà rôm rả nói xem nên làm món gì với tổ ong này. Mai nhờ Cúc tỷ tìm cái bình có nắp, Bình ca bẻ một nửa tổ ong đặt vào.

- Để dành Vinh ca mang về.

- Ở đây chắc còn nữa, rãnh rỗi ta đi xung quanh tìm thêm, có thì mang về.

Tam bá nói rất tự tin. Dù sao cũng không ăn hết cả tổ, Mai vẫn đem cất. Chiều nay sẽ có thêm món cháo đậu xanh nấu ong non. Cô chưa từng ăn món này, không biết mùi vị ra sao. Nhưng cô rất thích uống nước mật ong pha gừng. Hôm trước thấy nhà Lưu bá có gừng, chắc là xung quanh đây có gừng mọc hoang, cô sẽ kiếm rồi mang về trồng, gừng sẽ dùng trong nấu ăn và trị bệnh cảm đươc.

Phía xa có dáng người đi về phía này, hình như là Bùi ông, thợ mộc. Mọi người không đi mà đứng lại chờ ông. Chào hỏi xong thì ông nội nói ý hôm qua về tình hình trong nhà. Bùi ông nghe rồi gật đầu.

- Tính vậy cũng được. Ta chỉ mấy cây cần, khi đốn chỉ vát cành thôi. Hai ngày sau là ngày tốt, ta đến cúng dựng nhà. Đệ làm nhỏ thì ta làm tầm ba bốn ngày là xong cột kèo, còn lại nhà đệ làm tiếp, được không?

- Được, tạ ơn huynh.

- Không cần khách sáo. Theo ta chỉ mấy cây làm dấu. Ta mang theo cái rìu cho đệ dùng, sẽ nhanh hơn. Hai hôm nay ta nhận đóng bộ ván nhà a Hà, không cần nó.

Ông nội cảm ơn rồi đi theo chọn cây. Có cái rìu sắc bén kia thì sẽ đỡ nhiều công sức. Thời này công cụ sắt thật quý, đắt tiền, không phải ai cũng có.

Mai thấy không cần lo nữa nên lại kéo Vĩnh ca đi làm việc của mình: kiếm thức ăn bổ sung dinh dưỡng. Mặc dù cá tôm ngon, cũng có chất dinh dưỡng, nhưng thiếu thịt. Mấy hôm nay chỉ có Lưu bá mẫu mua miếng thịt heo cúng gác Đòn Đông, còn lại là cá, tôm bắt từ rạch, hào xung quanh.

Mai nghĩ ở đây chắc có gà rừng, vịt trời, chim chóc và các loài thú khác thỏ, heo. Cô chỉ mới biết vài nhà như Lưu bá, Bùi ông, Dương ông, họ đều không đi săn nhưng nhà khác chắc có. Hơn nữa đang là mùa khô, động vật đều trốn nắng, đến mùa mưa chúng sẽ xuất hiện đi kiếm ăn, sinh sản.

Đi một vòng xung quanh, Mai tìm thấy một nhóm bụi gừng, củ từng chùm. Cô đào một ít mang về, còn lại để chúng sinh thêm cây con sẽ mang về trồng. Lát sau, Vĩnh ca tìm được một mảng khoai lang, củ hơi trắng không phải đỏ như loại hôm qua tìm được. Cách đó vài thước có mấy cây khoai mì khẳng khiu. Lúc đầu cô không nhớ đó là khoai mì, nhìn quen quen nên đào thử dưới gốc, phát hiện ra củ khoai mì dài gần bằng cẳng tay. Nó sống ở đây lâu lắm rồi, không ai tìm ra.Chương 16: Đường thốt nốt và tổ ong đấtĐào xong bụi khoai mì, định đi tiếp thì nghe tiếng Bình ca gọi. Bình ca và An ca đang đi về phía này, trên tay xách theo con dao, mấy cọng dây lạt.

- Ca đi chặt cây gì?

- Nương kêu ta đi chặt tre, làm nan đan

A An đưa cho hai đứa chuối và mấy củ khoai nhỏ. Làm việc tay chân thiệt tốn sức, đúng là thấy hơi đói bụng rồi.

- Nhị bá và mấy đường ca đến rồi. Đang đi chặt lá dừa. Bảo ca nói sáng nay a Phúc khóc đòi theo quá trời, hi hi.

A An không phúc hậu chút nào, Mai thấy hơi nhớ a Phúc.

Cả nhà đến rồi, công việc cũng sẽ nhanh hơn. Bụi tre thật lớn gần gò đất nhỏ kia, bốn đứa cùng nhau qua đó. Đi ngang qua hàng cây thốt nốt cao ngất mới đến bụi tre.

Bình ca chọn mấy cây tre thẳng, vừa nắm tay chặt xuống, róc lá, bỏ ngọn để qua một bên. Gai tre chằng chịt nên mấy cây đầu chặt chậm, sau đó mới nhanh hơn.

- Ca, đường thốt nốt mắc lắm sao?

- Ừ, muội hỏi làm gì? Thèm ăn chè hả?

- Không phải, đường đó khó làm lắm à?

- Đường không khó làm, khó là không lấy được nước thốt nốt.

An ca xì xì chen vô:

- Muội nhìn xem, cây thốt nốt cao như vậy đâu có dễ leo. Cha nói có người leo té xuống không thở được chết luôn đó.

Mai nghe xong nhìn Vĩnh ca, hắn lúng túng nói:

- Đúng rồi a Mai, cây dừa thấp ta leo được. Cây thốt nốt không được đâu. Cha biết sẽ đánh chết đó.

Mai bĩu môi nói:

- Muội kêu ca leo hồi nào!

- Hì hì.

A Vĩnh thấy Mai bĩu môi, cảm thấy hơi áy náy cười hì hì lấy lòng, hai đứa thân nhất nhà nên đương nhiên a Mai không xúi hắn làm bậy.

Mai giờ mới hiểu vì sao đường mắc, cây thốt nốt có sẵn nhưng khó lấy nước, nguy hiểm như vậy ai không sợ. Nhưng mà nếu mình có cách leo hái an toàn hơn thì sao? Mình có thể làm đường thốt nốt bán kiếm ít tiền không? Bù vào tiền dựng nhà, mua lúa giống nữa.

Nghĩ nghĩ xong cách, Mai chạy lại gần cây thốt nốt quan sát, ước chừng chiều cao cây thấp nhất.

- Ca, muội có cách leo cây thốt nốt không sợ té.

- Thật không? Làm sao?

Ba đứa con trai đồng thanh hỏi, nếu làm được đường thốt nốt có thể dùng trong nhà, còn bán được.

Mai lấy nhánh cây vẽ xuống nền đất, vừa giải thích làm sao để làm, còn nói thêm:

- Muội mới nghĩ ra, chưa chắc làm được nên chưa cần nói mọi người.

- Được,

Mai bổ sung:

- Chắc là leo được.

A An gom mấy bó tre vừa chặt, nói:

- Ta mang về cho nương trước, sẵn mượn con dao nhỏ và mang mấy bó lạt lại đây luôn.

Ba đứa ở lại bắt đầu lo việc của mình. A Vĩnh nối rồi bện dây lạt, Bình ca chọn cây tre già, thẳng, thân to đốn xuống. Chặt nhánh chừa lại gốc nhánh làm bậc, tuốt bỏ lá xong hai đứa kéo về phía cây dừa thấp làm thử. Đúng là trèo lên dễ dàng hơn, nhưng phải tìm cây tre cao hơn nữa. Từ xa, An ca nhìn thấy hớn hở chạy đến, được rồi. Các bước chuẩn bị khác cũng làm xong, giấu mấy cái này trong bụi tre, bốn đứa về nhà ăn cơm.

Mai nháy mắt ra hiệu Vĩnh ca, hắn liếc xung quanh rồi nói:

- Vinh ca, chiều nay đi tát đìa với tụi đệ không? Chỗ kia nước gần cạn rồi, cá nhiều lắm.

Vừa nói vừa chỉ hướng đìa nhỏ gần đó. Mọi người đều nhìn ông nội. Ông nghĩ nghĩ rồi gật đầu.

- Tát xem có thêm mấy cá tươi ăn.

- Dạ.

Mấy đứa nhỏ hớn hở ăn cơm, nghỉ trưa để chiều còn đi.

Nghỉ trưa xong, Mai không đi xem tát đìa mà quanh quẩn gần bếp. Cô đang nghĩ, có nước thốt nốt rồi lấy gì làm khuôn đường? nghĩ không ra, từ từ vậy.

Vị trí dựng nhà ở phần trước miếng đất, cách rạch gần năm mươi thước (1 thước = 0,47m). Sân sau rộng hơn thuận lợi trồng rau, nuôi heo gà. Sân trước để phơi lúa. Cửa chính nhà là hướng Nam, Mai không nhớ rõ lắm nhưng thời trước đọc sách đều nói nhà ở miền này đều xoay hướng nam hoặc hướng ra sông. Hình như là tránh nắng và nhận gió tốt.

Nương và Cúc tỷ bận rộn vót đan, đem phơi, còn lo phơi lá lợp nhà. Mai đi ra phụ lật đan tre thì nương bảo không cần, ra nắng sợ bệnh. Mai định ra đìa xem cạn chưa thì a An đã chạy vào:

- Nương, bắt được ba ba, hai con.

- Đâu, nương coi, cũng trọng. Mai, con hỏi ông nội có muốn ăn ba ba chiều nay không? Món gì để nương làm.

- Dạ.

Thịt ba ba rẩt ngon, bổ dưỡng nên ai cũng thích ăn. Ông nội muốn ăn ba ba hấp rượu trắng. Mai báo nương biết rồi chạy ra đìa. Đìa đã cạn nước, chậu bên này tôm búng nước tanh tách.

- Muội ôm nổi không? Mang về trước đi, để lâu quá nó chết hết.

Vinh ca đứng dưới đìa nói.

- Được, muội mang về.

Cá trê, cá lóc, cá rô còn rộng được (rộng - từ địa phương - là đem cá thả trong nước sạch), tôm thì phải làm liền. Cúc tỷ và Mai ngồi chỗ mát cắt bỏ đầu, đuôi tôm. Nương thì kiếm mấy cái chậu lớn để rộng cá. Mấy con cá nhỏ được làm sạch rồi làm mắm để an dần. Xem ra thức ăn trong mấy ngày tới là không lo rồi; chỉ thiếu tiền thôi.

Hay là dùng gáo dừa khô đổ khuôn đường?

Gió chiều thổi mát rượi, trên bàn ăn có ong non nấu cháo, ba ba hấp, tôm kho dừa làm mọi người vui vẻ, rôm rả nói chuyện. Mai giật mình, mới đây Mai đã dần quen cuộc sống không có tiếng nhạc, không có tivi hay phim xem. Trời tối là lo đi ngủ, sáng dậy sớm như gà, âm thanh là tiếng gió thổi, chim kêu, cả ngày chỉ quanh quẩn ở nhà, nói chuyện người nhà. Vậy mà cũng thấy thoả mãn.

Tối nay mấy đường ca ngủ trên ghe, An ca, Vĩnh ca cũng đòi theo. Ăn cơm xong, cả đám nướng thêm một rổ khoai, mấy con cá lóc, kèm theo muối rồi rủ nhau lên ghe chơi. Ông nội cũng không nói gì, ngồi nói chuyện một chút thì lên ván ngủ.

Ba mẹ con Mai quay về nhà bên này, trời đã mờ tối nên về nhà tranh thủ tắm xong lên giường ngủ ngay.

Hôm sau, nương dậy sớm hơn mọi ngày, nhẹ bước đi qua bên kia. Bùi ông dặn cúng dựng nhà giờ Mão (từ 5 - 7 giờ sáng) nên nương thức sớm chuẩn bị. Lễ cúng đơn giản cá tôm nướng, dừa gọt vỏ xanh, trái đu đủ to vừa chín tới, rượu và nhang. Bùi ông lâm râm khấn vái, đến ông nội rồi lần lượt theo thứ tự từ lớn đến nhỏ, đương nhiên là không bao gồm đàn bà con gái.

Hơi uất ức, đúng không? Nhà này nương, Cúc tỷ và Mai cũng có đóng góp chứ, không ghi nhận công sức gì cả!

Người nhiều, sức lớn, lại có Bùi ông chỉ huy nên ai nấy làm việc hết sức. Mai định kéo Bình ca đi làm tiếp việc chuẩn bị làm đường nhưng nghĩ lại nên chờ thêm mấy ngày nữa. Chiều nay tam bá về làng chài, Mai kéo Vĩnh ca đi xung quanh tìm tổ ong, nếu may tìm được mang cả tổ về cho bà nội, bà sẽ vui.

Hôm nay đi xa hơn qua khỏi bụi tre, đến bìa rừng. Hai đứa không tìm trên cây mà cúi tìm chỗ đất cao hay gốc cây lớn mục. Trên chỗ này không có tổ ong mà có dây leo, gân lá tím nhạt. Mai không nhớ lá của cây gì, đào thấy củ sẽ biết. Ngay sát mặt đất chỉ có lớp lá phủ là một củ lớn hơn khoai lang, vỏ đen sần sùi. Lấy cây vót nhọn đâm vào, bên trong ruột tắng hồng, sựt sựt, nhớt nhớt.

- Củ này ăn được không? Ta mới thấy lần đầu.

- Muội không biết, mang về hỏi nương.

- Ừ.

Loại này cũng giống khoai lang, một bụi có một củ chính lớn, mấy củ phụ nhỏ hơn. Xung quanh có rất nhiều loại khoai này. Tự nhiên Mai thấy nhột nhột trên cánh tay, quay lại nhìn, trời ơi! Một con sâu lông bự chảng, đỏ rực, ahhhhh.

- Ca, ca,... tay muội.

Mai sợ đến líu lưỡi.

- Phù,... có bị cắn chưa? Ngứa không?

Vĩnh ca lấy nhánh cây khều con sâu xuống, thấy Mai sợ thì lo lắng hỏi.

- Chưa,

- Ha ha, con sâu nhỏ xíu mà.

- Ca dám cười, muội bắt nó bỏ lên tay ca xem,

Vĩnh ca nghe vậy còn cười to hơn, nhưng cũng chạy tránh xa.

- Muội dám bắt nó không? Ha ha.

Không biết con sâu bị quăng đi đâu, Mai đứng dậy, trừng mắt nhìn a Vĩnh rồi bỏ đi về. Nhóc thấy Mai giận thì không chọc nữa, ôm rổ khoai đi theo sau.

- Mấy con này cắn ngứa ngứa, lấy muối sát vô chỗ bị cắn, một chút là hết.

Mai không thèm trả lời, đi đến gần bụi tre thì a Vĩnh kêu lớn,

- Đừng bước tới, nhìn phía gốc tre to kìa!

Mai dừng lại, không biết có phải chọc mình không.

- Thấy không? Tổ ong đó.

Hả, đúng rồi, là tổ ong dưới gốc tre. Tìm cả buổi không thấy, giờ nó ngay trước mặt. Hôm qua, mấy đứa ngồi phía kia bụi tre nên không thấy nó.

- Muội đứng xa ra, ta chạy nhanh về gọi tam bá.

Không cần nhắc Mai đã lùi về phía mấy cây thốt nốt, tổ ong đâu cần cô trông chừng!Chương 17: Nhiều việc phải lo!Rất nhanh tam bá đến, phía sau là Hân ca cười hì hì chạy theo. Hân ca năm nay gần mười tám, rất hoạt bát, thích náo nhiệt, chỗ nào đông vui là có mặt hắn.

- Cha, con lấy cho.

Tam bá gật đầu đưa đá lửa cho Hân ca. Hắn cũng nhìn nhìn hướng gió, ra vẻ lắm, Mai suýt chút phì cười. Cái rổ mang theo đã gần đầy khoai, Mai đi xé mấy tàu lá chuối gần đó chuẩn bị đựng mật ong. Trời trưa đứng gió, khói do Hân ca đốt lên không bay đến được tổ ong. Gương mặt Hân ca, Vĩnh ca đều nhăn, ta xem bây giờ ca làm sao!

Hân ca gấp gáp chụp tàu lá chuối Mai đang cầm quạt gió về hướng tổ ong. Khói nhè nhẹ thổi tới, tiếng vo ve trong tổ lớn hơn, mấy con ong bắt đầu bay ra. Tam bá lùi ra xa phía đám khói, Mai nhanh chân lùi theo, đưa tam bá tàu lá chuối khác cùng nhau quạt. Khói từ từ dày đặc thổi về hướng tổ ong, từ trong tổ ào một đám mấy chục con giống như vệt đen di động, liên tiếp là mấy lượt nữa. Tam bá quạt càng nhanh, càng mạnh. Mai cùng a Vĩnh tìm lá khô, lá tươi thêm vào.

Theo số lượng ong bay ra, tổ này lớn hơn tổ trước nhiều, ở chỗ trống gió đổi chiều, đàn ong bay loạn xạ, như muốn ào ào về chỗ mọi người đứng; thật nguy hiểm. Thấy tam bá gật đầu, Hân ca mới đi đến tổ, đào lớp đất mặt, xắn tổ ong mang ra, thật lớn, thật thơm.

Lúc về là tam bá ôm tổ lớn trong lá chuối, Hân ca ôm cái rổ phía trên là phần vụn. Tam bá còn dạy Hân ca cách đoán tổ lớn nhỏ, đặc biệt là loài ong gì. Mỗi loài ong phải chú ý cái gì. Ba đứa trẻ nghe say mê. Đúng là cao thủ săn ong!

Ăn trưa xong tam bá về làng chài, nương gói theo khoai, đậu và nguyên tổ ong lớn lúc nãy. Ông nội dặn mấy chuyện rồi mọi người quay vào làm việc tiếp.

Ở đây người ta thích ăn khoai lang hơn khoai mì. Khoai mì có vị hơi đắng, không ngọt, mà cũng không dễ mang theo bên người. Mai đang nhớ lại cách làm món khoai mì ở hiện đại, khoai mì nấu nước dừa hoặc rắc cơm dừa nạo lên chấm muối mè ăn cũng ngon. Mai không thấy hạt mè, dừa thì có nhưng không có cái bàn nạo, làm sao?

Dừa mọc tự nhiên rất nhiều, người dân thích uống nước dừa, ăn cơm dừa non, nhưng cơm dừa già, cứng bị quăng đi. Trái dừa khô tự rụng xuống, đâm chồi thành cây, góc trong vườn sau có hai cụm dừa lớn, mỗi cụm năm sáu cây, rễ đan xen trồi lên mặt đất. Không cần ai chăm bón, chúng vẫn vươn cao, trái chen nhau thành những quài dừa lớn. Ở đây cây dừa chưa có nhiều công dụng, cần nghĩ cách, đặc biệt là các công cụ, dùng tay thì không thể rồi.

Suy nghĩ lan man một hồi cũng chưa thể bắt đầu làm gì ngay được, đành gác lại.

Nền nhà đắp cao hơn sân ngoài mấy tấc, tưới nước cho mềm rồi dùng cây đầm xuống, tất cả đều dùng sức người. Nhìn mồ hôi đổ xuống ướt đẫm áo cha, ông nội, nhị bá, Mai thấy xót xa.

Bùi ông chỉ dẫn cha dựng cột, gác kèo, thanh chống, làm nền xong thì không đến nữa. Nhà Mai không làm kỹ như nhà Lưu bá, đầu cột không đυ.c, tiện công phu, đẹp mắt mà chỉ vát đầu gỗ tròn. Bùi ông hẹn ngày cúng gác Đòn Đông sẽ đến.

Các công việc còn lại người nhà tiếp tục làm. Trong mấy ngày này, nhị bá và tam bá thay phiên nhau về làng chài mấy lần. Ngoài đó chỉ có thất thúc năm nay mười lăm trông nhà, còn lại là đàn bà, trẻ em nên cũng không an tâm.

Vất vả hơn mười ngày thì nhà cũng xong, qua rằm tháng tư là ngày tốt cúng cất Đòn Đông. Tam bá và mấy đường ca quay về làng chài, định nghỉ ngơi một ngày, đợi ông nội và nhị bá về sẽ ra biển. Không đi biển nửa tháng nay là mất một khoảng tiền, mùa bão sắp đến, lẽ ra phải tranh thủ. Nhưng dựng nhà cho con trai cũng cần thiết, ông biết phân nặng nhẹ. Giờ nhà con trai đã xong, ông lại nôn nao muốn về nhà.

Sáng nay nương đã đi chợ mua thịt heo, hột gà, rượu, nhang chuẩn bị cúng. Ngày mai cúng đầu giờ Tỵ, nên khuya nay dậy sớm nấu cơm rồi. Trời nóng thịt mau hỏng, nương đã ướp muối, cá lóc lựa con to nhất rộng riêng trong chậu. Mọi thứ đã sẵn, mọi người đều thở dài nhẹ nhõm. Đang dọn dẹp chuẩn bị về bên kia thì trời bỗng sáng loè, sét vạch ngang trời, sấm ầm ì. Mọi người đểu ngẩn người, mưa sao?

Hôm nay mới giữa tháng tư, theo lệ thường là đầu tháng năm mới bắt đầu mưa. Năm nay mưa sớm! Ông trời đừng đùa chứ, ba mẫu đất đã nộp thuế còn chưa làm gì, mưa đến sớm, đất ướt, công việc cuốc đất, làm cỏ càng vất vả hơn.

Lại bận rộn gom đồ vào, gió thổi mạnh làm đống lửa cháy lón, ngọn lửa liếʍ ra tứ phía. Ông nội ra bờ sông nhìn trời.

- Chưa mưa đâu, ta nghĩ mưa ở phía Trấn Biên.

‘Trấn Biên’ là Đồng Nai phải không? Lời ông nội như nhắc Mai nhớ ‘Cô là ai, từ đâu đến’. Từ hôm dựng nhà này bận rộn, mệt mỏi, cô không kịp nhớ ‘nhà’ đã ngủ. Khoảng cách không gian, thời gian như gần như xa, cũng may trời tối không ai thấy đôi mắt cô đã ngấn lệ, trong đó còn chứa những hoài niệm, cảm xúc mà đứa bé tám tuổi không thể có được.

- Mai, về nhanh.

Tiếng a Cúc gọi ngắt ngang suy nghĩ, Mai nhìn xung quanh như lần đầu tiên đến, chầm chậm theo chân nương và Cúc tỷ về.

Đêm qua trời không mưa. Bùi ông đến sớm, xem xét trước sau, thỉnh thoảng sửa sửa một chút, nhìn chung cũng được. Sắp đến giờ cúng thì Dương trưởng làng và ba người lớn nhà Lưu bá qua. Mấy ngày này hai nhà này đều lo cuốc đất, làm cỏ, chỉ thi thoảng ghé xem rồi về.

Lễ cúng đơn giản, Bùi ông khấn vái rồi trèo lên nóc nhà, nhận cây Đòn chính gác lên mái, buộc chặt là xong nghi thức. Nhà ở đây theo hướng nam, nên cây đòn chính đặt theo hướng đông tây, cây đòn này nằm ở chỗ cao nhất nhà nên có ý nghĩa quan trọng. Chủ nhà cúng bái để cầu bình yên, mà cũng là đại biểu nhà đã dựng xong, cầu trời đất chứng giám, phù hộ. Tên gọi lễ cúng rút ngắn dần thành Cúng gác Đòn Đông hay cúng cất nóc nhà.Chương 18: Nhà mới, ruộng mớiKhách mời ít, nhà Mai có ông nội, nhị bá và cha tiếp khách nên ai cũng nói mấy lời chúc mừng dựng nhà mới kịp lúc. Ai cũng vội nên ăn cơm nhanh. Lúc khách cáo từ về lo việc đồng áng thì ông nội và nhị bá cũng tranh thủ cùng cha đi vòng quanh ba mẫu đất nhà Mai.

Lưu bá mẫu và Tương huynh ăn cơm sáng chung với nhà Mai bàn phía sau. Hai người cũng vội về theo Lưu bá làm đồng.

– Nhà ta cuốc gần xong rồi, lúc đó qua phụ thím một chút.

– Không cần đâu, ngày mai nhà ta cũng bắt đầu làm, chắc kịp trước khi mưa. Nhờ tẩu giúp ta đi hỏi mấy nhà dư lúa giống để lại được không?

– Được, chiều nay đi làm về ta đi hỏi, báo thím sớm.

Trò chuyện mấy câu trong bữa ăn vội vã, ai cũng chạy làm việc cho kịp mùa mưa.

- Nương, nương

Phía ngoài rạch nghe tiếng gọi thất thanh, cái bóng áo xanh chạy ào vào, là a Phúc. Gương mặt hắn mếu máo, ôm nương nức nở:

- Nương bỏ con, cả nhà bỏ con, hu hu.

Nương ôm a Phúc vào lòng dỗ dành.

- Đâu có, sao nương nỡ bỏ a Phúc chứ, ngoan, nín đi.

- Vậy sao không cho con về nhà mới, hu hu.

Cũng có mấy giọt nước mắt, là khóc thật sao? Mai nhịn cười nắm tay hắn chỉ.

- Đệ nhìn nhà mới của chúng ta đi, đẹp không? Cho đệ là người đầu tiên dọn vào ở, chịu không?

- Thật?

Mai cười liếc hắn rồi dẫn hắn đi vào xem nhà mới, chưa ai kịp dọn vào nhà cả nên lời lúc nãy là thật, chỉ là mọi người bận quá chưa vào chứ không phải là chờ hắn vào trước, ha ha.

Đi sau a Phúc là thất thúc Văn Tấn và đường ca a Bảo. Hai người chắp tay chào nương rồi đi theo vào nhà.

- Đã ăn sáng chưa? Ta dọn cho đệ và a Bảo ăn. Cha đi xem ruộng. A Bình đi báo ông nội đi.

Nương gật đầu với hai người nói.

- Đã ăn sáng rồi, tẩu không cần dọn. Đệ xem nhà xong đi với a Bình ra ruộng luôn. Từ từ về cũng được.

Thất thúc là lần đầu tiên đến đây, đương nhiên là muốn xem một vòng. Hắn, Bảo ca, Bình ca gần tuổi nhau nên hay chơi chung, dù gọi chú cháu nhưng nhà nông dân cũng không nhiều lễ nghĩa. A An, a Vĩnh cũng chạy theo thành một đám loai choai ra ruộng, trên đường chỉ trỏ loạn xạ.

A Phúc thì lật đật ôm quần áo của hắn đặt vào tủ đồ, xem như là người đầu tiên vào nhà mới. Nương, Cúc tỷ và Mai nhịn cười nhìn nhóc lăng xăng tới lui.

Bốn đứa con trai sẽ ngủ nhà trên, cái giường là giường cũ mang từ làng chài vào. Bên trái gian thờ là chỗ trống, sau này đặt bộ ván dành cho khách. Phía sau có hai phòng nhỏ, một phòng là cha nương, một phòng cho Cúc tỷ và Mai. Bếp đặt sau cùng, có sạp tre nhỏ để ngồi ăn cơm.

Ba người vừa soạn một ít đồ mang về làng chài vừa nghe A Phúc nhõng nhẻo, hắn rất thích ăn mật ong, lấy khoai lang chấm mật ong, khoai mì chấm mật ong.

Mai ôm mấy củ khoai đen sì trong góc ra, từ hôm đào được nó xong quên luôn.

- Củ này là khoai gì vậy nương?

Nương cầm xem, lấy con dao xẻ một góc rồi nói.

- Khoai mỡ, con đào ở đâu?

- Gần mấy cây thốt nố đó nương.

- Khoai này nấu canh tôm ăn cũng được, nhưng nó không ngọt.

A, là khoai mỡ, Mai nhớ rồi, lúc nhỏ ngoại hay nấu canh này, hình như nó rất dễ trồng, không cần chăm sóc, đất nào cũng sống được. Hèn chi trên đất hoang mà củ nó cũng to như vậy.

- Chiều nay mình ăn đi nương.

- Được,

Nương suy nghĩ một chút rồi tiếp.

- Cái này nhà mình ăn thôi, không cần đưa cho nội.

- Sao vậy nương?

- À, à, cái này ít người thích ăn.

Bà còn muốn nói thêm, chỉ những năm mất mùa người ta mới đào khoai này ăn đỡ, ăn nhiều cũng không tốt, lạnh bụng.

Gần một canh giờ sau thì ông nội về, thấy nương chuẩn bị đồ mang lên ghe ông nói:

- Không cần mang nhiều vậy, chỉ một ít cá đồng khô và rau là được. Cái khác để mấy đứa ăn. Ta về ngoài kia có đủ thức ăn.

Nương nhìn cha hỏi ý.

- Nàng nghe cha đi, mang theo mấy món ăn trưa trên ghe nữa.

- Được.

Nương gói cơm, cá, tôm khô, thịt vào trong cái rổ lớn.

- Cho ta thêm khoai mì nước dừa với muối.

Nhị bá dặn thêm. Khoai mì nấu nướcc dừa là hôm trước Mai và a Cúc làm, thay vì dùng nước nấu khoai, Mai chặt trái dừa lấy nước ngọt nấu, muối biển nghiền mịn để chấm ăn. Nhị bá rất thích ăn, vừa béo, vừa ngọt lại mặn mặn. Thất thúc nghe món lạ cũng bước tới ăn thử rồi gật gật, có nước dừa ngọt ngọt dễ ăn hơn. Mai cười tươi đưa hết rổ khoai mì vừa nấu cho thất thúc mang lên ghe.

- Ngày mai cuốc đất chuẩn bị, không biết hỏi a Hà, theo mọi người mà làm. Cha không vô đây thường được, làm gì phải cẩn thận.

- Con biết, cha.

Ông nội dặn dò thêm mấy câu thì ra ghe. Cả nhà Mai đứng tiễn đến khi ghe theo cua ra sông mới vào, giờ ra làng chài sẽ ngược dòng nước, chèo mệt hơn, nhưng có bốn người thay phiên cũng đỡ.

Đến giờ ăn trưa thì nhà mới đã sắp xếp xong, chòi tạm giữ lại để đồ linh tinh, bàn ăn chưa có nên tám người ngồi trên cái sạp tre gần bếp ăn luôn.

- Ngày mai tụi con giúp cha nương nhổ cỏ ruộng. Chiều nay ta làm cán cuốc, nàng và a Bình mài hai cái liềm.

Lưỡi cuốc và hai cái liềm là ông nội mang vào, đã cũ sét do lâu quá không dùng. Mấy đứa nhỏ gật đầu đáp.

- Dạ, cha.Chương 19: Cuộc sống mới bắt đầuMai liếc nhìn Bình ca, hắn đằng hắng hai ba tiếng mới nói:

- Cha nương, con muốn lấy nước thốt nốt làm đường bán kiếm ít tiền.

- Hả?

Hai vợ chồng đều giật mình. Đường giá cao, nếu dễ dàng lấy được thì ai không muốn chứ.

- Tụi con có cách lấy nước, không sợ té.

Bình ca nói tiếp như hiểu câu hỏi của hai người. Mai chen miệng nói:

- Cách này không sợ té, nhưng nhà mình không được nói người khác biết. Mình mới có thể kiếm được tiền.

Cha nương nhìn nhau rồi hỏi:

- Cách gì?

- Cách này không khó, cha nhìn là biết. A Phúc, đệ không được nói ai biết cách nhà mình lấy nước thốt nốt, biết không?

Mai nhấn mạnh lại lần nữa, hỏi a Phúc cũng là nhắc mọi người việc này thực quan trọng.

- Đệ biết, đệ sẽ không nói.

- Ta sẽ không nói.

Cúc tỷ cũng đáp.

- Được rồi, ta và nương con sẽ không nói. Cách gì?

Bốn đứa nhỏ nhìn nhau gật đầu.

- Ăn cơm xong con dẫn cha nương đi xem.

Thấy mấy đứa nhỏ thần thần bí bí, hai vợ chồng cũng hiếu kỳ. A Phúc thì khỏi nói, hắn và cơm, nuốt nhanh, còn hối thúc cả nhà. Ăn cơm xong, không nghỉ trưa mà cả nhà đi ra chỗ mấy cây thốt nốt. Xung quanh không một bóng người, ruộng Lưu bá gần họ nhất cũng không có ai, chắc về nghỉ trưa.

Hôm trước bốn đứa nhỏ làm thử trên cây dừa thấp, sau đó là cây thốt nốt thấp nhất. Thang bằng cây tre, vòng dây an toàn, dây buộc đã có, thậm chí mấy ống tre đựng nước thốt nốt cũng đã làm xong.

Nhìn thấy Bình ca bước lên mấy chạc tre đi lên, cha Mai ngẩn người, đúng là không khó. Đến hơn nửa cây, Bình ca còn lấy một sợi dây thừng tròng vào người rồi mới leo tiếp. Đầu kia dây thừng buộc quanh ngọn cây thốt nốt.

Nhìn thấy vẻ mặt cha nương, Cúc tỷ, a Phúc ngạc nhiên, bốn đứa đều cười tủm tỉm. Cha kêu Bình ca xuống rồi tự mình leo lên, chạc tre cũng đủ chắc cho người lớn, nhưng phải thường để ý thay đổi tre khô mục mới được.

- Con leo được không?

A Phúc hỏi. Đương nhiên là không ai cho hắn leo. Cha xuống hỏi cách làm, nhìn mấy cây thốt nốt còn lại nói:

- Cha thấy được, mấy đứa theo cha làm tiếp mấy cho mấy cây kia. Nhưng để cha lên lần đầu buộc dây thừng.

- Dạ cha.

- Nương biết nấu đường thốt nốt không? Làm khuôn sao?

Mai hỏi nương, cô vẫn chưa nghĩ được làm sao có khuôn đổ.

- Khuôn là gì? Nương có nghe nói cách nấu, không khó.

À, ở đây chưa có khái niệm khuôn.

- Vậy làm sao mang đường đi bán, mang cả nồi sao?

- Không, người ta nấu xong đổ vào lá thốt nốt được gói như bánh tét.

A, thì ra là vậy, mình chặt lá về chuẩn bị mới được.

Cả nhà chia hai nhóm, một nhóm theo cha đi chặt tre, bện dây; còn lại nương, a Cúc và Mai kéo lá thốt nốt về phơi nắng cho dốt, lau sạch để làm khuôn gói. Cúc tỷ còn chùi rửa một cái nồi lớn thật sạch đem phơi ráo nước dành riêng nấu đường. A Cúc rất ít nói nhưng luôn làm việc ổn thoả, không đợi người khác nhắc đã biết ý mà làm.

Hơn một canh giờ sau, cha đã về nhà, trên tay còn xách một quài thốt nốt.

- Ta đặt thử sáu ống tre rồi, chiều nay lên xem.

- Tối nay ta cũng nấu thử xem sao. Nấu ít thôi.

Bình ca theo nương, Cúc tỷ mài lưỡi liềm và mấy con dao. Bốn đứa nhỏ thức dậy từ sáng sớm, không ngủ trưa, lại chạy ngoài nắng nên giờ đều mệt mỏi nằm ở sạp tre, líu ríu nói chuyện một hồi sau liền ngủ.

Mặt trời đi dần về phía biển, Lê tứ vác cuốc mới làm trên tay ra ruộng thử cuốc đất, cũng vừa tay, không nhẹ không nặng. Nhà chỉ có cái cuốc này, việc cuốc đất nặng nhọc này là ông làm. Nhưng trời sắp mưa, một mình ông cuốc ba mẫu ruộng sợ không kịp, hay là trồng khoai đậu nhiều hơn? Ban đầu ông tính trồng ba mẫu lúa, khai hoang thêm nửa mẫu trồng khoai đậu.

Tối qua sấm sét đùng đùng, sợ mùa mưa đến sớm, một mình ông sẽ không làm kịp. Người bên cha đã bỏ nửa tháng đi biển làm nhà, không thể nhờ thêm được. Lương thực năm nay trong nhà cha nương chưa tích trữ đủ cho đến thu hoạch, tiền cũng đã cho ông dựng nhà.

Nhìn mấy cây thốt nốt gần đó, gần bìa rừng còn mấy hàng cây thốt nốt nữa ông chợt thấy có hy vọng. Nếu làm được, kiếm tiền mua lương thực qua năm nay. Vác cuốc về nhà, nhìn từ xa ngôi nhà mới nằm lẫn trong mảng xanh cây cối. Một niềm vui hiện lên trong mắt.

Lúc nhỏ, cha nương không hề thiên vị, đôi khi còn muốn ông nhường nhị ca, tam ca. Ông không hiểu tại sao, nhà người khác thì anh trai lớn nhường em, nhà ông lại không giống. Lớn lên một chút ông mới hiểu nương là kế mẫu, là nương ruột của ông, không phải nương ruột thịt của nhị ca, tam ca. Người ta cứ nghĩ nương sẽ thiên vị ông mà chèn ép hai anh trai. Để nương không khó xử, ông luôn nhịn xuống, lui một bước.

Dần thành quen, trong nhà ông ít khi ý kiến, không tranh không giành, cha kêu gì làm nấy. Thật ra ông tình nguyện làm vậy, mình may mắn hơn tam ca, mình có nương săn sóc đến lớn. Nương muốn chăm sóc tam ca cũng không được. Tam ca luôn bài xích, tránh né sự quan tâm của nương. Cưới vợ sinh con cũng vậy, ông luôn nhắc mấy đứa nhỏ nhường nhịn.

Cho đến khi ông bị gãy chân trong một lần đi biển. Sức lao động giảm, không thể ra biển một mình, vợ con tám người sau này đều khó sống tốt ở làng chài. Nhà Lưu ca chỉ có a Tương là con trai, ở làng chài cũng không thuận lợi. Theo lời Lưu tẩu chuyển nghề làm nông, đàn bà con gái còn giúp được, trồng lúa, khoai, bắt cá sông cũng sống được. Năm ngoái đến thăm thấy sinh hoạt nhà Lưu ca ông đã muốn chuyển, còn dùng dằng chưa đi là sợ nương buồn, cha không đồng ý.

Cũng may, mọi việc thuận lợi, giờ ông cố gắng làm lụng nuôi vợ con, gửi lương thực cho cha nương. Ở đây có lương thực, rau củ mà làng chài không có, mang ra thăm nương cũng không khó khăn. Ông ra riêng nương sẽ không khó xử, tiết kiệm tiền cho a Hạnh, a Tấn lập gia đình nữa để nương an lòng.

Cuộc sống mới bắt đầu, vất vả nhưng ông không ngại, có vợ và mấy đứa nhỏ cùng làm với ông, một nhà sẽ đủ ăn đủ mặc.Chương 20: Thật sự làm được đường rồiNgôi nhà yên ắng, đặt cuốc dựa vách chòi tạm, nhìn phía rạch nhỏ bên hông nhà là ba mẹ con đang mài dao, lưỡi liềm trên tảng đá. Ông bước xuống bếp thì thấy mấy đứa nhỏ nằm ngủ trên sạp. Hơn nửa tháng bận rộn, tụi nhỏ cũng mệt, cả nhà đều gầy đi, đen hơn.

– Kêu em dậy, ngủ nữa mặt trời đè.

Nương nói Cúc tỷ, người xưa rất ít ngủ ban ngày, chỉ có người bệnh mới ngủ ngày, họ hay nói ‘mặt trời đè’ để hù trẻ em không cho ngủ.

Mấy đứa nhỏ bị kêu dậy lơ ngơ một chút rồi tỉnh. Mai rửa mặt, pha một bình mật ong với nước ấm, bỏ thêm ít gừng cho cả nhà uống. Nước này uống vào đang mệt cũng khoẻ ngay, nhưng con nít không được uống nhiều.

– Ngon, tỷ pha nước ngon.

A Phúc liếʍ mép như mèo ăn vụng. Cả nhà ngồi thảnh thơi uống nước mật ong, nhìn nắng chiều đang dịu, chỉ trong chốc lát mà cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc.

Bìm bịp kêu nước lớn rồi. Gió thổi vách lá xào xạc, mùi lá mới chưa kịp khô thoang thoảng.

Thịt cúng lúc sáng mang về làng chài, để lại một ít kho chung với cá, chiều nay ăn cơm trứng luộc, cá kho và canh khoai mỡ nấu tôm. Món canh mới lạ, có tôm băm nhuyễn nên cũng hấp dẫn, ăn cơm chan canh dễ nuốt.

Khi trời sắp tối, cả nhà háo hức mang theo ống tre, bình đất đi lấy nước thốt nốt. Tính từ lúc trưa đến giờ chỉ gần hai canh giờ, nước sẽ không nhiều nhưng để qua đêm nay nước sẽ chua.

Như Mai đoán, mỗi cây chỉ được gần nửa ống tre, cả sáu cây được hơn nửa bình. Vội vàng về nhà lấy nồi, bắc bếp. Mùi thơm nước thốt nốt thật dịu, thật mát. Đun không bao lâu thì sôi, nương bớt lửa, vớt bọt. Cả nhà ngồi trên sạp tre nghe a Phúc kể chuyện mấy ngày ở làng chài vừa nhìn nương khuấy đều nồi đường.

– Bà nội muôn vô mà không ai trông nhà. Thằng Hải nói mai mốt cho nó vô đây chơi với.

Hải là nhóc cỡ tuổi a Phúc, cháu nội của trưởng làng chài. Hai đứa nhóc hay chơi chung, chắc a Phúc khoe khoang chuyện nhà mình dựng nhà mới trong này rồi. Mấy ngày dựng nhà chắc bà nội lo lắng, trông đứng trông ngồi; nhưng bà còn ở lại coi chừng nhà cửa; vài hôm nữa thế nào bà cũng vô.

Nước cạn dần, a An không chờ được lấy cái chén xin nương một ít nước đường sền sệt. Không còn khoai ăn chung, mấy đứa chấm mυ'ŧ đường trông rất ngon lành. Nhấc nồi xuống, nương múc một ít đổ vào khuôn lá đã làm lúc trưa, nóng quá Cúc tỷ không cách nào gói lại được.

– Để nương.

Nương buông đũa bếp, thử gói lại, cuối cùng cũng được nhưng tay nương sắp bỏng, ửng đỏ.

– Phải khuấy cho nguội bớt mới gói được.

Cha vừa cầm đũa khuấy thay nương vừa nói. Nếu để đường nguội quá sẽ cứng lại thành cục không gói thành đòn được. Hay là ‘rộng’ vô chậu nước lớn cho mau nguội.

– Ừ, cái này được, nguội nhanh hơn.

Loay hoay một lúc thì cũng gói xong hết đường, mệt nhưng ai cũng vui, sáng mai là có đường rồi. Mấy đứa nhỏ lấy muỗng cạo lớp đường hơi khét dưới đáy nồi, bỏ vô chén để dành. Đường cháy dưới đít nồi này hơi sẫm màu hơn so với lớp trên nhưng ngọt hơn.

Cuối mùa hè trời nóng bức, lâu lâu mới có cơn gió nhẹ thổi qua vách lá luồn vào nhà. Dần về sang mát mẻ hơn, ngủ cũng sâu hơn. Sáng dậy đầu tiên là chạy xuống bếp nhìn mấy gói đường, nương và Cúc tỷ đã ngồi trên sạp tre mở từ từ lớp lá thốt nốt.

‘Thành công rồi’ Mai reo trong lòng.

Cả nhà cười vui vẻ, Mai lăn qua lăn lại đòn còn nguyên, dài hơn gang tay, to cỡ bắp tay cô; nặng chưa tới nửa cân (1 cân = 0.604kg; 1 lạng = 37.8g; 1 cân = 16 lạng). A Phúc chấm ăn chén đường cháy tối qua. Gương mặt cha giãn thành nét cười, đi lấy ống tre, bình đất nói:

– Ta đi lấy nước, rồi ra ruộng. Qua một đêm chắc được nhiều hơn. Nàng và a Cúc nấu xong hẳn ra.

– Được.

A An, a Phúc hớn hở rửa khoai, lựa đậu. A Vĩnh nhóm bếp, rửa nồi. Nương đồng ý nấu chè đậu ‘đãi’ cả nhà hôm nay. A Bình cười cười nhìn Mai, ánh mắt lấp lánh, chỉ thiếu đưa ngón cái khen ngợi. Hắn cũng đi lấy lưỡi liềm chuẩn bị theo cha ra ruộng làm cỏ.

Cha trở về không giấu được vui cười trên mặt. Hai cái bình mang theo đều gần đầy, nước sóng sánh toả hương thơm dìu dịu. Cúc tỷ nhanh nhẹn đổ nước thốt nốt vào nồi, để cặn lóng riêng. Tối qua gói được hai đòn đường, hôm nay chắc được sáu bảy đòn.

Cha ăn vội chén cơm rồi vác cuốc ra ruộng, mấy anh em Mai cũng theo ra. Nương ở lại cùng Cúc tỷ nấu đường, thêm bếp nấu chè đậu xanh khoai lang bên cạnh. Tối qua Cúc tỷ đã biết cách làm nguội, gói thành đòn nên nương cũng đi ra ruộng, để một mình tỷ ấy làm.

Nhà nông thì việc trên ruộng là quan trọng nhất, huống chi nhà Mai đang chạy đua với ông trời; phải làm cỏ, cuốc đất xong trước khi trời mưa mới được.Chương 21: Việc nhà nôngCha bắt đầu cuốc cỏ từ góc ruộng gần nhà. Đất này trước đây có người canh tác, loạn lạc người ta bỏ đi, cũng hơn năm năm không ai chăm sóc, cỏ, rau dại mọc đầy. Cỏ nhỏ, rau dại bị nhổ trước, bụi lớn thì cha dùng cuốc, gom bọn chúng lại quăng vào góc bờ. An ca, Vĩnh ca còn nhổ được, Mai và A Phúc không đủ sức, chỉ có thể dẹp cỏ vô góc bờ. Có mấy cọng cỏ lá có gai cào vô da rát rát. Trong đám này có lẫn cỏ mực, cây mắc cỡ. Mai nghĩ cứ trồng lại biết đâu sau này dùng đến.

- Cha, con trồng mấy cây có bông này ở góc vườn sau được không?

- Được, con phải tưới nước cho nó.

- Dạ, con biết.

Đượcc phép rồi, Mai chạy lên phía trước tìm trên ruộng mấy loại cây quen thuộc, nhổ đi mang đến góc vườn. Cô lại lấy cái chậu mẻ, đổ ít nước để ngâm chúng không bị héo. Được nhiều cây thì đi một lần trồng chúng xuống gốc vườn. A Phúc chạy tới chạy lui, lúc tìm cỏ gà, lúc phụ dọn cỏ, dí bắt châu chấu, không ai quản, nó chơi như điên.

Nhà Lưu bá cũng ra ruộng, cha và Lưu bá vẫy vẫy tay chào, khoảng cách hơi xa nên nói chuyện không nghe rõ. Mai nhìn xa xa, nhà nào trong làng cũng ra ruộng, từ xa chỉ thấy dáng người nho nhỏ di động.

Con người thích sống chung theo nhóm nên biết xung quanh mình có người sinh sống sẽ cảm thấy an tâm, vui vẻ hơn. Có nhiều dáng nhỏ xíu chạy loăn quăng trong ruộng, nhà nông ra đồng luôn mang con nít đi theo, vừa trông chừng chúng vừa có thể làm mấy việc lặt vặt.

Nương từ trong nhà ra, mang cái liềm, đội nón lá, còn xách theo bình nước đặt trên bờ. Nương chọn đám lát gần đó, tay cầm liềm tay nắm lát cắt xoàn xoạt rất thuần thục. Thật ra nương có kinh nghiệm làm ruộng nhiều hơn cha, nhà ngoại ở miệt trong có nhiều mẫu ruộng trồng lúa, khoai, đậu, có vườn cây ăn trái nữa.

Lát mọc hoang rất nhiều, dọc theo con rạch có từng đám lớn. Người ta dùng lát dệt chiếu, đan giỏ, làm đệm. Nhà nàng cũng cần thêm chiếu, tận dụng hôm nay chẻ lát này phơi luôn.

Mai chạy về nhà lấy con dao nhỏ ra, chọn mấy cọng lát tốt, dài đều nhau, ôm đến gốc cây mát ngồi chẻ lát. Dù sao nàng cũng không nhổ được cỏ, làm việc này thích hợp hơn.

Liên tiếp hai ngày làm cỏ, tay của An ca, Vĩnh ca có mấy vết xước, chảy máu. Mai cố nhớ các loại cây cầm máu, sát trùng nhưng không nhớ ra. Lúc trước, uống thuốc tây không hết bệnh, ba mẹ cô chuyển sang thuốc nam, nhiều lần dẫn cô đến viện y học cổ truyền khám, còn mua rất nhiều sách cây thuốc về xem. Thuốc nam dùng các loại cây quanh nhà, nhìn xung quanh Mai chưa nhớ được, nếu tìm được phải trồng trong vườn để phòng khi khẩn cấp.

Hôm qua, An ca bắt được hai con ếch to trong hang. Mùa này bọn chúng nấp trong hang sâu ở vùng đất trũng còn ẩm ướt, chỉ việc đào hàng là lôi chúng ra. Nhưng nương dặn phải cẩn thận trông chừng, mấy con rắn hổ đất thích ăn cóc ếch hay quanh quẩn gần đó. Mấy đứa nghe rắn hổ đều sợ, đi đâu cũng cầm nhành cây dài xua xua phía trước.

Đường làm được hơn hai mươi đòn, khoảng năm cân (1 cân =16 lạng, 1 lạng = 37,8g), nương muốn mang ra chợ làng ở ngã ba sông bán. Chợ làng nằm cạnh sông Giang Thành, cách nhà Mai hơn một canh giờ đi bộ quanh co theo đường đất. Lúc trước nương và Lưu bá mẫu mua thịt, dầu đốt đều ở đó. Mai đương nhiên muốn đi theo nhưng chưa biết mở miệng thế nào, may là có người còn nôn nóng hơn cô.

- Nương, cho con đi với!

Nương nhìn A Phúc hớn hở, không đành lòng nói:

- Xa lắm, con đi sẽ mỏi chân. Nương sẽ về nhanh.

A Phúc bĩu môi, mắt ngấn nước:

- Nương lại bỏ con, hic hic.

Ôi trời, nhóc có chiêu mới. Nương vội ôm nhóc dỗ dành, vuốt ve.

- Đâu có, đi chợ đông người, nương sợ con lạc mất làm sao!

- Con đi trông chừng đệ ấy.

Mai không bỏ lỡ cơ hội nói nhanh. Nương nhìn qua cha hỏi ý.

- Nàng dẫn hai đứa đi cũng được.

Vậy là được thông qua, hai đứa nhóc hớn hở, ăn thêm một chén chè nữa mới thôi. Việc làm cỏ ruộng hai đứa nhỏ cũng làm không được, đi chợ cùng nương cũng vui vẻ, quên mất quãng đường dài.

- Nương, mình bán đường sao? Nhà mình không có cân.

- Nương cũng chưa biết, lần trước nhà mình mua đường là hai văn một lạng, mua một cân là hai mươi tám văn. Nhà mình bán rẻ hơn chút sẽ có người mua.

- Mỗi đòn này cỡ sáu lạng, bán mười văn được?

Mai không biết giá cả ở đây, nghe theo ý mọi người trước vậy.

- Ta thấy được, nàng cứ liệu mà bán.

Định xong giá bán, cô lại đếm trên sạp có hai mươi đòn, để lại hai đòn bán mười tám đòn được 180 văn, làm ba ngày được nhiêu đây cũng tạm rồi.

Mai tính xong thì báo cả nhà biết số tiền, thật vui vẻ. Cha thở phào nhẹ nhõm:

- Để dành tiền này mua lúa giống, lần sau mua thêm lương thực mang cho nhà nội. Lần này dựng nhà, tiền nhà nội đã cho chúng ta hết.

Mấy đứa nhỏ đều gật gật đầu, chỉ cần kiếm được tiền nữa, thì cũng không lo.

- Ngày mai ai hỏi nhà mình làm sao có đường, mình sẽ nói cha lo kiếm tiền mua lúa giống, được không?

Ý trong câu này là nhà nghèo quá nên cha mạo hiểm lấy nước thốt nốt, thế nào cũng có người khuyên cẩn thận, không cần liều mạng, đành chịu thôi.

- Cứ nói như vậy đi.

Cha đồng ý rồi, lo dọn cơm chiều, nấu mẻ đường mới, ngủ sớm. A Phúc chạy vào ngủ chung với nương, hắn sợ nương dậy sớm không cho hắn theo.Chương 22: Đi chợ mua bánMặc dù nói sẽ bán được, nhưng ai cũng không nắm chắc, trời chưa sáng cả nhà đã dậy, quanh quẩn nhìn nương chuẩn bị. Mai lấy ba đòn bỏ vào rổ tre nhỏ mình tự mang, nương sẽ nhẹ một chút. Gió khuya hơi lạnh, nương bắt hai đứa mặc hai lần áo, quấn khăn, đội nón mới bước ra ngoài.

Trời còn tối, sao đã lặn, trăng hạ tuần khuyết màu vàng ệch treo lơ lửng trên bầu trời, không đủ sáng soi đường. Nương một tay xách giỏ, một tay nắm tay A Phúc đi trước, Mai bước theo sau. Đường đất nhấp nhô, nương nhắc mấy chỗ đất thấp mà mấy lần hụt chân xém té. Mùa khô nên có những khoảng đất thấp đã khô, có thể đi được, nếu mùa mưa thì chắc sẽ phải lội sình hoặc đi ghe mới đến chợ được. Nhà mình cần có ghe mới để thuận lợi đi lại. Muốn bán nhiều đường phải vào chợ Sông Lớn, đi chợ càng sớm hơn, không ghe thì không cách nào đến đó được.

Trời dần sáng, a Phúc chân nhỏ đã thấy mệt, nương dắt hai đứa ngồi nghỉ bên đường, lấy khoai nước mang theo ra ăn uống. Dân ở đây hay uống nước mưa trực tiếp trong lu, Mai viện cớ mình bệnh nên nhờ Cúc tỷ nấu nước cho mình uống. Sau đó cô tự nấu để nguội trong bình, bắt a Phúc uống. Lúc đầu hắn không thích, nói nước lạt, không mát như nước trong lu. Mai nói lang y bảo con nít uống nước nấu chín sẽ ít bệnh, nương nghe vậy thì dỗ dành hắn uống. Mỗi lần ra ngoài Mai đều mang theo bình nước nhỏ.

Trên đường đi qua hai ngôi làng có khoảng mười mấy mái nhà, gặp vài người cũng đi chợ. Mặt trời chưa lên nhưng ánh nắng đã chiếu sáng trên ngọn cây cao.

Chợ nằm ven sông Giang Thành, có mấy chiếc ghe đậu cập bờ, dọc theo bãi đất rộng là từng nhóm người đang mua bán.

- Mùa này sao có vịt trời? Hơi ốm, bán bao nhiêu?

- Nhà tẩu cuốc xong rồi à? Có khẩn thêm đất không?

Tiếng nói chuyện rôm rả, ở đây người ta nói chuyện rất lớn tiếng, chắc thói quen ngày thường nhà này nói vọng nhà kia phải nói lớn mới nghe được. Chợ không phải chỉ có đàn bà mà có đàn ông nữa. Có người ngồi trên ghe bán gạo đã được giã, lúa khô trong hai cái lu nhỏ. Có một người trung niên bán mấy con vịt trời, chắc là bẫy được.

Nương dắt hai đứa tìm chỗ trống,

- Ta bán ở đây được không?

Nương hỏi người đàn bà trung niên bán chiếu lát bên cạnh.

- Được, ngươi bày ra đi, bán cái gì?

- Đuờng thốt nốt nhà làm.

Mai để rổ nhỏ đang cầm xuống, tìm cục đất to kê lên. Nương định xếp mấy đòn khác lên nhưng Mai dằn lại, nói nhỏ trong tai nương. Mai lột một phần đầu để lộ ra màu vàng óng của đường, mùi thơm cũng lan ra.

Sắp xếp xong Mai nhìn hàng hoá bày bán xung quanh. Có đủ các loại từ thức ăn đến vật dụng trong nhà. Bên kia đường có sạp nhỏ bày rất nhiều chậu, nồi, lu bằng đất nung. Nhà này chắc có người ở lại chợ luôn, mấy món này nặng lại lớn đâu thể mang đi mang về theo chợ phiên được.

Bá mẫu bán chiếu bên cạnh nhìn mấy đòn đường rồi nhìn ba mẹ con cô như thương cảm.

- Nhà thím ở đâu, ta thấy hơi lạ mặt.

- Ta ở làng Đông Hồ, phía ngoài, mới dọn đến gần tuần trăng.

- À, đường này bán bao nhiêu?

- Một đòn này cỡ sáu lạng là mười văn.

Mai đứng bên cạnh thấy nương trả lời từng câu như thi vấn đáp cũng buồn cười, vậy sao bán hàng!

- Bá mẫu, mùa này đường rất ngon, ngọt hơn thơm hơn. Con cắt một miếng người dùng thử đi.

Miệng nói tay cô nhanh nhẹn lấy dao nhỏ cắt một góc đường đưa qua.

- Bá mẫu ăn thử, không mua không sao.

Người đàn bà này cũng ngạc nhiên thấy Mai nhanh tay vậy, không ngại ngần nếm thử. Thật ra Mai không biết nhiều vị đường thốt nốt, trước kia cũng ít ăn, nhưng cô nghĩ mùa khô cây thốt nốt hút ít nước ngọt trong đất nên nước thốt nốt sẽ đậm vị hơn, giống như trái cây mùa khô sẽ ngọt hơn mùa mưa.

Đoán mò vậy mà trúng, nếm thử vị của đường quả thật ngon ngọt trong miệng làm người ta thoả mãn.

- Ta mua một đòn a, sắp đến Tết Đoan Ngọ rồi, mua về để dành nấu chè cúng.

Nương bán, thu tiền còn Mai lại nghĩ đến Tết Đoan Ngọ (Tết Mùng năm tháng Năm), vậy có thể bán thêm nhiều rồi. Đúng như suy nghĩ của cô, mấy người khách khác cũng mua để dành nấu chè, bánh trôi nước cúng Tết Đoan Ngọ.

Ngày họp chợ ở đây theo con trăng, nước ròng nước lớn; cỡ năm ngày họp chợ một lần, những tháng thiếu là bốn ngày. Hôm nay là cuối tháng tư, mua đường về chuẩn bị cúng Tết từ từ là được.

Mặt trời vừa lên là lúc chợ đông nhất, ghe dưới sông, người trên bờ xôn xao. Nhà Mai bán được mười bảy đòn, đòn lúc đầu Mai cắt cho khách thử chỉ còn một nửa nên mang về nhà. Nương rất vui, nụ cười như xoá tan hết lo âu mệt nhọc, cô và a Phúc cũng vui vẻ theo.

Mai kéo nương ra một góc nói:

- Nương, mình mua thêm cái nồi nấu đường, vừa nhanh, bán được nhiều trước Tết Đoan Ngọ này, đi chợ Sông Lớn bán.

- Chợ Sông Lớn xa quá.

Cuối cùng Mai cũng thuyết phục được nương mua thêm cái nồi. Ba mẹ con vui vẻ đi về. Mấy hôm nay, nhà Mai dùng đường dư sau khi gói nấu chè, pha nước uống, a Phúc vui nhất nhà. Mai định làm xong cỏ ruộng, thư thả hơn sẽ cùng nương và Cúc tỷ làm mấy món mức, kẹo dành ăn vặt. Trong nhà toàn là con nít đang tuổi lớn cần ăn đủ chất.

Đến nhà vắng hoe, mọi người đã ra ruộng, nương cất tiền, nhìn mấy khối đường trên sạp tre không tránh được vui vẻ. Lúc khuya đi sớm, ăn ít giờ bụng đã đói, Mai và a Phúc dọn cơm ra sạp ăn nhanh rồi chạy ra ruộng.

A Phúc chạy trước, khoe khoang:

- Cha, bán hết đường rồi, có nhiều tiền lắm,

Ha ha, hắn còn nhỏ, còn không biết bán được bao nhiêu tiền. Cả nhà vui vẻ nói chuyện, Mai nhắc lại chuyện bàn với nương ở chợ. Cha lấy thêm nước của mấy cây thốt nốt gần bìa rừng, có hai nồi nấu đường nhanh hơn, không sợ không làm ruộng kịp. Việc bán đường ở chợ Sông Lớn ai cũng lo lắng, phải đi sớm, về nhà cũng trưa, mất cả ngày mà ngoài nương và cha thì mấy đứa nhỏ không thể đi một mình được.

- Hay là mang ra nhà nội bán đi?

- Ừ, được.

Cả nhà lập tức đồng ý, đến lúc ăn trưa thì đã bàn xong. Ngày mốt Bình ca, An ca sẽ mang theo đường ra biếu nhà nội và nhờ bán, lỡ bán không được thì để nhà nội ăn dần. Riêng chuyện cách lấy nước thốt nốt thì bàn tới bàn lui chỉ nói cho ông bà nội biết.

Tác giả: VRSSChương 23: Làm ông bà nội lo lắngĂn trưa xong, nương lấy một đòn đường, đội nón qua nhà Lưu bá, cũng nói chuyện nhà mình làm đường thốt nốt bán nhưng sẽ không nói rõ cách lấy nước thốt nốt.

Hai ngày kế đó còn bận hơn mấy ngày trước, biết kiếm được tiền nên đứa nhỏ a Phúc cũng chăm chỉ làm việc hơn. Người ta hay nói nông nhàn, không biết khi nào đến lúc nhà Mai được nông nhàn đây.

Hôm nay Bình ca, An ca đi bộ ra nhà nội mang theo túi lớn, rổ nhỏ quấn trong lá chuối rất kỹ. Biết việc nhà bận rộn hai anh em nói sẽ về ngay trong ngày. Nương đau lòng nói không về được không sao, ngày mai quá giang ghe về cũng được.

Nhờ Lưu bá mẫu hỏi giúp nên đã mua được lúa giống từ trong làng, có một ít là lúa nếp, cha khoanh riêng nửa mẫu trồng lúa nếp, mấy ngày Tết đều dùng gạo nếp cúng nên nhà nào cũng trồng. Cha để hai thùng lúa giống chỗ khô ráo trong nhà trên.

Ăn xong cơm chiều, thì hai bếp đều đỏ lửa nấu đường, thêm mấy cây thốt nốt ở bìa rừng nên mỗi ngày nấu mười mấy đòn. Hai ngày sau họp chợ Mai sợ không bán hết, dù sao mỗi nhà cũng mua một hai đòn thôi. Mấy ngày sau đó không bán được nữa, phải đi ra chợ Sông Lớn bán mới tốt.

Trời sẩm tối, nương trông ra cổng ngoài lẩm bẩm:

- Chắc ông bà nội không cho hai đứa về, trời tối đi không an toàn.

- Nương, ao sen trên đường đi là của ai vây?

Mai đột ngột hỏi làm nương ngẩn ra mới trả lời.

- Không biết,gần đó không có nhà ai, chắc là người ta bỏ đi rồi.

Lúc sáng đi không thấy, khi về Mai thấy có một cái ao lớn đầy sen, sen đã nở hết, chỉ còn vài bông nở muộn. Nếu không có chủ vậy mình hái được không? Từ xa nhìn không thấy đài sen to nhỏ thế nào, khi rãnh việc mình qua đó xem sao, hạt sen, củ sen, ngó sen đều ăn ngon và bổ dưỡng.

Trước khi đi ngủ nương còn ra trước nhà nhìn về hướng đường đất:

- A Bình về?

Tiếng nương nói lớn, có vẻ ngạc nhiên làm mọi người trong nhà chạy ra. Phía xa có bóng dáng thấp thoáng di chuyển.Trời tối chỉ có mấy ngôi sao nhấp nháy, mặt nước phản chiếu ánh sáng nhoà nhoẹt. Mấy bóng đen ẩn hiện giữa các bóng cây.

Cha cầm cây đuốc đi ra ngoài, nương cũng mang đuốc chưa châm đi theo. Ở mỗi nhà có làm sắn mấy cây đuốc làm từ vỏ cây, rơm, lá để dùng khi hữu sự. Cha đi không nhanh, cây đuốc chập chờn trong gió. Hơn một khắc thì cha nương gặp nhóm người đó rồi cùng đi về, đợt về là dùng đuốc của nương.

Gần đến nhà mới nhận ra là ai: đi về cùng Bình ca, An ca là bà nội, lục cô và thất thúc. A An mệt mỏi ngã lên giường rêи ɾỉ, một đứa bé mười hai tuổi đi đường cả ngày đúng là mệt, hắn chịu đựng cũng giỏi. Cúc tỷ vội pha nước mật ong gừng cho mọi người. Trên gương mặt bà nội có lo lắng có mệt mỏi. Đợi nội uống mấy hớp nước, cha hỏi:

- Sao nương vô đây, trễ như vậy, sao không đợi sáng mai?

- Còn không phải lo cho con.

Trưa nay thấy a Bình ra, bà rất vui mừng hỏi thăm chuyện trong này. Đến lúc thấy đường nhà con làm bà hoảng hồn hỏi a Bình sao dám leo cây lấy nước, rất nguy hiểm, nhà nghèo túng nhưng ráng một chút sẽ qua, không đến nỗi chết đói, sao liều mạng vậy?

Mặc dù a Bình nói cho bà biết cách lấy nước an toàn, bà vẫn không yên tâm. Lúc con trai dựng nhà, bà rất muốn vào nhưng không thể bỏ nhà làng chài. Bà định chờ đến mùa bão, trong nhà không đi biển sẽ vô đây mấy ngày. Mới nghe tin xong bà vội bàn với ông nội, dẫn theo hai đứa út theo xem có thể phụ giúp gì.

A Tấn ít khi đi biển do còn nhỏ, chủ yếu ở nhà phụ lựa cá, bán cá, phơi khô khi ghe chài về. A Hạnh thì vá lưới, nấu nướng ở nhà. Bà và hai đứa nhỏ vô trong này thì có thể giúp một tay làm cỏ, cuốc đất cho mùa lúa này.

Tính toán xong thì vội vã đi cho kịp trước khi trời tối. Trên đường bà còn nghĩ trách con dâu sao không ngăn Lê tứ liều mạng kiếm tiền.

Vô nhà nhìn thấy nhà cửa tươm tất, sạch sẽ, hơi nhỏ nhưng đủ vợ chồng con cái ở mấy năm, thấy con trai gầy, đen hơn nhưng khoẻ khoắn cũng nhẹ lòng.

- Bà nội, sáng mai bà nội theo cha, Bình ca đi lấy nước sẽ biết mà.

Mai đoán bà lo cái gì, nên nói.

- Phải đó, mai nội đi với tụi con xem lấy nước thốt nốt, nhiều lắm.

A Phúc cũng chen miệng, chạy đến ôm bà nội nhõng nhẻo.

- Nương, con nấu cháo cá. Nương đi tắm, ăn cháo ngủ sớm kẻo mệt.

Đến chỗ ngủ mới khó, thất thúc ngủ chung đám con trai hơi chật nhưng cũng được. Bà nội và lục cô không thể nằm chung giường Mai được, giường nhỏ quá. Tính qua lại thì cha nương đổi chỗ, hai người qua phòng Mai, bốn người ngủ trên giường nương, đỡ chật hơn một chút.

Trời nóng nên bà nội và lục cô tắm luôn nước lạnh, ba đứa con trai thì ra múc nước trong lu dội ào ào cho mát rồi thay đồ. Cháo cá lóc vừa chín thơm thơm, Cúc tỷ làm chén nước mắm gừng, múc hai con cá lớn trong nồi ra, thịt cá trắng tươi, mùi thơm thật kí©ɧ ŧɧí©ɧ người ta.

Đêm này Mai ngủ không ngon, bốn người nằm chung giường chật quá. cô không dám xoay ngang dọc như mọi hôm sợ làm bà nội thức giấc.

Từ hôm lấy thêm nước từ mấy cây ở bìa rừng, Bình ca và cha chia nhau đi lấy nhanh hơn. Sáng hôm nay, ba người nhà nội theo đi lấy nước. Lúc nhóm người trở về xách theo hai bình lớn nước, ai cũng vui vẻ. Lục cô và thất thúc còn trẻ nên tranh nhau nói nào là lần đầu thấy lấy nước bằng cách kỳ lạ vậy. Còn cười hỏi ai nghĩ cách làm ‘dây thừng phòng hộ’ như cách Mai gọi nữa. Bà nội yên tâm thả lòng tinh thần, theo cha tính thì mỗi ngày cũng kiếm được mấy chục văn, bằng với đánh cá cả đêm rồi.

Mai đang nghĩ đến việc đi chợ Sông Lớn bán, tự hỏi không biết bà nội ở lại mấy ngày. Cô kéo Bình ca ra ngoài nói, thất thúc đi theo hỏi chuyện gì. Có thêm thất thúc biết càng tốt. Ba đứa nhỏ rù rì một lát thì vào nhà ăn sáng chuẩn bị ra ruộng.

- Tứ ca, nhà Lưu ca bên kia cuốc đất sắp xong rồi, đệ mượn cuốc phụ mấy ngày. Cũng sắp qua tháng mưa, phải tranh thủ cuốc hết ba mẫu này. (1 mẫu = 10 sào = 3600 m2)

Bà nội nhìn ra ruộng mới cuốc gần một mẫu, còn lại cỏ, lát mênh mông.

- Ta ở lại mấy ngày phụ con, có a Tấn, a Hạnh nữa cũng thêm sức.

- Nương làm cơm nước là được, để a Cúc ra làm.

Mọi người đều gật đầu theo ý cha, bà nội đã lớn tuổi, ra đồng rất vất vả làm sao chịu được. Việc nhà cũng không ít nhưng làm từ từ lại không cần phơi nắng gió.

- Ca, mỗi ngày nhiều đường như vậy, chợ trong làng bán hết không?

Theo nháy mắt của Mai, thất thúc lại nói tiếp.

- Cha, hay cha nương đi bán ở chợ Sông Lớn, con và thất thúc cuốc đất cũng kịp.

Bình ca nói theo, rồi kể cho bà nội và lục cô chuyện đi bán chợ Sông Lớn. Trong lòng cha nương và mấy người lớn thì lương thực, trồng lúa quan trọng hơn. Họ nghĩ đường bán lúc nào cũng được, không bán được cũng không sao Có lúa gạo no bụng là tốt lắm rồi. Mai vẫn chưa thích ứng ở đây, cô luôn cảm thấy có tiền trong tay mới yên tâm.

- Để một mình ta đi chợ lớn bán, chàng ở nhà lo ruộng, chợ làng thì,..

Nương nhìn a Cúc một chút cũng chưa nói. Cúc tỷ ít đi ra ngoài hơn Bình ca nên mặc dù lớn tuổi hơn nhưng không dạn dĩ bằng.

- Vĩnh ca và con đi bán chợ làng được, cũng không nhiều. Nương dẫn An ca theo phụ nương đi.

Mai đương nhiên biết mình tự đi bán được, chỉ là ai cũng thấy Mai mới tám tuổi mà không biết cô đã ‘già’ lắm rồi.

Tác giả: VRSSChương 24: A Vĩnh không biết tính tiền. Mai mù chữĂn cơm xong thì cũng đồng ý là nương với An ca đi chợ Sông Lớn, Bình ca sẽ đưa Mai và Vĩnh ca đến chợ rồi về, bận về không mang nặng nên hai đứa nhỏ tự về được. Từ đây đến Tết Đoan Ngọ sẽ có hai ngày họp chợ nữa Mai nhẩm tính nhà cô bán cũng được mấy xâu tiền.

Đúng là thêm người thêm sức, có bà nội ở nhà nấu đường, lo cơm nước, ngoài đồng có thêm thất thúc, lục cô đều làm được việc. Hai ngày này việc đồng làm nhanh lên thấy rõ.

Khuya ngày họp chợ, ngoài trừ a Phúc còn ham ngủ, cả nhà đã dậy gói đồ cho nương và An ca đi chợ, mang theo bốn mươi đòn, Mai còn dặn An ca cắt đường cho người ta thử, nếu không ai hỏi thì phải rao hàng nữa. Nương nhìn Mai cười cười, không biết giống ai lanh miệng, nhanh tay như vậy. Thất thúc, lục cô tròn mắt nghe Mai hướng dẫn. Nương đã kể chuyện này cả nhà nghe Mai làm sao bán cho vị bá mẫu kế bên rồi, cả nhà cười nghiêng ngửa vì a Phúc bắt chước cô hôm đó. Lần này Mai và Vĩnh ca chỉ mang theo mười lăm đòn và một nửa đòn ‘hàng mẫu’ hôm trước. Bình ca dẫn hai đứa lên đường.

Đến chợ cũng gần bằng thời gian hôm trước, Mai chào bá mẫu bán chiếu hôm trước, bày đường ra rổ.

- Nương cháu không đi bán sao?

- Dạ, nương bận ở nhà làm cỏ, sắp mưa rồi.

- Cũng phải, tam tỷ mua đường chưa, ở đây rẻ hơn trên chợ lớn nè, ngon lắm.

Bá mẫu nhiệt tình hỏi một người đàn bà trạc tuổi bà đứng bên kia đường. Mai vội vàng cắt một miếng đường cho bà ấy thử, vừa nói:

- Đường nhà làm đặc hơn, nấu chè trôi nước cúng Tết Đoan Ngọ rất ngon, bình thường pha nước ấm uống hết mệt ngay.

Lúc còn hai đòn Mai dẫn Vĩnh ca chạy đến gần người đàn ông trên ghe bán lúa gạo mời, ông ấy thử một chút rồi mua luôn hai đòn.

Hôm nay bán nhanh hơn lần trước, một phần là ít hơn mấy đòn, một phần Mai dạn hơn, có kinh nghiệm, chạy một vòng mời mấy sạp khác mua.

Lúc đầu vô chợ, a Vĩnh e dè ngó trước ngó sau. Khi thấy Mai bán hàng một hai khách thì hắn cũng làm theo, hơi lúng túng nhưng không đến nỗi đuổi khách. Lần đầu như vậy là giỏi rồi.

Sáng nay đi một mạch tới chợ, không dừng lại ăn nên giờ bụng đói cồn cào. Hai đứa ngồi trên gốc cây gần bờ sông vừa ăn vừa nhìn người mua bán trên chợ. Ăn xong thì mặt trời cũng lên cao rồi. Ra khỏi chợ một đoạn thì tay a Vĩnh mới buông xuống, từ nãy giờ hắn vẫn thỉnh thoảng rờ lên ngực, một phần tiền bán đường để trong túi đeo trên cổ.

Mai bật cười, cô cũng sờ túi vải mình đang đeo.

- Hôm nay không biết bán được bao nhiêu tiền?

- Ca không biết sao?

- Ừ, sao ta biết được, chưa đếm mà.

Có gì mà đếm chứ, mười văn một đòn, bán hết mười lăm đòn đương nhiên là được 150 văn. Khoan đã, a Vĩnh thật sự không biết? Nhìn gương mặt hắn rất nghiêm túc, không phải đang đùa.

Mai giật mình, ở đây đâu có ai dạy toán, bảng cửu chương nên trẻ con đâu tính nhân chia như hiện đại. A, mà hình như trong nhà không ai biết chữ? Không nghe ai nói chuyện đi học gì cả. Chữ quốc ngữ được dùng chính thức từ nửa sau thế kỷ mười chín, trước đó ở đây dùng chữ Hán, chữ Nôm. Vậy mình cũng là người mù chữ. Mai tuyệt vọng rồi.

- Ca, nhà nội có ai biết chữ không?

Mai cố gắng hỏi xem có hy vọng gì không.

- Ông cố biết chữ, có dạy ông nội nhưng nội cũng quên gần hết rồi. Học chữ tốn tiền lắm, chỉ có nhà giàu mới cho con đi học.

Vĩnh ca không hiểu sao a Mai lại hỏi chuyện này, mà mặt lại buồn so. Hôm nay bán đường được tiền, hắn rất vui, lần đầu tiên được giữ nhiều tiền trong túi áo như vậy. Lúc trong chợ hắn cứ lo làm rớt mất.

- Ca, sau này ca muốn làm gì?

- Làm gì là làm gì?

Vĩnh ca không hiểu lắm hỏi lại, theo hắn biết lớn lên sẽ cưới vợ, sinh con giống mọi người. Lúc trước hắn chỉ biết sau này mình đi đánh cá giống nhị bá, tam bá. Hắn thật sự không thích lắm, với nữa hắn không cao lớn khoẻ mạnh như mấy ca ca, sẽ không thể tự mình ra biển, có thể không kiếm đủ ăn. Bây giờ thì hắn có thể theo cha làm ruộng rồi, không lo kiếm không đủ cơm ăn.

- Ta muốn làm ruộng giống cha, không đi biển.

A, xung quanh đây nhà ở gần biển thì đánh cá, nhà ở ruộng thì làm nông, mấy đứa nhỏ chỉ biết học theo như thế.

- Ca có nghĩ đến làm cái khác không, à,... như Bùi ông làm thợ mộc, Đỗ lang y đi trị bệnh, à, muội thấy làm gốm bán giống như nhà đối diện chỗ mình trong chợ đó.

- Như vậy được?

- Được, sao không được?

- Mấy cái đó phải có người dạy mới làm được, đâu có ai dạy mình.

Giỏi, a Vĩnh này nói đúng trọng điểm rồi. Ở đây người ta ít truyền nghề ra ngoài, chỉ giữ trong dòng họ thôi.

- Nếu có người dạy thì ca thích làm gì?

- Ta không biết.

- Sao lại không biết,

- Vậy muội thích làm gì?

- Muội hả, à,... muội làm gì cũng được chỉ cần có nhiều tiền, có ghe lớn đi nơi này nơi kia.

- Ha ha ha, muội làm biếng, chỉ muốn đi chơi.

A Vĩnh cười ha ha ghẹo Mai một lúc thì nhăn mày nghĩ.

- Ta muốn giống Đỗ lang y, đi trị bệnh cho nhiều người, nhưng mà rất khó đúng không?

- Không khó lắm đâu, muội sẽ giúp ca.

- Muội? Muội biết trị bệnh sao? Muội không bệnh là tốt rồi. Lúc trước nghe nhắn về muội bị té bất tỉnh làm ca sợ muốn chết.

Mai bĩu môi, ca chờ xem, nghe hắn nói lo lắng cho cô làm lòng cô thật ấm áp, dù biết rằng cô không phải là ‘bé Mai’ trước đây.

Vừa đi vừa trò chuyện một lúc thì đi ngang ao sen, Mai chạy về phía đó. Sen mọc gần hết ao nước, có mấy cây súng hoa đỏ rực chen vào. Mấy đài sen còn nhỏ, hạt còn lép chắc vài ngày nữa mới ăn được.

Mai đành gác lại chuyện học chữ, tìm dịp nào đó vô chợ Sông Lớn thăm dò, hoặc hỏi ông nội. Chuyện bây giờ là dạy cách tính toán cho người nhà mới được.

Tác giả: VRSSChương 25: Chạy đua với mưa đầu mùaVề đến nhà chỉ còn bà nội đang gói đường vào khuôn lá thốt nốt. Hai đứa khoanh tay thưa bà rồi xuống sạp tre. Vĩnh ca đem túi tiền đưa cho Mai đếm, hắn bên cạnh xỏ xâu. Tiền kẽm hình tròn có lỗ ở giữa, hai mặt đều có chữ nhưng Mai không biết đọc. Mai vừa đếm vừa kể bà nội nghe chuyện ở chợ, bà nội buông tay gói, dọn mấy chén cơm canh cho hai đứa ăn sáng.

– Ăn xong rồi đếm tiếp.

– Dạ, cháu xong rồi nội. Xâu lớn này một trăm văn, xâu nhỏ này năm mươi văn. Nội cất đi nội.

– Ừ, không biết nương con bán được không.

– Được mà nội, thế nào người ta mua để nấu chè cúng Tết Mùng 5 mà.

Hai đứa ăn xong thì dẹp nồi chén rồi đi ra ruộng.

– Mang theo bình nước đổi.

– Dạ.

Có thêm cái cuốc mượn Lưu bá do Bình ca và thất thúc thay phiên nhau dùng, làm cỏ nhanh hơn, gần xong hai mẫu rồi. Mấy đống cỏ chất bên bờ đã héo khô, cha kêu a Vĩnh châm lửa đốt. Lớp cỏ bên trong còn ướt nên khói lên bay lên dày đặc, bỗng nghe chích chích, mấy con chuột từ đống cỏ lủi ra ngoài. Thì ra bọn chúng định trốn tránh nóng.

Nhà Lưu bá đang dọn sạch cỏ, cũng châm đốt. Năm nay Lưu bá có năm mẫu đất, làm xong cả nhà cũng mệt mỏi. Hôm nay nhà Lưu bá về sớm, nhà phía bên kia vẫn còn làm giống nhà Mai. Bên đó chắc nhiều ruộng hơn, nghe nói là nhà họ Nguyễn, đã ở đây hơn mười năm rồi. Thỉnh thoảng nghe tiếng gà gáy xa xa, là nhà bên đó nuôi.

Mai cũng muốn nuôi gà, vịt, đặc biệt là heo nhưng giờ chưa phải lúc.

Nghỉ trưa xong ra đồng mà vẫn chưa thấy nương và An ca về, ai cũng hơi lo nhưng không lên tiếng. Trưa nắng bà nội không cho A Phúc ra đồng, giữ hắn ở nhà xỏ kim giúp bà. Bà rãnh rỗi sẽ vá quần áo cho mấy đứa nhỏ. Kim may áo thời này cũng không nhỏ như hiện đại mà to thô hơn một chút.

Vải may quần áo cũng vậy, sợi vải gai hoặc bông đều to, khổ vải nhỏ nên cần nối ráp nhiều, chắc vì vậy nên người ta may quần áo thành nhiều nếp, nhiều miếng. Vải nhuộm màu chàm xanh, nâu hay đen; màu trắng kiêng kỵ không được mặc. Các loại vải lụa rất mắc, quan lại, nhà giàu mới được mặc.

Xế chiều nương mới về đến nhà, ngoài ruộng nhìn thấy nương và a An phía xa mọi người đều nhẹ nhõm. Một lúc sau nương ra ruộng.

– Bán hết rồi, lúc nãy bị trễ đò.

Nghe xong ai cũng cười, thành công rồi, có thêm ít tiền cũng đỡ lo hơn. Lúc ăn cơm chiều, mấy đứa nhỏ bu quanh a An hỏi hắn chợ lớn như thế nào, bán đường ra sao. Trong mấy đứa chỉ có hắn được đi chợ Sông Lớn, kể cả lục cô và thất thúc cũng chưa đi bao giờ.

A An kể trên đó có nhiều nhà sát nhau, mỗi nhà đều bán đồ, có gạo, lúa, khoai, bán vải may quần áo, mấy chục ghe cập bờ cũng bán đủ thứ.

– Chúng ta chỉ đi chợ ở gần sông, phía trong chưa đi. Ta nhớ bên trong có nhà bán đường, dầu rồi nên ta không đi vô trong đó.

dienvan.space

Bà nội đưa mấy xâu tiền cho nương:

– A An xâu lại rồi, có thêm a Vĩnh bán được một trăm năm mươi văn ở chợ làng.

– Dạ, nương.

Nương Mai nhận năm xâu lớn một xâu nhỏ cất trong phòng.

– Năm nay nương định nấu gì cúng Tết Đoan Ngọ?

Nương hỏi bà nội.

– Mấy ngày sau đi bán lần nữa con mua đồ.

– Ừ, năm nay cúng như mọi năm, gói bánh ú, nấu chè trôi nước. Nương thấy nhà còn đậu, đường cũng có. Con mua nếp về làm bột nữa là đủ, à, rượu với nhang cần mua thêm.

– Dạ, nương. Mấy cái này chợ trong làng có.

Hai hôm nay thất thúc dành phần việc lấy nước thốt nốt của Bình ca, lục cô và Cúc tỷ thì cùng nhau nấu, gói đường. Buổi tối mắt nội không thấy rõ, chỉ ngồi coi mấy đứa làm, thỉnh thoảng kể chuyện xưa.

A Phúc thích nghe chuyện Cá ông cứu người và chuyện Hòn phụ tử nhất.

Đang ngủ ngon thì Mai giật mình thức dậy vì nghe tiếng lộp độp trên mái nhà. Mưa rồi, mà cơn mưa đầu mùa này cũng lớn. Mưa lớn kéo dài hơn một khắc rồi nhỏ dần, Mai ngủ lại lúc nào không biết.

Sáng dậy cha lo lắng đi xem ruộng, đất ẩm ướt thì khó làm cỏ hơn, tốn nhiều công sức. Mưa đến làm không khí dịu mát, lại làm người ta khẩn trương hơn. Nhà nào chưa làm đất xong như nhà Mai thì tranh thủ từng giờ xuống ruộng, sợ mưa tiếp sẽ vất vả. Nhà nào ruộng làm xong như nhà Lưu bá thì nhìn trời xem mưa tiếp hay không để còn ngâm lúa giống, chỉ sợ lúa lên mọng mà trời nắng liên tục không sạ được giống sẽ chết.

Mấy ngày sau trời không mưa, nhưng mây đen đã kéo về, cha nương, Bình ca, thất thúc ở ruộng từ sáng sớm đến chiều tối, việc nhà do bà nội quản mấy đứa nhỏ làm, cơm trưa cũng ăn trên ruộng. Bàn tay của mấy người đều phồng rộp lên.

Cố gắng đến ngày cuối tháng tư thì trời cũng mưa. Mưa lớn như trút nước từ xế chiều rồi rả rích đến tối. Nhà Mai dọn bếp nấu đường vào trong. Đến khi đi ngủ trời vẫn còn rả rích. Mai đang cầu trời tạnh lúc nửa đêm, sáng mai là họp chợ rồi, cô muốn đi bán thêm một lần nữa trước ngày Tết Đoan Ngọ.

Cũng may ông trời thương tình, khuya hôm đó trời đã tạnh, đường mưa ướt nên hôm nay Bình ca đi với nương, thất thúc sẽ đưa Mai và A Vĩnh ra chợ.

Mưa xong bầu trời quang đãng, mặt trời chưa lên mà ánh nắng đã hắt lung linh trên mặt sông. Thất thúc không về mà ở lại bán cùng hai đứa. Hôm nay tinh thần ai cũng sảng khoái, dù mưa sớm nhưng[url]dienvan.space[/url] mưa đến là tốt, vạn vật sinh sôi sau mấy tháng nắng chờ đợi. Mai bán hàng rất nhanh, nhà ai cũng vội đến chợ mua nhanh những thứ cần thiết rồi về, không la cà như mọi hôm.

Thất thúc cười hì hì vuốt đầu Mai, không ngờ con bé này ở nhà ít nói mà ra đường nhanh miệng như vậy. Mai tránh ra xa, liếc mắt nhìn, làm như người lớn!

Theo bà nội dặn, Mai ghé mua mười cân nếp, hai lít rượu gạo, hai bó nhang. Sau đó ba đứa đi đến ghe của bá bá bán gạo hỏi mua một trăm cân gạo, còn xin bá ấy chở về nhà luôn.

– Nhà cháu ở đâu?

– Gần lắm bá, đi dọc bờ sông đến cù lao đó là tới. Một trăm cân này nặng quá, chúng cháu không mang nổi.

Nghe giọng bé gái rất đáng thương, ông thấy tụi nhỏ đi bộ đến, chắc cũng gần, chở giúp cũng được.

– Được, nhưng cháu chờ tan chợ mới được.

– Dạ được.

Ba đứa nhỏ tìm chỗ ngồi ăn khoai mì nước dừa, rồi đi loanh quanh chợ xem các món đang bày bán. Có một quầy bán thịt heo, quầy này phiên chợ trước không có. Chắc họ bán cho Tết Đoan Ngọ thôi, ngày thường ít người mua nên không bán.

Cuối giờ thìn thì chợ tan, chiếc ghe ngược dòng nên hơi chậm. Thất thúc lấy mái chèo nhì phụ chèo. Bá ấy cười nhìn mấy đứa nhỏ hiểu chuyện.

– Nhà bá ở đâu? Nhà bá trồng nhiều lúa lắm nên dư đem bán sao?

– Nhà ta phía trong kia, từ chợ đi xuống gặp ngã ba sông quẹo vào trong là tới. Ta đi miệt trong mua lúa về giã thành gạo bán, kiếm chút tiền công.

– Trước kia bá đi biển sao?

Vĩnh ca đột nhiên hỏi.

– Đúng vậy, sao cháu biết?

– Trên cánh tay bá có vết chai giống ông nội cháu.

– Hả, ha ha.

Bá ấy cười to nhưng không xác nhận gì hết. Xuôi theo ánh nắng, mặt vũng Đông Hồ mênh mông, lấp lánh như dải bạc. Thỉnh thoảng một hai ghe xuôi ngược trên phía gành song Giang Thành.

Về đến gần nhà, quẹo vào con rạch thì thấy phía xa có chiếc ghe theo hướng này vào, không biết vào nhà Lưu bá hay nhà mình, mấy đứa nhỏ thắc mắc tự hỏi.Chương 26: Thu hoạch từ hào senTrên sân trước, Huỳnh thị (1) đang sàng lúa giống, lâu rồi bà không làm việc nhà nông. Từ ngày lấy chồng đi biển bà không nghĩ sẽ làm mấy việc này, giống như quay về thời con gái, nhìn ra ruộng xa, bà đỏ mắt nhớ những ngày tang thương. Bây giờ bà đang bước những bước cuối cuộc đời, không phụ lòng cha nương dặn dò, chỉ là không biết ca đệ còn sống không? Lưu lạc phương nào?

– Nương, để con làm.

Tiếng Lê tứ cắt ngang tưởng niệm làm bà sực tỉnh.

– Có gì đâu, nương rê sạch rồi. Con ngâm, canh nước như nương dặn. Lúc sạ lúa cho đều tay, đừng chỗ dày chỗ mỏng.

– Dạ.

Sáng nay Lê tứ ra ruộng, mặt đất đã nhão bùn, còn hơn nửa mẫu chắc không cuốc được tốt. Lưu Hà ra thăm ruộng gần đó đến nói:

– Lúc sáng Dương bá nói qua Tết Đoan Ngọ sạ lúa là vừa, đệ lo ngâm giống đi. Nửa mẫu này đợi vài ngày mưa thâm trồng khoai, đậu cũng được

– Đệ cũng tính vậy.

Giờ nghe nương đi ngâm giống, mấy hạt giống được chọn kỹ hạt nào cũng căng tròn, vàng óng; chuẩn bị sẵn rồi ông nghe lời đi ngâm giống.

Mưa ướt đất mang giày không tiện, ông chỉ đi chân không. A An lăn cái lu mẻ đặt trước nhà, đổ đầy nước, ai vào nhà thì rửa chân mang giày. Làm xong hắn cầm ống tre lấy nước thốt nốt xoay xoay trong tay suy nghĩ. Tối qua mưa rớt vào ống tre, phải làm sao để không bị nước mưa lọt vào. Hắn đã lấy lá che phía trên cuống bông thốt nốt nhưng mưa hoặc gió lớn sẽ cuốn đi. Chiều về hỏi Bình ca xem sao.

Nước lớn nên ghe cập được vào bờ, thất thúc vác bao lát đựng gạo bước qua, a Vĩnh qua bờ trước đưa tay kéo Mai. Ba đứa cám ơn xong định quay vào nhà thì nghe tiếng gọi.

– Tiểu thúc!

Là a Bảo và nhị bá, Mai thoáng cái gọi bác bán gạo.

– Bá còn mấy cân gạo trên ghe?

– Hơn năm mươi cân.

– Bá bán cho cháu hết đi.

– Được.

Cha nương định mua 200 cân gạo cho nội mang về, nhưng đi đường xa, thất thúc mang không nổi, đành mua trước 100 cân, cha sẽ mang 100 cân ra sau. Nhưng bây giờ có ghe của nhị bá vào thì không lo nữa.

Gạo còn lại là 56 cân, bá ấy tính tiền 55 cân, cho một cân. Nhị bá neo ghe rồi phụ vác gạo vào nhà.

Tiếng xôn xao ngoài này làm người trong nhà đi ra. Gặp nhau chào hỏi rồi cùng vào nhà.

– Cha thấy mấy ngày nương chưa về, không biết trong này sao, nên kêu con vào. Chiều tối qua biển động đầu mùa nên nhà mình không ra biển.

Nhi bá chào bà nội rồi giải thích.

– Ta cũng định nay mai về. Còn chưa ăn sáng phải không, ta dọn cơm con ăn.

– Nương, con với a Cúc dọn rồi. Nhị ca xuống ăn cơm.

Lục cô từ bếp lên nói, kéo mấy đứa nhỏ xuống ăn luôn. Đang ăn cơm thì cha vào, ngồi trên sạp hỏi thăm nhị bá chuyện đánh cá. Mai kéo áo bà nội nói chuyện mua thêm gạo.

– Nhị ca khi nào về, đệ chạy vô trong làng mua thêm mấy chục cân gạo nữa.

– Được rồi, lần sau mua tiếp. Tiền bán đường hôm trước đây, nhị tẩu đệ đưa ta, giữ lại hai đòn trong nhà ăn. Còn bao nhiêu bán hết.

– Cái này, nhị ca,…

– Ta không biết, cha dặn đưa đệ, ở nhà còn tiền, có thêm gạo này nữa là qua mùa bão được rồi.

Mai đứng dậy kéo cả đám ra ngoài, mang theo mấy cái rổ tre, a Phúc nhanh chân chạy theo.

– Đi đâu vậy?

– Bí mật, theo sẽ biết.

Không biết đi đâu, đường đất trơn trợt vậy mà mấy đứa cũng chạy đi. A Vĩnh thấy hướng chạy đã đoán ra, cười tủm tỉm chạy theo.

Cơn mưa hôm qua làm mặt nước trong hào dâng lên, mấy lá sen cũng bị xé rách, chỉ còn đài sen cứng cáp vững vàng vươn khỏi mặt nước.

– Chỉ hái đài hạt lớn thôi, hạt nhỏ lần sau hái.

Hào nước hơi sâu nên Mai và a Phúc đứng trên bờ nhặt đài sen vào rổ.

– Ta hái vài cọng ngó với củ luôn.

– Ít thôi, nó không để lâu được.

– Ừ, biết rồi.

Hào sen rất lớn, cả đám hái một hồi, đầy hai rổ mà chỉ mới hết một góc hào. Mai chợt nhớ, tim sen có thể làm thuốc, nếu mình phơi khô mang đến bán cho lang y hoặc cửa hàng dược thảo chắc được.

– A, có cá.

Bảo ca chụp hai tay dưới nước lôi lên con cá bông lau to hơn bắp chân a Phúc. Bảo ca nhanh nhẹn lên bờ, lấy cọng dây xỏ mang cá đưa Mai. Mai treo nó trên cành cây gần đó. (đoc chương mới tại dienvan.space) Tiếp đó là những con cá khác, lần lượt treo thành hàng trên cành cây. Cả đám nhìn hàng cá vui vẻ cười đùa, hái đài sen, đυ.ng cá thì bắt cá. Mấy đài sen không bỏ rổ mà được buộc từng chùm, mang về cũng dễ. Gần đến giờ ăn cơm thì kéo nhau về, đứa nào cũng ướt nhem, hôi bùn non trong hào, hai tay xách sen, xách cá, bội thu, hí hí.

Nhị bá và cha không ở nhà mà ra ruộng, lúc trở về cũng dính bùn. Nội dạy lục cô và Cúc tỷ nấu chè hạt sen tươi. Mai lấy cái chén nhỏ để cạnh nội.

– Nội để dành tim sen cho con

– Ừ, con muốn nấu trà uống sao?

– Hì hì,

Mai đâu có thanh nhã vậy chứ!

Nhà đông người, sạp tre không đủ chỗ ngồi, ăn trưa chia hai mâm nhà trên, nhà dưới. Bữa ăn có thêm món tôm ngó sen bóp dấm. Thì ra cái hũ sành nương để trong góc kín là nuôi con dấm. Con dấm là bảo bối nhà nông, lúc lấy dấm bà nội còn nhỏ giọng chỉ dẫn lục cô và Cúc tỷ cách lấy, nếu không con dấm chết. Con dấm dừa thơm hơn nhưng không đậm đà như dấm gạo.

Mấy con cá bắt được ở ao sen được làm sạch, gói lại mang về nhà nội. Ăn cá biển hoài cũng ngán, lại thèm ăn cá đồng ngọt mềm. Bà nội muốn chờ nương về để biết bán có tốt không, lại lo về trễ thì nhà không ra biển được.

Cuối cùng vẫn không chờ được, cha nói là sạ lúa xong sẽ về làng chài. Gói gém nếp, rượu cúng Tết, gạo mang ra ghe, bà nội cũng mang đường vừa nấu sáng nay theo bán giúp. Mấy ngày nay có bà nội, lục cô và thất thúc trong nhà rất hài hoà, giống như sum họp, giờ bà nội về cả nhà hơi bịn rịn, a Phúc ôm chặt bà. Bà cười ha ha nói:

– Mai mốt a Phúc sắm ghe lớn ra thăm nội hàng ngày.

Cúc tỷ bước lại ôm a Phúc ra. Bịn rịn mấy cũng phải đi. Chiếc ghe vòng qua rồi khuất bóng sau rặng cây. Dặn mấy đứa nhỏ ở nhà dọn dẹp, cha vác cuốc ra đồng, ông ráng cuốc thêm ít đất trồng thêm lúa. Hai mẫu lúa không đủ cho hai nhà ăn cả năm.

(1) Họ Hoàng ở Đàng Trong bị đổi thành họ Huỳnh vì kỵ húy Chúa Nguyễn Hoàng.Chương 27: Tết đoan ngọ với bánh ú, bánh trôi nước và cá rôXế chiều nương và Bình ca về, đường cũng bán hết nhưng gương mặt nương dàu dàu. Nương và Bình ca ngồi ăn cơm trên sạp tre nghe mấy đứa kể chuyện lúc sáng.

Hôm nay mấy đứa nhỏ không ra ruộng, An ca kéo Bình ca ra chỗ bụi tre chặt đốn gì đó. Mai, Vĩnh ca và a Phúc ôm rổ đựng ngó sen, đài sen qua cho Lưu bá. Lưu bá mẫu và nhị Mi tỷ đang cuốc đất trong vườn sau, bên cạnh là đủ các loại rau, có mấy gói hạt giống nữa.Tam Mi cất hạt sen xong cũng ra vườn.

- Tụi con hái sen chỗ hào gần tịnh xá sao?

- Dạ, qua khỏi Nguyễn gia một đoạn. Mà con không thấy cái chùa nào.

- Cái chùa nhỏ, khuất sau gò, con đi vòng qua một chút mới thấy. Nương con chừng nào gói bánh.

- Dạ, hai ba ngày nữa.

Mấy ngày kế tiếp trời lại nắng, nhà Mai vừa dọn sạch cỏ vừa làm tiếp cũng xong hết ba mẫu đất. Phần đất cao phía xa trồng khoai, đậu là lương thực phụ, hai mẫu trồng lúa gạo, nửa mẫu còn lại trồng lúa nếp.

Khuya Tết Đoan Ngọ nương dậy sớm chuẩn bị nếp đã ngâm với nước tro trong chiều hôm qua. Qua một đêm hạt nếp đã mềm, màu nâu nhạt. Bột nếp làm bánh trôi được giã bằng cối gỗ cho nhuyễn thành bột, lọc qua miếng vải thô. Còn nếp gói bánh ú thì không cần giã, chỉ để nếp ráo nước trên rổ.

Cúc tỷ và Mai lau lá tre phơi hơi dốt rồi xếp ba bốn lá thành một bộ. Nương làm nhưng đậu xanh ngào đường thốt nốt thành màu nâu sẫm nhìn rất ngon, hương đậu xanh ngọt ngào lan ra làm mấy đứa nhỏ phát thèm vây quanh mâm nhưng.

Cũng từ nếp và đậu xanh mà làm được hai loại bánh ú và bánh trôi nước; hương vị thật khác nhau. Mai thích bánh ú có hương lá tre thơm mát, màu nếp nâu nhạt cộng với nhưng nâu sẫm, lá tre xanh làm màu sắc thật chân chất. Là màu của đất ruộng và cây lúa, là màu hương và vị của quê hương, thành quả của những tháng ngày vất vả và hạnh phúc bình dị.

Cả nhà quây quần, bận rộn đến gần tỵ thì xong, cha nương dọn mâm cúng ở nhà trên. Sạp tre nhà dưới cũng có mấy chén bánh trôi và bánh ú gói méo xẹo, là tác phẩm của Mai, a Phúc và a Vĩnh. Ba đứa cười hì hì tự mình ăn luôn.

Giữa trưa nương nhắc cả nhà ra nhìn mặt trời nháy mắt, con trai nháy bảy cái, con gái nháy chín cái. Theo phong tục thì làm như vậy sẽ tránh được bệnh đau mắt, đầu mùa mưa là thời điểm dịch bệnh đau mắt lan ra, người lớn trẻ nhỏ đôi khi cả làng đều bệnh, lang y không chữa được, chỉ có thể chờ bảy, chín ngày bệnh tự khỏi.

Trời đang nắng gay gắt, đột nhiên mây đen kéo về ùn ùn. Mưa rớt hạt thưa thớt, mạnh dần rồi là một màn trắng xoá. Gió thổi mạnh giật từng ngọn cây, ngọn dừa ven sông uốn mình theo chiều gió như đang nhảy múa.

Nương, Cúc tỷ ngồi bên cửa sổ nhà sau vá quần áo. Vĩnh ca bị Mai nài nỉ quấn lấy đang nhóm bếp nướng mực. Con mực to ở nhà nội phơi một nắng ráo, hôm nhị bá vào mang theo. Mực nướng này có tương ớt nữa ăn rất ngon, hay mình trồng ớt rồi làm tương ăn, làm nhà ăn chắc được, muốn bán thì phải tính toán kỹ hơn.

Cha và Bình ca chiếm chỗ đất rộng trước sạp tre đóng bàn ghế. Nếu đặt Bùi ông đóng sẽ đẹp hơn nhưng cũng tốn không ít tiền. Lúc dựng nhà xong, cha đã ngâm mấy cây gỗ còn dư ở dưới rạch. Mai phát hiện cha rất khéo tay mà ông cũng thích đóng đồ đạc trong nhà. Bình ca cũng vậy, hắn luôn theo bên cha cưa cưa, đυ.c đυ.c.

Mấy cây gỗ mới ngâm nước có mùi thủm thủm, mạt cưa (vụn gỗ nhỏ khi cưa, đυ.c) văng quanh nhà bếp. Để lại hai con mực trên dĩa ở sạp tre, mấy đứa nhỏ lên giường nhà trên ngồi. Mai tranh thủ rãnh rỗi dạy cách làm toán.

Cô đã bẻ nhánh tre nhỏ, chặt thành các đoạn bằng nhau, phơi khô bó thành bó.

- Ca bán mười văn một đòn, người ta mua ba đòn thì phải trả ca bao nhiêu văn?

Dựa theo thực tết trong nhà, Mai đang dạy ‘bảng cửu chương’.

- Ba mươi văn.

An ca rất nhanh trả lời.

- Ca đếm ba mươi que này ra đi.

An ca đếm xong, Mai kêu a Phúc đếm mười que buộc lại một bó. Tiếp đó cứ lần lượt đổi giá bán của đường làm cho mấy đứa nhỏ tính nhẩm nhanh hơn. Sau đó là tính tiền của các vật dụng, lương thực cần mua trong nhà. Học chán thì chuyển qua chơi cờ ca rô. Kẻ ô vuông trực tiếp xuống nền nhà, bốn đứa vây quanh chơi.

A Phúc chạy ra ngoài tiểu, chưa gì đã la lên:

- Cá, cá rô trên sân kìa.

Ba đứa chạy ra xem, hai con cá rô cỡ ba ngón tay đang ‘lóc’ lạch chạch gần cửa. Chúng muốn ‘dâng đến miệng’ người ta sao! Trong vũng nước xa cũng có một con đang lóc. A An chạy xuống bếp.

- Cha, nương, cá rô lóc lên sân con đi bắt nha.

Cha nhìn ra trời mưa rả rích.

- Ừ,

- Con đi nữa,

- Con,

- Con,

Bốn đứa ào ra sân.

- Đừng ra gần rạch, trơn trợt té đó.

Nương dặn với theo. Vĩnh ca xách theo cái đυ.c không nắp. Cá rô lớn nhỏ đều leo lên bờ, bắt thật dễ. Gần đìa đã tát hôm trước An ca bắt được con ba ba nổi lên uống nước mưa. Mai chụp hụt một con ếch, ngã dài ra đất, mặt mũi đều dính nước bùn. A Phúc thấy cười ha ha, cô giả vờ dí theo đánh làm nhóc chạy loạn cũng té ngã vô vũng nước. (đọc chương tại dienvan.space) An ca bắt được con cua to ở bờ rạch, lấy dây trói hai càng nó thật chặt mới quăng vô đυ.c. Hạt mưa không lớn, rớt xuống mặt xuống tay như mát xa, mát lạnh thât thoải mái.

Tắm mưa bắt cá gần nửa canh giờ thì a Phúc đã lạnh run, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập, mà nó còn muốn tắm tiếp không chịu vào nhà làm nương kêu cả bốn đứa về luôn. Ba đứa lớn đều không vui liếc a Phúc, hắn chạy te vào chỗ nương đang cầm sẵn quần áo cho hắn thay.

Trời tối sớm hơn, bữa cơm chiều là canh cá lóc rau dền, cá rô kho. Mấy con cá rô lớn đều có bụng trứng, chắc chúng tìm chỗ đẻ trứng. Ăn cơm xong còn có cua rang muối nữa, nếu có thể ăn thêm thịt, chất béo là dinh dưỡng đầy đủ rồi.

- Nương, sao mình không nuôi heo?

- Heo con rất mắc tiền, ít nhà gây giống được.

- Dạ, vậy gà vịt thì sao?

- Ở nhà ngoại con có nhà nuôi vịt, xung quanh đây nương không thấy. Gà hơi khó nuôi. Nghe nói nóng quá, lạnh quá nó sẽ chết, mưa nhiều cũng không được.

Nghe nương nói thì ở đây người ta chưa có nuôi thành đàn.

- Con thèm ăn thịt sao?

- Dạ, lang y nói ăn thịt cá thay đổi mới khoẻ mạnh, ít bệnh.

- Vậy à?

Cha nghĩ nghĩ rồi nói:

- Phía trong Bình san có mấy nhà đi săn thú, thỉnh thoảng họ sẽ mang xuống chợ bán đổi lương thực. Nhà mình bán đường ở chợ, nếu có nàng mua ít về ăn đổi món.

- Được.

A, thịt thú rừng chắc mắc tiền lắm, ý Mai là muốn tìm heo con, gà con, vịt con nuôi. Nuôi lớn ở nhà mình ăn, rồi nuôi nhiều thành đàn như nông trại vậy, kiếm thêm tiền nữa.Chương 28: Làm thử dầu dừaMấy ngày tiếp trời cứ mưa lâm râm, tạnh mưa cũng không thấy nắng. Cha qua nhà Lưu bá hỏi thăm chuyện sạ lúa. Hai nhà định làm chung, dần công nhau. ‘Dần công’ là nhà Mai qua phụ sạ lúa ruộng Lưu bá xong rồi thì sẽ đến lượt nhà Lưu bá sạ lúa trên ruộng nhà mình.

Lúa giống Lưu bá đã nảy mầm đều, sáng mai cha nương và Bình ca qua nhà Lưu bá sạ lúa (1).

Cha và Bình ca chưa sạ lúa bao giờ nên đi theo phụ tháo nước trên ruộng hoặc bưng bê lúa giống. Nương và Lưu bá mẫu sạ lúa rất đều tay, từng hạt lúa nảy mầm ghim xuống đất mang theo hy vọng của người nông dân. Ba ngày thì gieo xong năm mẫu đất nhà Lưu bá.

Chợ phiên lần này nương không đi, Mai, a Vĩnh và Cúc tỷ đi chợ làng. Lần đầu Cúc tỷ đi bán đường nên rất ngại ngùng, tỷ đứng sau nhìn Mai rao hàng, Vĩnh ca nhận tiền. Xung quanh đây người dân sống tự cung tự cấp nên nhu cầu không nhiều, Mai nghĩ nên cách chợ phiên đi một lần sẽ thuận tiện hơn. Những gia đình xung quanh đây cũng giống nhà mình, ăn cá tôm rau nhiều nhưng thiếu đường, chất béo. Đường có rồi, chất béo ngoài thịt ra là dầu.

Các loại dầu đậu nành, đậu phộng muốn chiết xuất không dễ, Mai không biết tạo máy móc gì hết nên không làm được rồi. Còn dầu dừa, có thể làm nhưng người ta chịu mua ăn không? Dầu dừa có mùi đặc trưng, mình không thể tách mùi bằng công nghệ như hiện đại được.

Hay là cứ làm thử!

- Tỷ, Vĩnh ca chúng ta về thôi.

Chợ chưa tan nhưng Mai nghĩ các nhà vẫn chưa dùng hết đường từ Tết Đoan Ngọ, nên sẽ không mua. Trong giỏ còn lại ba đòn, bán được mười hai đòn. Chờ sạ lúa xong nương mang đi chợ Sông Lớn bán.

Cúc tỷ mua hai cuộn sợi gai đan giày, kim lớn và ít chỉ đen vá quần áo rồi về. Trên đường về, Mai nói về việc cách một ngày chợ bán một lần. Cúc tỷ và Vĩnh ca đều gật đầu.

Trong nhà chỉ có An ca và a Phúc loay hoay với mấy que tre. Từ que tre Mai chỉ thêm cách xếp hình sao, hình núi. Ban đầu Mai giả như xếp ngẫu nhiên ra hình ngôi sao rồi kêu a Phúc lại xem. Cứ phải che dấu việc tại sao cô biết những điều này cũng không dễ dàng.

Sáng nay Cúc tỷ đi chợ sớm nên chưa nấu đường, tỷ vội vã bắt hai bếp nấu, Vĩnh ca ở bên cạnh chụm lửa. Mai đi ra vườn nhìn lên mấy trái dừa, có mấy trái đã khô. Cô tìm cây thọc cho nó rụng nhưng sức không đủ, nhấc cây tre dài lên đã hết sức.

- Muội hái dừa khô làm gì? Ta hái trái kia, nước ngọt cơm vừa ăn cho muội.

An ca đứng sau lưng từ khi nào cô không biết, chỉ trái dừa xanh vừa cơm nói.

- Muội nghĩ cơm dừa khô làm thức ăn rất ngon.

Cô nói trước như thế, để tránh mọi người nghi ngờ. An ca sức lớn hơn, thọc hai ba lần thì hai trái dừa khô rớt xuống.

- Ca, phụ muội làm đi.

- Ừ, làm gì?

Theo trí nhớ Mai hướng dẫn a An lột vỏ dừa, lấy nước rồi chẻ đôi ra. Không nạo dừa được nên đành dùng dao nạy cơm dừa ra khỏi gáo, hai đứa loay hoay gọt bỏ lớp màu vàng ở vỏ cơm dừa. Khi gọt xong miếng cơm dừa sứt sẹo như bị chó cạp. Cúc tỷ đi qua lại nấu đường thấy hai miếng cơm dừa thì ôm bụng cười.

Mai làm ngơ không để ý, nói An ca xắt hột lựu thật nhỏ. Đợi bếp tỷ xong thì đổ ít nước vào nồi, đổ cơm dừa vào.

- Nấu lên ăn được không?

- Chắc được, ca nhỏ lửa.

Vĩnh ca cũng chạy lại xem. Nấu được hai khắc thì nước bắt đầu vàng, có mùi thơm bay lên, cơm dừa teo lại chuyển nâu. Mai thấy hơi nước ít dần, dầu kẹo lại thì chỉ để than, không thêm củi.

- Thơm quá, cho đệ ăn với.

Mấy đứa nhỏ đều nhìn Mai vớt hết cơm dừa ra chén, mùi thơm quanh quẩn. Cơm dừa hơi nguội Mai thử ăn, dầu ứa ra trong miệng, hơi khét một chút nhưng vẫn ngon.

- Thử đi, cũng được.

Vừa nói xong là bốn cái tay cầm muỗng gỗ múc cơm dừa lên.

- Hơi khét,

- Tại Vĩnh ca chụm lửa to.

- Muội đâu có kêu bớt lửa.

Vừa nhai cơm dừa giòn rụm vừa trêu đùa nhau. Thật ra cái Mai muốn làm là dầu dừa còn trong nồi, chứ không phải cơm dừa này, cái này là ‘phụ phẩm’ thôi.

- Tỷ, mình còn tôm sống không?

- Không, chỉ có tôm khô.

- A, An ca làm sạch mấy con cá sặc nhỏ cho muội đi.

- Định làm gì?

- Muội tính bỏ cá vô nồi này nấu, biết đâu cá sặc cũng giòn, béo giống cơm dừa.

Vĩnh ca nghe xong hớn hở.

- Đúng đó, nếu cá giòn như vậy, ăn chắc ngon lắm.

An ca nhai cơm dừa trong miệng, nuốt xuống rồi nói:

- A Vĩnh, đệ làm cá đi. Ta chạy ra đìa mò mấy con tôm, tôm không có xương, nướng giòn như vậy chắc ngon hơn.

Mai thầm gật đầu, An ca rất nhanh trí, chỉ là làm như vầy gọi là ‘chiên’ không phải nướng. Chờ dầu dừa nguội, Mai rót ra chén, hai trái dừa được gần một chén dầu.

- Để tỷ ra xem, hai đứa vội vàng rửa không sạch, cá tanh.

Mai nhìn bếp kê bằng mấy tảng đá chữ nhật, mới ngồi xổm một chút đã thấy mỏi. Cúc tỷ và nương ngày ngày như vậy mệt mỏi lắm, chờ cha sạ lúa xong rãnh rỗi sẽ làm bếp cao, đứng nấu thoải mái hơn.

Tôm cá ráo nước, Mai nhắc Vĩnh ca canh lửa lớn dầu sôi cho cá tôm vào, thấy Mai ngồi xổm vặn vẹo Cúc tỷ thay nàng:

- Tỷ chờ một mặt cá chín thì trở qua, chiên đều hai mặt.

Tôm chín nhanh, mùi thơm béo hấp dẫn.

- Tỷ vớt tôm ra đi, chắc chín rồi.

Con tôm bị chiên chín đỏ, có dính cơm dừa nâu nâu thật ngon, mỗi đứa bóc một con ăn thử. Ngon quá, thiếu chút gia vị, quan trọng là dầu dừa này chiên cũng ngon, mùi dừa không át mùi thức ăn.

Trong khi Mai trầm ngâm phân tích thì mấy con tôm đã bị tiêu diệt, a Phúc còn nhìn vào chảo đang chiên mấy con cá thèm thuồng.

- Ca đi hái dừa khô mang về làm thêm.

- Được,

An ca, Vĩnh ca đều đáp ứng.

- Tỷ, trưa nay tỷ thử hái rau muống xào ăn,

- Xào? Dùng dầu này?

- Phải, thay vì dùng mỡ heo, mình xài dầu này.

- Được,

Nghe hai tỷ nói chuyện, a Phúc híp mắt cười xen vào.

- Trưa nay chiên thêm cá được không?

Cúc tỷ vui vẻ nhéo lỗ mũi hắn.

- Háo ăn, đệ giúp tỷ làm cơm mới làm.

- Được, đệ làm là được.

Trưa nay, cha nương và Bình ca ăn cơm ở nhà tam Mi nên a Cúc chiều ý mấy em lấy dầu dừa chiên cá, xào rau. Lâu lắm mới ăn món chiên xào Mai ăn nhiều hơn, bụng no căng. Ba đứa con trai thì khỏi nói, thịt cá chiên qua dầu béo hơn, mấy miếng thịt nhỏ bị chiên giòn ăn ngon. Ăn xong, cũng không nghỉ trưa, a Phúc đi theo hai anh tìm hái dừa khô.

***

(1) Sạ là hình thức gieo giống trực tiếp lên ruộng.

Còn một dạng trồng lúa khác là chia cây lúa thành hai giai đoạn. Đầu tiên là gieo giống thật dày trên một khoảng đất tốt, cây lúa cao đến gần đầu gối thì nhổ lên (gọi là nhổ mạ) tách ra từng ‘tép’ cấy ra ruộng, mỗi tép khoảng 3-5 cây lúa, cấy theo hàng như bàn cờ, cách nhau khoảng ba tấc.Chương 29: Bồ kết và tóc mượnCúc tỷ vừa đan giày vừa trông chừng phơi trở lát. Mùa mưa trời lạnh, đan thêm chiếu, đệm tối đắp không lạnh. Mai hỏi giá chiếu bá mẫu trong chợ bán là tám văn chiếu đôi, bốn văn chiếu đơn. Chiếu trơn chưa được nhuộm, nếu nhuộm giá sẽ mắc hơn. Nhà nông ở đây, đàn bà con gái rãnh rỗi đều tự đan chiếu giỏ nhà mình xài.

Mặt trời không bị mây che nên ánh nắng rọi xuống mặt sông mênh mông ngoài xa. Ánh sánh lấp lánh dao động theo từng con sóng nhỏ. Tiếng chim kêu vang lên gần xa. Nương nói vịt trời, chim nước sắp về theo con nước. Mai không biết nhiều các loại chim, không biết ở đây có mấy loại chim lớn săn mồi không? Bên trong cánh rừng cũng có nhiều âm thanh của chim thú ‘sống dậy’ sau mấy tháng khô nóng.

Buổi tối ăn cơm cha nương nhìn mấy món ăn đều ngạc nhiên hỏi chiên xào bằng mỡ heo sao? Không phải, có mùi hơi khác. A Phúc nhanh miệng kể câu được câu không, mấy đứa nhỏ nói thêm mới hiểu. Thật không ngờ cơm dừa còn làm ra được dầu.

– Nương ăn ngon không? Có nghe mùi dừa không?

– Ngon, đúng là có nghe mùi dừa.

Nghe mấy đứa kể xong, ăn thêm thì nhận ra mùi cơm dừa khét, nếu không nói thì không nhận ra. Như vậy cũng tính là được, Mai nghĩ, dầu dừa cũng giống như cách lấy nước thốt nốt, không khó chỉ là mọi người không nghĩ muốn thay đổi, tìm tòi thôi. Nhà cô có thể làm dầu dừa bán kiếm ít tiền trong thời gian ngắn. Việc chính vẫn là trồng lúa, nuôi gà heo mới ổn định lâu dài, từ từ nghĩ cách kiếm tiền lâu dài, vững chắc hơn.

– Nương, nhà mình ăn được, chắc nhà khác cũng muốn ăn. Mình làm dầu này đem ra chợ bán giống bán đường được không?

Mai chưa kịp nghĩ xong, a An đã lên tiếng. Ngẫm nghĩ một hồi nương nói:

– Chắc được, mà đợi sạ lúa xong đã.

– Vậy mình cũng đừng nói bên ngoài biết cách làm, a Phúc?

– Đệ biết rồi.

Thấy Mai nhìn, hắn lập tức gật đầu. Mấy ngày sau đó, a An, a Vĩnh và A Phúc kéo nhau đi xung quanh hái dừa khô, có rất nhiều dừa mọc dọc theo rạch lớn, phía bờ sông cũng có. A Phúc không thể bơi qua con rạch nên chỉ ở bên này lượm dừa mang vào sân. Sáng chiều cha và Bình ca chặt tre làm ống đựng dầu. Người ta đi chợ ít mang theo bình, Mai muốn bán phải có sẵn ống tre đựng tiện dụng mới được.

Lúc sạ lúa đất nhà. Cha cũng sạ, lúc đầu không đều, từ từ cũng quen. Do đó ba mẫu ruộng có thêm cha, Bình ca làm nên nhanh hơn, đến xế ngày thứ ba đã xong. Cha nương thở phào nhẹ nhõm, hơn tháng nay chạy đua dựng nhà, làm cỏ ruộng, giờ sạ lúa xong rồi, còn lại chăm sóc và nhờ ơn ông trời nữa năm nay sẽ không lo đói.

Cha cũng không nghỉ ngơi mà xách dao chặt tre làm ống đựng dầu, đan thêm hai cái đυ.c cho a An, a Vĩnh đi bắt cá nữa.

Chiều nay có cha nương, Bình ca lột dừa, gọt vỏ nên làm rất nhanh. Hai bếp lửa liên tục nấu dầu, nấu cơm, nấu đường. Bếp đỏ rực làm nhà cửa ấm áp và vui tươi như niềm vui nhà Mai. (đọc chương mới nhất tại dienvan.space) Mấy ngày nữa mới đến chợ phiên, lần này Mai sẽ không đi chợ làng mà đi chợ Sông Lớn, Mai háo hức muốn đến xem chợ đó như thế nào, người ta sống ở chợ khác nhiều không.

Nắng trưa vàng nhạt giăng khắp nơi, nương nấu bồ kết gội đầu cho Cúc tỷ và Mai. Trái bồ kết khô, đem phơi nắng rồi ngâm trong nước nóng. Mỗi lần ngầm ba bốn trái, nước ngâm ra có màu nâu, mùi hương thoang thoảng. Tóc Mai dài quá vai, xuông mịn nhưng không dày như tóc nương và Cúc tỷ.

Mai ngồi trên ghế tre thấp, cúi đầu xuống, xoã tóc để nương thấm ướt bằng nước ấm. nương múc nước bồ kết lên tóc, vò, gãi nhè nhẹ, bồ kết không nhiều bọt chỉ làm sạch da đầu và tóc. Mai nhắm tịt mắt, nước bồ kết vô mắt sẽ làm đỏ mắt mấy ngày liền.

Cây bồ kết mọc tự nhiên trên đất gò, mội năm ra hoa kết quả. Không biết từ bao giờ người ở đây đã biết dùng trái bồ kết phơi khô, gội đầu dưỡng tóc.

Tóc Cúc tỷ đã dài đến thắt lưng, dày và đen như gỗ mun. Mai pha thêm nước ấm vào chậu, nhìn nương từ từ gội sạch từ chân đến ngọn tóc tỷ ấy. Nhìn mái tóc đen mượt của Cúc tỷ, không biết tóc đen hơn hay bồ kết đen hơn; đây mới đúng là mái tóc huyền.

– Nương, tóc tỷ bị chẻ ngọn nè.

– Ừ, tóc con cũng vậy. Vài hôm nữa nương cắt đuôi tóc cho.

Sau đó, hai chị em cùng giúp nương gội đầu. Tóc nương rất dài, từng sợi chắc khoẻ. Nương búi tóc theo kiểu phụ nhân nên sợi tóc uốn lượn theo nếp, không thẳng như tóc tỷ.

– Nương xem ngày tốt, cắt tóc mượn cho a Cúc.

– Nương, còn sớm mà.

Cúc tỷ thẹn thùng nói.

– Năm nay con mười sáu rồi. Năm ngoái bá mẫu đã cắt tóc mượn cho tam Mi rồi.

Con gái đến tuổi lấy chồng sẽ được người mẹ cho lọn tóc mượn để búi tóc trong lễ thành hôn (đọc chương mới nhất tại dienvan.space). Mẹ con cùng huyết thống nên tóc mẹ con cùng màu lúc búi lên không thấy khác, trang điểm cho cô gái thêm đoan trang dịu dàng.

Con gái rất quí tóc mượn của mẹ, cũng gội chải, chăm sóc tóc mượn rất chu đáo. Nương Mai cũng được bà ngoại cho lọn tóc mượn, được cất cẩn thận trong phòng. Thỉnh thoảng nương mang tóc mượn ra chải chuốt vuốt ve, chắc lúc đó nương nhớ ngoại. Hai năm rồi nương không về thăm ngoại, làm sao không nhớ chứ.

Chuyện cắt tóc mượn cho con gái cũng có nhiều kiêng cử và mỗi nhà mỗi cảnh. Ngoài việc phải xem ngày tốt để cắt ra thì người mẹ không thể cắt tóc trong lúc nhà có tang. Lúc vừa sanh đẻ hay đang bệnh cũng không thể cắt, người ta lo lắng mang điềm gở đến cho cô gái. Người mẹ cho con tóc mượn lúc sức khỏe tốt, mái tóc óng mượt như tơ.

Tuổi của nương Mai là độ tuổi sung mãn, tóc chắc khỏe mượt mà. Nhà Lưu bá mẫu có ba con gái, lẽ ra cắt tóc mượn cho tam Mi tỷ từ trước. Nhưng bá mẫu mới sanh ngũ Mi, nên đợi hơn hai năm mới dám cắt. Bà nội Mai lúc sanh ngũ cô đã hơi lớn tuổi, nên cũng tròn hai năm sau vội cắt tóc mượn cho cô. Lúc sanh tiếp lục cô, thất thúc bà nội còn lo lắng tóc mình không còn khỏe.

– Tóc con dày, nương cắt cỡ bốn tấc cho con. A Mai tóc mỏng, cần nhiều hơn.

– Dạ.

Nương vừa vuốt mái tóc dày mượt của a Cúc vừa nói.

Tóc mượn là tình thương của người mẹ cho con gái mang theo khi xuất giá. Cứ truyền từ đời này đến đời sau giống như huyết thống thâm tình chảy xuôi bao đời như câu nói xưa “Răng với tóc, là gốc con người”.Chương 30: Nhà ngoại phương xaBa mẹ con đang ngồi hong tóc bên cửa sổ thì trước nhà có tiếng ai đang gọi. Nhà Mai hình như chưa có khách đến. A Phúc đang ngồi chơi xếp hình trên sạp tre chạy ra trước. Lát sau nghe nhóc gọi lớn:

– Nương ơi, có nhị cửu tìm nương

Nhị cửu là ai a? Nhìn a Phúc gương mặt mờ mịt như Mai. Hắn cũng không biết nhị cửu là ai, chỉ nghe người đó xưng là nhị cửu rồi hỏi nương có ở nhà không.

Nương nghe thoáng giật mình, vội búi tóc rồi bước lên nhà trên.

– Ca, ca, sao ca đến đây được?

Mai và Cúc tỷ chạy lên thấy có ba người đứng ngoài cửa. Người đàn ông trung niên dáng dong dỏng cao, da trắng, gương mặt thon dài đang nhìn nương chăm chú. Giọng nói vừa nghiêm túc vừa đùa, đôi mắt đen sáng nhấp nháy niềm vui.

– Không mời ca vào nhà sao? Lâu quá không gặp quên nhị ca ta rồi?

Nương nghẹn ngào chưa hết xúc động, không nói lời nào.

– Chàng sao, tìm nhà cô ba hơi lâu, nếu không chiều hôm qua đã tới rồi.

Người đàn bà đi phía sau cười nói với nương, dáng bà thấp, gương mặt tròn, da cũng trắng sáng. Ngườu thứ ba là thiếu niên cỡ tuổi Vinh ca, khăn quấn đầu xanh nhạt rất sáng sủa; vai đeo túi vải lớn.

Một lúc sau khi mọi người ổn định thì câu chuyện cũng rõ hơn. Phiên chợ ngày nương gặp dì Lan xong mấy hôm sau dì Lan về thăm nhà mẹ đẻ dịp Tết Đoan Ngọ. Dì ấy đến nhà ngoại kể chuyện nhà Mai ra ở riêng ở Đông Hồ. Ông bà ngoại và nhị cửu lo lắng nhưng đang mùa sạ lúa, đành gác lại. Khi sạ lúa xong thì cậu mợ cùng Sinh ca hỏi thăm đường đến đây.

À, hôm đó gương mặt nương dàu dàu mấy ngày chắc là gặp dì Lan người cùng làng, nói chuyện ở nhà ngoại nên nương xúc động.

Mai không nhớ rõ người nhà ngoại, chỉ nghe kể là cậu hai rất thương cô, một phần là cậu hai không có con gái, một phần Mai rất giống cậu, đôi mắt hạnh, mũi thon, trán cao, dù gương mặt cô tròn trịa hơn nhưng từ các nét và thần thái rất giống. Cậu hai có bốn con trai, Sinh ca là lớn nhất, nghe nói đã đính hôn, sắp thành hôn rồi.

Từ lúc vào nhà, cậu hai đã kêu cô đến ngồi gần bên cậu, vừa nói chuyện vừa vuốt đầu tóc buộc vội lúc nãy. Cha và mấy ca ca đi theo a Phúc vào nhà chào hỏi cậu mợ.

– Cha nương đều khoẻ, ruộng cũng sạ lúa xong rồi. Trong đó mưa sớm hơn ở đây mấy ngày.

Mợ lấy trong túi vải hai xấp vải xanh, một xấp vải đen; còn có mấy gói bánh, mứt.

– Nương còn dặn mua ít thịt, gạo mang đến mà ta sợ tìm nhà cô dượng lâu, thịt hư. Gần đây có chợ không? Ra đó mua về cho mấy đứa nhỏ ăn.

Nương ôm ba xấp vải nghẹn ngào. Mợ hai nói tiếp:

– Hơn hai năm cô không về, dịp lễ tết nương không nói gì nhưng hay thở dài. Cô út thì hai ba tháng đến thăm một lần, nương cũng được an ủi.

Dì Út nhỏ tuổi hơn nương nhiều, mới lấy chồng hai năm trước. Dượng Út là người Tàu, làm nghề buôn bán khắp nơi miệt trong, miệt ngoài. Mai lẽ ra có thêm cậu tư em nương nhưng đã mất năm mười tuổi

Cha đã đóng xong bàn tre đặt nhà trên để dành tiếp khách, cha định dọn cơm trưa mời cậu ở bàn này nhưng cậu không chịu, nói:

– Người trong nhà không cần khách sáo, ngồi ăn chung đi. Ta ngồi ăn chung a Mai nhà ta.

A Phúc bĩu môi phụng phịu chạy đến gần Mai, cậu hai nhìn nhóc rồi cười nói:

– Còn a Phúc nhà ta nữa,

A Phúc lúc này mặt mày hớn hở, trời nhóc này ganh tỵ. Cả nhà cười trêu ghẹo nhóc. Ở nhà nội a Phúc được cưng nhất, nhưng mà ở nhà ngoại thì tình hình lại khác. Bà ngoại thương Cúc tỷ, còn cậu thương Mai làm hắn hơi ganh tỵ.

Bữa cơm trưa hôm nay có gỏi ngó sen tôm, cá sặc chiên giòn, cá lóc nấu canh khoai mỡ, cá rô kho tộ. Cậu mợ thấy món khoai mỡ, cá chiên dầu đều hỏi, còn hỏi vụ nương bán đường thốt nốt. Bà ngoại nghe nói nhà Mai tự làm đường cũng lo sợ, nên mới hối thúc cậu đến đây xem thế nào.

Nhà cậu nghe kể xong thì cũng đỡ lo.

– Dầu này ăn cũng được, muội bán thử xem, Nếu được thì bớt lấy nước thốt nốt, mùa mưa gió lớn cũng nguy hiểm, phải cẩn thận mới được.

– Ta biết, ca yên tâm.

Cha trả lời rồi kêu Bình ca ăn xong vào trong làng mua bình rượu gạo chiều nay mời cậu hai uống.

– Sáng mai đi chợ sớm rồi, ta không uống đâu, lỡ việc của ngươi.

– Mai ca ở nhà, ta mượn ghe ca chở nương a Cúc đi là được.

– Vậy cũng được, ta coi ruộng cho.

Nhà ngoại làm nông từ mấy chục năm nay, kinh nghiệm truyền mấy đời nên cậu nói chuyện làm ruộng rất rự tin.

Từ nhà Mai sẽ đi đò lên chợ như lần trước, giờ có ghe của cậu thì tốt hơn rồi, đỡ mấy đoạn đi bộ, chờ đò nên đường ngắn hơn. Lần này Mai nhờ phuu1c cậu rồ, không phải dậy sớm đi bộ như An ca hôm trước.

Hôm nay không ai ngủ trưa mà nghe cậu mợ nói chuyện nhà ngoại, chuyện trong phố. Nương và mợ hai nhỏ giọng nói ít chuyện nhà, thỉnh thoảng cũng nghe cậu nói mấy chuyện bên ngoài.

Nhà ngoại cách Trấn Giang (1) không xa, đi ghe gần một canh giờ là tới. Trấn Giang là nơi mua bán sầm uất nhất miệt trong. Mấy năm nay không còn loạn lạc, người đến người đi đông đúc. Cậu nói năm rồi có mấy nhà phú hộ ở Trấn Biên xuống xây nhà lớn mười mấy gian, bán vải vóc tơ lụa, nhà có xe ngựa rất to.

Còn có binh biến ở Cù Lao Phố (2) đã yên, người bại người thắng đều yên tĩnh, lui về ẩn dật nên dân đen như họ cũng yên ổn làm ăn.

Lần nữa nghe chuyện ở Trấn Biên làm Mai thêm chú ý, biết đâu có tin từ Gia Định. Mai muốn nghe kể về chuyện Gia Định Sài Gòn để thỏa nỗi nhớ trong lòng.

– Nghe dượng năm nói trên đó mấy năm này sẽ mua lúa gạo nhiều, giá gạo sẽ lên. Nhà dượng mua một ít cất giữ, cũng may giờ dượng có ruộng đỡ lo hơn rồi.

Cậu hai nói tiếp tình hình, còn nhắc cha chú ý giá gạo. Nương cất tiếng hỏi:

– Dượng năm chuyển sang bán gạo sao?

– Không, vẫn bán mấy món gia vị, trang sức. Nhưng người nhà bá bá của dượng ấy đi chành Trấn Biên. Một năm đi ba bốn chuyến, tin tức linh thông hơn chúng ta.

______________________________________________________________

(1): Trấn Giang là tên gọi trước đây của vùng Cần Thơ

(2): Cù Lao Phố là tên gọi trước đây của cù lao gần Biên HòaChương 31: Nhà sư và rắn hổĐang nói chuyện thì Bình ca cầm bình rượu đi nhanh vào.

– Cha, ở hào sen có người bị rắn cắn, là rắn hổ.

– Hả, có sao không? Người nhà ai?

– Con không biết, đang tìm trưởng làng cứu.

– Ta qua đó xem có giúp được gì không.

Cha nói xong mang giày đi nhanh về phía hào sen. Sáng nay a An, a Vĩnh đã đến đó hái ngó sen và đài sen, cũng may là không sao. Nghe rắn hổ, mấy đứa nhỏ vừa sợ hãi vừa muốn đến xem. Thấy người lớn trong nhà đi, tụi nhỏ đánh bạo đi theo, ra đường thấy phía nhà Lưu bá cũng đi ra.

Chỗ hào sen đã có một nhóm người ở đó vây quanh một cậu bé cỡ tuổi a An nằm trên đất dựa vào gốc cây, mắt nhắm chặt, thân thể hơi run rẩy chắc do sợ. Bên cạnh cậu có hai vị sư mặc cà sa nâu. Vị sư lớn tuổi hơn đang cúi người trên vết cắn trên đầu gối. Ống quần bị cắt rách, phía trên vết cắn có khăn vải buột lại.

– Ta nặn độc ra, sẽ hơi đau, tiểu thí chủ cố gắng chịu đựng

Vị sư nói chưa hết câu đã dùng mũi dao rạch lên vết cắn, dùng tay nặn máu xung quanh ra.

– Đừng cử động, thả lỏng chân, sẽ không sao đâu.

Cậu bé vẫn run rẩy, mở miệng muốn nói không ra lời, quơ quơ tay. Người đàn ông bên cạnh bắt lấy tay cậu, an ủi.

– Không sao, Tùng nhi đừng sợ. Sư ông sẽ nặn độc ra, đừng sợ.

An ủi cậu nhưng gương mặt ông cũng lo lắng, chân tay dính đầy bùn. Máu đen ở vết thương được nặn từng chút một, khi máu trở lại màu đỏ thì sư ông ngừng. Vị sư trẻ hơn mới đưa bã lá cây do ông lấy cán dao nghiền nhỏ đắp vào vết cắn, nước nghiền đưa cho người đàn ông.

– Cho tiểu thí chủ uống.

– Rắn này rất độc, thí chủ làm cán khiêng vào trong tịnh xá tạm trước. Khi lang y đến khám, bốc thuốc rồi về nhà.

– Dạ, dạ. Tạ ơn sư ông.

Mọi người nghe sư ông nói thì tản ra cùng nhau chặt cây làm cán. A Vĩnh kéo tay Mai chỉ mô đất phía cuối ao sen.

– Thấy không? Con rắn đó.

Ôi trời!

Mai hít sâu run run, con rắn to, khoanh đen khoanh trắng, bị đập dập xương sống nằm vặn vẹo trên đất, cái đầu vẫn còn bị cục đá đập lên, chắc sau khi bị đánh gãy xương sống thì bị đập đầu. Mấy đứa nhỏ lấm lét nhìn con rắn, lúc nó mổ Tùng ca chắc dễ sợ lắm.

Khuất sau lùm cây lớn là gò đất cao, là tịnh xá của sư ông. Tịnh xá là gian nhà tường gạch cũ kỹ. (đọc chương mới nhất tại dienvan.space) Mấy cây cột gỗ rất to, đen bóng loáng. Sư ông đi trước dẫn người khiêng cán vào sân sau có hai gian nhà, gian ngoài là phòng khách nhỏ có cái sạp tre mới, còn thơm mùi tre tươi.

– Hôm qua sự đệ ta ở Lũng Kỳ đến tá túc mấy ngày.

Sư ông giới thiệu vị sư trẻ tuổi hơn người Chân Lạp. Vị sư trẻ hơn nghe sư ông nói thì chắp tay hướng mọi người nói A Di Đà Phật.

– Đặt tiểu thí chủ xuống đây.

Thấy sư ông sắp xếp ổn rồi nên mọi người chào ra về. Trên đường về nương kéo tay Mai dặn:

– Sau này không được ra hào sen nữa,

– Cũng may có Nguyễn huynh đi cùng, nếu một mình a Tùng đi sẽ không kịp cứu.

Mai nghĩ sư ông biết y thuật, xử lý vết thương rất tốt.

– Cha, thuốc đắp vết cắn là cây gì vậy? Gần đây có không?

A Vĩnh hỏi cha.

– Ta nhìn trong sân sau tịnh xá có mấy cây cỏ nghể, chắc là dùng nó, còn phải uống thêm hai ngày nữa mới mong khỏi.

Cậu hai nghe Vĩnh ca hỏi thì xoay sang trả lời. “Cậu cũng có kinh nghiệm trị rắn cắn, chút về nhà hỏi kỹ mới được” Mai nghĩ bụng.

Chuyện a Tùng và con rắn hổ làm mấy đứa nhỏ quấn theo cậu hai đòi nghe kể chuyện.

– Con rắn đó là rắn hổ đất, nó sống trong hang ở mấy gò đất cao, thích nhất ăn chuột đồng. Bị nó cắn trong mấy canh giờ là không thở được, nói mê. Có người trị được nhưng cũng bị liệt một bên mặt, miệng méo rất khó coi.

Nghe cậu nói mấy đứa nhỏ đều sợ. Cậu nói tiếp:

– Nó cũng sợ người mình lắm, đừng lại gần nó quá. Nhớ là không lấy đòn gánh dẹp đánh nó, nó sẽ luồn theo mổ mình; phải dùng cây tròn quất ngay cổ xương sống nó.

Cậu kể thêm chuyện nghe được ở miệt trong khi nước nổi. Có năm nước dâng cao gần đến nóc nhà, nhà nào không có ghe phải trèo lên nóc tránh. Rắn cũng trốn lên đó tìm chỗ tránh, người và rắn ở chung mấy ngày đêm.

Cậu nói người Chân Lạp biết cách dạy rắn, có nơi người ta nuôi rắn trong nhà, cung cấp chuột ếch cho chúng ăn. Họ tin tưởng rắn mang đến may mắn, sự sống và là thần bảo vệ cho họ.

Mai nhìn gương mặt thon dài của cậu, tóc búi cao lộ ra vầng trán cao, cậu kiên nhẫn kể chuyện cho mấy đứa nhỏ, giọng trầm trầm chậm rãi, đôi khi dùng tay minh hoạ con rắn chọt nách a Phúc làm hắn ré lên.

– Chàng kể nữa tối nay mấy đứa ngủ mớ cho coi.

Mợ cùng nương canh bếp dầu chen vào nhắc, gương mặt bà tròn rất phúc hậu, hiền hòa. Mai để ý cậu mợ rất hài hòa, mợ luôn để ý chăm sóc cho cậu.

Chờ mát trời cậu và Sinh ca theo cha ra ruộng. Lúa đã lên xanh mướt, dập dờn theo ngọn gió, như mang theo niềm vui của người nông dân. Cậu nói cha nghe mấy chuyện cần chú ý.

– Để ý đuổi chim chuột, phát hết cỏ gần bờ.

Lưu bá mẫu ôm ngũ Mi sang chơi, trò chuyện một chút rồi về, mợ gói mấy cái bánh, mứt để ngũ Mi cầm về. Có loại bánh bột gạo giống như bánh in ở hiện đại, ngọt ngọt làm mấy đứa con nít rất thích.

Hôm trước nhà Mai cũng chỉ cách làm dầu dừa và dặn bá mẫu không nói ra ngoài, chỉ nói là dầu thực vật. Thực vật là từ mới Mai nói với người nhà, ý chỉ là cây xanh có thể ăn được, nghe từ mới cả nhà cũng thấy lạ nên nói theo.Chương 32: Giấc mộng giữa đêmMai đang tính xem ngày mai bán dầu như thế nào, người ta luôn nghi ngờ, lo ngại với những cái mới. Làm sao để cho họ biết là dầu này ăn được và có thể dùng thế mỡ heo giá mắc.

A An và a Phúc mang rổ tôm bạc vào, mùa này tôm mới ‘dại’nên không lớn, có rất nhiều ở mấy con rạch nhỏ quanh ruộng. A An ướp tôm với nước mắm, chút đường, ít ớt, như vậy lúc chiên tôm sẽ mặn mặn cay cay ăn ngon hơn.

A, có cách rồi. Mai ngồi xuống chỗ nương nói cách bán dầu, mọi người nghe xong gật gật.

– Giống như lần trước cho người ta ăn đường thử vậy.

– Ta thấy cách này được, đem theo bếp, củi, tôm nữa.

Mợ nói xong xoay qua nhéo má Mai, cười nói:

– A Mai về nhà ngoại làm con cậu mợ đi ha, có con gái sướиɠ hơn.

– Cậu mợ chỉ biết thương a Mai thôi,

Cúc tỷ giả vờ bĩu môi nói.

– Con gái sắp lấy chồng mà còn nhõng nhẽo,

– A, mợ nói gì vậy.

Cúc tỷ làm sao ‘chống đỡ’ được mợ trêu ghẹo, ôm chậu gạo chạy ra ngoài, cả nhà cười ha ha chọc theo.

Tối hôm đó Mai ngủ đến nửa đêm bị ác mộng làm tỉnh giấc, tay chân bất động, cảm giác ngực bị đè nặng không thở được. Mợ nói đúng, Mai mơ thấy mình chui vào một cái hang tránh nước lũ thì gặp con rắn rất lớn, hình như hang này là nhà của nó.

Cô đi vào làm nó rất giận dữ. Thân nó dựng cao ngang đầu Mai, từ cổ xuống là những khoanh đen, khoanh trắng, lóng lánh ánh bạc lạnh lẽo. Cái lưỡi dài chẻ đôi le le, mang nó bạnh như hai cái quạt, vừa sắc bén vừa mượt mà thật hút mắt.

Nó ‘nhìn’ Mai, đầu lắc lư, tiếng gió hút từ phía trong hang động tối tăm nghe rợn người. Cùng với hơi thở rít lên từ miệng con rắn, mùi rất tanh nồng. Hình như không phải chỉ có một tiếng hít thở của nó, còn con khác sao?

Như trả lời suy nghĩ của cô, từ từ hiện ra từng thân rắn dựng lên hai, ba, bốn, năm,….

Trời ơi!.

Những cái lưỡi le ra thụt vào, những cái đầu đung đưa như theo một nhịp điệu huyền bí nào đó. Không phải nói là rắn thích đơn độc, bọn chúng không sống bầy đàn. Mỗi hang chỉ có một hoặc hai con vào mùa tìm bạn tình sao?

Con đầu tiên chuẩn bị vồ tới thì Mai giật mình tỉnh giấc.

Đêm nay mười ba, trăng đã tròn chiếu sáng dìu dặt bên ngoài. Mai điều hoà hơi thở, cảm giác cô đơn tràn đến khiến Mai rơi nước mắt. Giờ này ba mẹ ở đâu, có khoẻ mạnh không? Con ở đây khoẻ, con sẽ vượt qua được, sẽ sống tốt.

Cúc tỷ xoay người quàng tay qua hông Mai vỗ vỗ.

– Sao vậy, ngủ mơ thấy gì?

– Ưm,

– Không sao, mơ thôi, không sợ.

Lát sau hai chị em chìm vào giấc ngủ, trên trời mấy vì sao nhấp nháy nhấp nháy trong vũ trụ bao la.

Ghe của cậu dài cỡ tám thước, có mui bằng lá che ở giữa, cậu ôm Mai đi theo hai ván gỗ vào trong mui. Hôm trước thấy cha rãnh rỗi, Mai nói cha làm cầu gỗ này để khi đi xuống ghe không phải lội sình. Lúc đóng cọc gỗ phải nhờ Lưu bá và Tương huynh qua phụ. Làm xong, Lưu bá khen rối rít, nói cách này hay, thế là kéo qua nhà bá ấy chọn chỗ đất cứng không sạt lỡ làm một cái. Bình thường không có ghe đậu thì ra múc nước, giặt đồ cũng tiện.

Nếu không phải Mai năn nỉ muốn đi chợ Sông Lớn thì cậu không cho cô đi, cậu nói cô còn nhỏ, thức dậy sớm, đi cả ngày rất mệt nhọc.

Cha kêu ba mẹ con vô ngủ tiếp, một mình cha chèo đi, đi ghe thuận lợi ở điểm này. Nương khoát thêm áo, quấn chặt khăn đầu cho cha rồi vào mui với hai đứa. Mờ sáng Mai thức dậy thì thấy nương đã thay cha chèo, cha và An ca đang ăn cơm. Cơm ủ trong nồi vẫn còn nóng, ăn với cá kho, rau muống luộc. Mai uống chén nước ấm trong bình rồi ra ngoài nhìn xung quanh.

Ghe đang xuôi dòng dọc theo con sông nhỏ, hai bên bờ cây cối, nhìn không rõ là cây gì. Cách mấy trăm thước cũng thấy dáng một chiếc ghe khác, gió thổi nhẹ nhưng sương làm không khí ẩm ướt thấm vào người rất lạnh.

Mai đang mặc quần dài, áo yếm lót, áo trong và áo ngoài mà vẫn lạnh. Áo trong không có cổ, hàng nút áo nhỏ và dây buộc bên tay phải, áo ngoài thì tay áo dài, cổ tay áo rộng, cổ áo cao có nàng nút lớn làm kiểu cũng nằm bên tay phải. Áo trong chỉ dài qua eo còn áo ngoài dài qua đầu gối.

Nương hay dạy Cúc tỷ cách làm các kiểu nút áo, con gái khéo tay hay không thì nhìn nút áo là biết. Nương và Cúc tỷ có may thêm đai đeo thắt lưng trên áo, thắt lưng được may tỉ mỉ, thêu hoa rất đẹp. Nhưng chỉ đeo thắt lưng trong mấy dịp Lễ Tết hoặc đi làm khách, ngày thường ít người mang thắt lưng điệu đà.

Ăn cơm xong, An ca rửa chén đũa bằng nước sông rồi úp lên rổ tre.

– Nàng vào ăn cơm với a Mai đi.

– Chút nữa, đến đoạn sông lớn thì chàng chèo, chàng vô trong nằm nghỉ chút. A Mai đói bụng ăn cơm đi con, không cần chờ nương.

– Con chưa đói, chờ nương ăn chung.

Cha khum lưng chui vào mui, Mai thấy lạnh cũng chui vào, An ca ngồi nhìn mông lung hai bên bờ. Cha kéo hắn vào trong luôn.

– Con nằm đi, đến đoạn sông lớn cha dạy con chèo.

Tiếng mái chèo khua nước, nước ì oạp vỗ bờ như điệu ru buồn, chiếc ghe phía sau chèo nhanh hơn đến ngang ghe nhà Mai thì giảm nhịp, có tiếng phụ nữ hỏi:

– Tẩu đi chợ Sông Lớn?

– Phải, tẩu cũng đi?

– Phải, ta ở làng Thạch

Hai người vừa chèo vừa nói chuyện, tiếng nói chuyện làm không gian sinh động hẳn lên. Chắc người đàn bà gọi là Bô Pha (1) thấy buồn ngủ nên mới bắt chuyện.

Trời dần sáng, hình như sắp đến khúc quanh ra sông lớn nên nương gác chèo lay cha dậy. An ca và Mai cũng thức dậy. Mai rót chén nước ấm cho nương, qua lại dọn chén đũa ăn cơm. Giờ này ăn cơm hơi sớm hơn mọi ngày nhưng từ khuya giờ thức dậy mấy lần cũng đói nên ăn rất ngon.

Ghe của thím Bô Pha đã vượt lên trước, người đàn ông đang chèo cùng với con trai lớn cỡ Vinh ca, nhìn rất khoẻ mạnh. Cha đang dạy An ca cách phối hợp nhịp nhàng khi hai người cùng chèo. (đọc chương mới nhất tại dienvan.space) Chỉ ca chú ý nhìn dòng nước để mũi thuyền không cản nước mà nương theo con nước sẽ đỡ mệt sức. Đúng là nghề nào cũng có trạng nguyên, chèo ghe cũng không phải chỉ ngoáy ngoáy là được.

Lúc khuya không thấy rõ, hàng cây rậm rạp hai bờ là cây đước, rễ vươn khỏi mặt nước mấy thước. Mùa này cây đước đang ra hoa, mấy cánh hoa nâu vàng rải rác trên nền lá xanh. Sương sớm lượn lờ làm khung cảnh như mờ ảo.

Đến ngã ba ra sông Giang thành, gió thổi l*иg lộng, vài tia nắng lấp lánh trên ngọn cây cao. Dòng nước chảy hơi xiết ngay khúc quanh rồi lại hiền hoà lững lờ trôi tiếp. Trên sông có mấy ghe lớn đi từ phía bờ Tô Châu qua. Ghe nhỏ như Mai sẽ đi len trong các con rạch lớn, quãng đường xa hơn nhưng an toàn.

________________________________________________

(1): tên phụ nữ Chân Lạp xưa, nghĩa là bông hoaChương 33: Chợ sông lớnQua khỏi ngã ba một đoạn rẽ vào là đến bến chợ, từ hai hướng khác cũng có ghe xuồng cập bến. Nương ra giúp cha cập vào bờ, An ca mang đồ ra mũi ghe. Ghe vào sau cập sát ghe trước, rồi mọi người bước qua hàng dài ghe chòng chành đi vào. Mai chưa đi quen và bước chân cô nhỏ nên lúc bước qua khe hở giữa hai ghe chới với. Cha nắm tay cho cô đứng vững.

– Lên cha cõng.

Mai nhìn cha đang vác túi đường nặng trịch nên lắc đầu.

– Cha đi trước đi, con đi chậm là được.

Chưa nói xong cô nghe tiếng phì cười, nhìn phía sau có thằng nhóc lùn hơn cô đang nhanh nhẹn nhảy qua từng chiếc ghe. Nhóc con không mang giày, hai bàn chân đen chắc nịch. Hừ, vái cho ngươi đạp trúng dằm gỗ thốn chân! Cô lầm bầm trong miệng, né qua cho nó đi trước.

Phía ngoài bờ sông bán gạo, cá, tôm sống; khoảng đất trống lớn bên trong người bán ngồi thành từng nhóm. Trong chợ có mười mấy gian nhà, họ đặt sạp bán hàng trước cửa, người từ nơi khác đến thì cứ chọn chỗ trống mà bày hàng. Nương và An ca quen thuộc đi thẳng đến góc cây to. An ca nhặt mấy cục đá kê lên cao, đăt rổ tre lên rồi xếp đường ra. Cha và nương lo đặt và nhóm bếp.

Mai nhìn ngó xung quanh, ở đây họp chợ trễ hơn chợ làng, chắc nhiều người từ xa đến. Mặt trời đã lên nhưng người chưa đông lắm. Nghe nương nói phía trong cách chợ một khoảng có hai ngôi làng lớn có vài nhà bán tạp hoá, có nhà bán đường nữa.

Thấy cha nhóm bếp có hai thím hiếu kỳ đứng xem. Mai lấy bình to đựng dầu rót một ít ra chén, giới thiệu.

– Thím xem, mỡ thực vật này chiên tôm, xào rau rất ngon, như chiên bằng mỡ heo vậy. Thím chờ chút nương cháu chiên liền, rất nhanh.

Nương cho một ít dầu vào, đợi nóng thì cho rau muống vào xào, nêm nếm gia vị, chín cho ra dĩa. Mai lấy đôi đũa:

– Thím ăn thử đi, rất ngon, béo còn thơm,

Mai tự gắp cho mình ăn trước, rồi mới đưa đôi đũa khác cho thím đó. Bà thấy rau xào xanh um, bóng loáng dầu, mùi dầu và gia vị thơm thơm cũng gắp ăn thử.

– Ngon phải không thím, mỡ thực vật này nhà cháu tự làm, ăn ngon mà rẻ nữa.

Lúc Mai đang bán bên này thì nương đã chiên thêm mấy con tôm, cô gắp con tôm được lột vỏ ướp gia vị hồng hồng thơm thơm mời.

– Mỡ này mua về để lâu được, ở nhà thím ướp gia vị tôm cá xong, chiên ăn còn ngon hơn nhà cháu làm nữa.

An ca liếc Mai đang ba hoa, lột vỏ khối đường mẫu ra.

– Thím xem đường nhà con làm đi, rất ngọt đó.

Cô nhanh tay cắt miếng đường,

– Không cần, lần trước ta mua đường nhà cháu rồi.

– A, vậy … cảm ơn thím.

– Dầu bán nhiêu tiền?

A, chờ câu hỏi này đây.

– Một ống tre như vậy là 15 văn, một ống này ăn được một đến hai tháng, chiên cá, xào rau đều ngon.

Giá này là ở nhà đã tính toán, cần ba trái dừa mới nấu được một ống, giá mỡ heo là ba mươi văn thắn ra một chén mỡ, gần một nửa ống. Nên giá này là hợp lý, nếu 15 bán không được sẽ giảm 12 văn, rẻ hơn thì Mai không muốn bán, đi chợ xa rất vất vả đó.

Mùi tôm chiên, rau xào thu hút thêm hai mẹ con đến xem. A, đứa nhỏ này là khách mà Mai đang cần. Mai gắp một con tôm cho đứa bé, nó há miệng ăn rồi đòi thêm một con nữa.

– Thím mua mỡ thực vật này về chiên tôm cá cho đệ đệ ăn, rất ngon, mau lớn nữa.

An ca nói rất hay, Mai muốn đưa ngón cái khen ngợi!

– Thím mua một ống.

Người mẹ nào nghe nói con mau lớn mà không thích, quyết định rất nhanh. Thím đầu tiên chẳng những mua dầu mà còn mua thêm đường.

Bếp lửa ấm áp, mùi thức ăn nóng toả ra thu hút giác quan con người. Lúc đầu ai cũng thấy lạ cái gì là mỡ thực vật, ăn vào thì có vị béo, không béo như mỡ heo nhưng cũng thay đổi khẩu vị.

Có một tỷ muốn mua một nửa ống, nương chiều ý bán nửa giá 8 văn. Lần sau làm mấy ống nhỏ hơn, bán nhanh hơn, dù sao xung quanh đa số là nhà nghèo như nhà Mai vậy.

Nói đa số vì hôm trước nghe mấy thím trong chợ nói nhà Hồ phú hộ làng bên rất giàu, nhà có hơn trăm mẫu ruộng, có người hầu. Nhà chú Nguyễn cha Tùng ca cũng khá giả, nhìn quần áo ca ấy mặc là biết. Chỗ nhà ông bà ngoại cũng có nhiều phú hộ, miệt trong không loạn lạc, không giặc cướp, người dân định cư lâu đời, tích luỹ được của cải nên đời sống sẽ giàu có, sung túc.

Nương muốn mua ít thịt về đãi cậu mợ và cho mấy đứa nhỏ đổi món nên để quầy hàng cho cha và An ca bán, dắt theo Mai đi xem các sạp bán thịt. Có một sạp bán thịt heo, một sạp bán gà rừng, chồn săn được từ trên núi. Thịt heo năm văn một lạng (1), một cân tám mươi văn (2), mỡ heo và xương rẻ hơn. Nương mua một cân thịt ba chỉ và một cân xương sườn, thêm tiêu hạt.

– Nương định nấu món gì?

– Nương đổ bánh xèo, cậu hai con thích ăn bánh xèo, bà ngoại cũng thích. Xương heo nấu canh đu đủ rất ngọt.

– A, lâu rồi không ăn bánh xèo,

Mai cười hớn hở ôm rổ đựng thịt đi trước. Nguyễn thị nhìn con gái vui vẻ cũng cười, cũng không thể để con nhịn miệng, ráng làm thêm đường và dầu mua cho mấy đứa nhỏ thịt, vải may quần áo nữa.

Mai nhìn hạt tiêu khô sần sùi hỏi:

– Nương ơi, hạt tiêu có trồng được không? Sao nhà mình không trồng?

– Dây tiêu khó trồng, ngập nước nó chết, mà nó hay bị mốc hạt không ăn được.

À, mấy hôm nay Mai tự khoanh một khoảng đất ở cuối vườn, cô thấy cây nào có thể làm thuốc, gia vị hay nhìn quen quen mọc dại xung quanh thì đều đào gốc mang về trồng. Lúc trước cô có xem mấy sách về cây thuốc nam nhưng chỉ nhìn hình, không thấy cây thực nên không biết rõ lắm, cô nghĩ mình cứ trồng rồi từ từ vừa nhớ lại vừa tìm hiểu ở cửa hiệu thuốc. Dù sao cô còn nhỏ cha nương chỉ bảo ở nhà phụ a Cúc làm việc vặt, ngoài đồng không cần cô.Chương 34: Chuyện làng xóm đông hồKhoảng giờ tỵ thì chợ tan, đường bán hết, dầu còn lại hơn hai ống tre, như vậy là tốt rồi, khi người ta dùng quen sẽ mua tiếp. Lui ghe ra ngoài, cha nương đều chèo, giờ là ngược dòng nên sẽ mệt hơn. Lần trước nương và An ca đi đò chú Bàng ở bên kia sông phải chờ đến đầu giờ ngọ, nước đứng mới về.

Các nhà khác cũng lần lượt ra về, nhà thím Bô Pha rất vui vẻ, chắc bán được giá. Chú Chau Rui làm thợ mộc nhưng không phải dựng nhà, đóng tủ bàn ghế mà thúc ấy làm mấy món đồ mộc nhỏ như chày, cối, chén, bình trà hoặc mấy đồ trang sức trâm, lược, vòng tay. (đọc chương mới tại dienvan.space) Sáng nay mấy bà mấy cô đều xem mấy món được bày bán, gỗ mài bóng loáng, nhẵn mịn thật công phu, thật khéo léo.

Bữa cơm trưa ăn trên ghe gió thổi mát rượi, đàn ong bu quanh bông đước, mấy con cò trắng chân khẳng khiu cao nhòng sục cái mỏ dài xuống lớp đất bùn tìm thức ăn. Mấy con khác nhỏ hơn thì tìm thức ăn dưới gốc đước. Có đoạn đi qua một khoảng đất rộng mênh mông đang trồng lúa, lúa sạ hơn mười ngày đã lên cây mạ non, lá xanh biếc.

– Đồng này là của ông phú hộ Hồ Tảng, kéo dài xuống chợ Ba Nhỏ. Mấy năm trúng mùa lúa không có chỗ phơi đó.

Thấy Mai và An ca nhìn, thím Bô Pha bên kia giải thích.

– Có thuê người làm không?

Nương hỏi thăm.

– Có, nhà phú hộ có ba trai một gái làm sao làm hết. Mấy hôm trước thuê người sạ lúa nữa. Mùa gặt chắc phải thuê rồi.

Nhìn xa xa thấy gian nhà lớn, mái ngói đỏ thấp thoáng bị che mất bởi mấy cây cau, thốt nốt cao chót vót.

– Trong nhà có cặp ngà voi với hai bức liễn gỗ khắc đẹp, chắc thợ trên kinh làm.

Chú Chau Rui nói như than thở, ngưỡng mộ. Hai bức liễn chắc rất đặc sắc nên chú ấy mới vừa khen vừa ganh tỵ.

– Chú có chạm đồ cho nhà phú hộ đó sao?

Đường dài có người kể chuyện nghe cũng thích.

– Có, lần đó kêu ta làm bộ chén muỗng gỗ hương sáu cái, mất gần tháng mới xong.

Chuyện này nối tiếp chuyện kia, đến gần chợ nhỏ thì hai ghe tách ra. Mai chui vào mui:

– Nương, để An ca tính tiền đi. Ca ấy đếm nhanh lắm, ha ha.

Lúc dạy làm toán, tính tiền quả thật An ca nhanh nhất, lúc đầu còn dùng que tre, bây giờ thì một hai trăm văn đều tính nhẩm đươc.

A An thấy nương cười nên vào mui đổ túi tiền ra rổ, hắn đếm, xâu lại thành xâu, tính tính rồi hỏi:

– Nương mua thịt hết một tram năm mươi văn sao?

– Ừ,

– Vậy hôm nay nhà mình còn ba trăm hai mươi tám văn.

– Ghe như này giá bao nhiêu cha?

Mai nghĩ nghĩ hỏi, nếu nhà mình có ghe thì tốt biết mấy, sẽ đỡ vất vả hơn nhiều.

– Hơn hai mươi quan (1), người ta mới đóng.

A, theo Mai tính nhẩm mấy lần bán đường và tiền hôm nay, nhà mình có khoảng sáu quan, còn thiếu nhiều.

Qua giờ ngọ đã đến nhà, ở nhà có cậu mợ nên cha nương yên tâm, không lo lắng trong nhà không có người lớn.

Vừa buộc ghe xong a Phúc đã chạy ra.

– Cha nương sao giờ mới về. Con chờ lâu quá.

Nương mỉm cười vuốt đầu hắn,

– Mợ hai mua con gà trống to, nấu cháo, làm thịt kho nữa.

Đúng là ‘Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ’. An ca nháy mắt với Mai, cười trêu hắn.

– Ca thèm đùi gà quá, chút ca một cái, a Mai một cái, sáng giờ đi chợ đói bụng ghê!

A Phúc nghe vậy thì xịu mặt xuống, nhìn An ca, nhìn Mai.

– Vậy đệ, đệ, … ăn nhiều nhiều, nhóc nhăn mặt nghĩ xem chỗ nào nhiều thịt nhất.

An ca ôm nhóc đi vào nhà cười ha ha.

– Được, hôm nay cho a Phúc ăn nhiều thịt gà còn có nhiều thịt heo nữa,

– Thật?

– Đương nhiên rồi.

Cậu hai và Bình ca đang lột vỏ dừa khô, mợ và Cúc tỷ thì đang nấu nướng, dọn chén đũa trên sạp tre.

– Đang chờ mọi người về ăn cơm đây,

Cậu nghe tiếng nói An ca và a Phúc bước ra nói.

– Ca, sao không ăn trước.

– Về cùng ăn luôn, không sao.

Nương mang thịt ra bếp hỏi:

– Ta có mua thịt heo, định đổ bánh xèo, tẩu thấy sao?

– Hay để ngày mai đổ, hôm nay ăn thị gà đi, đã nấu xong rồi.

– Được, ăn xong ngâm gạo, đậu cũng kịp.

Ăn trưa trễ cộng với thức ăn ngon, ai cũng ăn nhiều hơn một chút, nói cười vui vẻ.

– Lúc sáng ta cũng tìm mua thịt heo mà không có, có hai nhà cũng muốn mua cúng gác Đòn Đông. Nghe nói mới dọn vào đây dựng nhà, từ từ ở đây sẽ đông đúc.

Mợ hai kể chuyện lúc sáng nghe ở chợ.

– Trên đường vô đây ca cũng nghe nói phía Lũng Kỳ, Tà Ten có nhà dời về đây, về ở làng Thạch.

Cậu hai góp lời, nghe nói gọi là làng Thạch vì làng đó dựa vào núi đá, dân cư đa số làm nghề chạm khắc đá. Chú Chau Rui cũng biết đυ.c đá, nhưng chú thích chạm gỗ hơn.

Buổi chiều người lớn ra ruộng dặm lúa. Hôm trước mưa to làm khoảng đất trũng ngập nước, lúa mới gieo mầm không chịu được úng nên chết, cậu hai chỉ cha cách tỉa chỗ lúa mọc dày sang cấy mấy chỗ thưa hoặc chết.

Mấy đứa nhỏ cũng không ở nhà mà theo ra ruộng bắt ốc, có con ốc mang bọc trứng to hơn cả nó bu theo mấy bụi cây quanh bờ ruộng hoặc mấy chỗ ẩm ướt. Cậu hai còn chỉ cách làm bẫy vịt trời, cò nước. Nhưng vịt trời và cò nước thích nhất là kiếm ăn ở ven sông bãi bùn, trong ruộng có chim bìm bịp, chim cu nhỏ hơn, thịt không bao nhiêu.

Ven vũng Đông Hồ có mấy bãi đất bồi, cò vạc, vịt nước về rất nhiều. Chỉ là lớp bùn dày đi lún xuống tới đùi. Cha nương chỉ cho Bình ca xuống, mấy đứa nhỏ không được đi.

___________________________________________

(1): đơn vị tiền xưa: 1 tiền = 36 văn, 1 quan = 10 tiền = 360 văn. Tiền kẽm hoặc tiền đồng là chính. Có thỏi bạc 2 quan, 5 quan, 10 quan. Vàng nén có 1 nén là 50 quan, 1 nén 100 quan.Chương 35: Có tiền vốn rồi!Tam Mi tỷ ôm rổ tre băng ruộng qua đây đưa cho nương.

– Ông nội cháu gửi vô mấy con mực, cá. Nương kêu mang cho thím, xào mực tươi ăn.

– Được, nói thím cám ơn nương, sáng mai nhà thím đổ bánh xèo, nương cháu qua phụ một tay. Cha cháu thì để Lê thúc cháu mời.

– Dạ, cảm ơn thím, con về nấu cơm chiều.

– Con về đi.

Trong rổ là hai con mực lớn cỡ hai bàn tay mới bắt được tối qua, nan còn chưa lấy ra, thân mực dày gần bằng lóng tay, con mực này làm món gì cũng ngon.

Bên kia rừng trời dần tối, mây đen kéo đến, mong trời mưa nhỏ, lâm râm thôi nếu không mấy cây lúa vừa dặm sẽ trôi gốc hết, mất công làm cả buổi chiều.

Mai vừa nghĩ bụng vừa chạy, cái gì gọi là bị mưa đuổi chứ! Mưa từ phía rừng ào đến, a Phúc vừa chạy vừa cười hắc hắc khoái chí. Mấy con chim, cò cũng cất cánh bay vυ't đi. Mấy hôm mưa chiều chưa kịp lấy nước thốt nốt là cha cằn nhằn ông trời. Trời tối nương không cho cha đi leo cây thốt nốt, lỡ trượt chân nguy hiểm.

Bên ngoài trời mưa lạnh lẽo, trong nhà bếp lửa reo tí tách, không nấu đường thì nấu dầu dừa, tuy là sáng nay bán không hết nhưng món ăn lạ cần để người ta ăn thử từ từ mới có nhiều người mua. Cậu nói làm nhiều nhiều cậu mang về ngoại bán giúp, bán được sẽ nhắn người vào lấy thêm. Đường cũng vậy, mấy ngày này làm bao nhiêu cậu sẽ mang đi bấy nhiêu.

Sáng hôm sau, cha qua nhà Lưu bá mời cả nhà qua ăn trưa là bánh xèo nhưng tôm thịt. Bột gạo, đậu xanh ngâm qua đêm đã mềm, bột gạo giã nhuyễn lọc qua vải thêm ít bột nghệ, muối, đường làm vỏ bánh; nhưng bánh là đậu xanh hạt đã nấu chín, thịt cắt lát mỏng, tôm; ăn với rau rừng và mấy ngọn cóc non chua chua.

– Hôm trước nhà ngoại a Tương qua hỏi nhà ta có muốn đi chành Long Hồ không, haiz,… để chàng đi thì trong nhà không có nam nhân, để a Tương đi thì vất vả quá.

Nhà ngoại Tương huynh phía trong làng, đi chợ ngang qua Vĩnh ca có chỉ Mai thấy. Chính vì vậy khi Lưu bá ra ở riêng thì chuyển vào đây có người giúp đỡ. Nhà ngoại Tương huynh có ghe lớn hay vận chuyển lương thực đi các nơi bán, có khi là chở thuê nên cần người khoẻ mạnh theo khuân vác, chèo ghe. Nghe nói mỗi chuyến đi cũng kiếm được nhiều tiền. Tương huynh mười bảy tuổi, khoẻ mạnh nhanh nhẹn, làm việc gọn gàng.

– Mấy đứa nhỏ sắp lớn, cần tiền cưới vợ, gả con, mua sắm trong nhà. A Sinh đám hỏi rồi?

Lưu bá mẫu than thở xong quay qua hỏi mợ hai.

– Phải, ra giêng là coi ngày làm lễ cưới.

– Ta hỏi không phải chứ, hao tốn nhiều không tẩu?

– Nhà gái là chỗ thâm giao với ông nội a Sinh, đã hứa hôn từ nhỏ nên không đòi sính lễ, làm theo lễ là được. (đọc chương mới tại dienvan.space)

– Vậy mới phải lẽ, nương ta nói con gái phú hộ làng trong đòi sính lễ rất trọng, xung quanh đây làm gì có nhà nào ứng được. Nghe nói là nhờ người mai mối ở Trấn Giang hay Trấn Biên lận.

Nghe Lưu bá mẫu nói Mai cũng hứng thú muốn hóng tiếp, mợ hai ở gần Trấn Giang nghe được nhiều chuyện mới lạ, bá mẫu thì nghe chuyện từ nhà mẹ đẻ nên có nhiều tin tức lý thú. Nào là cô nương nhà nông nào đó gả vào nhà chợ bị nhà chồng chê không biết nấu nướng đuổi về; nhà trai kia cưới cô chị nhưng kiệu hoa lại là cô em.

Bàn đàn ông nhà trên hôm nay có An ca, Vĩnh ca và A Phúc nữa, nhưng chỉ có ba người lớn và Sinh ca được uống rượu. Bàn nhà dưới dọn ở sạp tre, các món ăn đã bày ra, bánh xèo là món chính, còn có tôm chiên, cá chiên, canh xương nấu măng tươi. Măng này là nhà bá mẫu mang qua, bụi tre sau nhà bên đó măng đã nhú. Hôm trước Vĩnh ca ra xem mấy bụi tre trên đất mới nhú, chưa ăn được. Nương vẫn nấu nồi cơm, cha và cậu hai luôn ăn cơm dằn bụng mỗi bữa, Lưu bá cũng vậy.

Bánh xèo lớn hơn cái đĩa, vàng rợm, ngũ Mi đang ăn rìa bánh giòn được tam Mi lấy vào chén. Tay kia của bé là con tôm đất lột vỏ đỏ tươi, miệng bóng loáng dầu mỡ. Ba người lớn khách sáo mời qua lại rồi cùng động đũa. Đông người ăn, câu chuyện vui vẻ làm bữa ăn kéo dài hơn, qua giờ ngọ mới xong. Bàn trên cậu hai chỉ uống ba bốn chung rượu rồi ngưng.

– Sáng mai ta về nhà sớm, không uống được nữa.

– Nguyễn huynh không ở thêm mấy ngày sao?

– Đi về cũng gần mười ngày rồi, ở nhà cha nương chắc trông lắm. Biết ở đây rồi lúc khác ta lại đến thăm. Đệ nếu đi chành Trấn Giang hỏi thăm làng Nam Ai nhà ta.

– Được, có dịp đệ sẽ đến.

Lưu bá và cha uống thêm hai chung cũng thôi. Nhà nông không biết lúc nào nhàn, luôn có việc trên ruộng, trên vườn. Nhà Mai tranh thủ hôm nay nấu đường, nấu dầu cho cậu mang theo nên ăn trưa, dọn dẹp xong cũng bắt đầu làm việc. Sinh ca chèo một vòng ra mấy cồn nhỏ vũng Đông Hồ và dọc theo con rạch lớn hái hết dừa khô xuống, mang lên nhà rồi dọn rửa ghe, sẵn sàng khuya mai đi về.

Mai nói cha cách đóng thùng tre chứa ống tre dầu giống như mấy thùng nước ngọt hiện đại, có từng ngăn không sợ chúng nghiêng đổ. Cậu hai nhìn cái thùng ha ha cười xoa đầu Mai, từ trong ngực áo lấy ra túi nhỏ kêu leng keng.

– Cái này là tiền lì xì hai năm, nay gom lại đó.

Mỗi đứa từ Cúc tỷ tới a Phúc đều được 10 văn, mấy đứa vui mừng nhưng chưa dám nhận mà nhìn cha nương.

– Nhìn cái gì, trong nhà này cậu là lớn nhất đó,

– Cậu hai cho thì nhận đi, còn không cám ơn,

Nương cười nhắc.

– Cảm ơn cậu.

Cậu cười ha ha rồi đưa Mai cái túi:

– A Mai lấy cái túi này cất tiền đi.

Mai nhận cái túi phát hiện trong đó còn tiền, cậu hai nháy nháy mắt nhìn cô, Mai hiểu ra cười hớn hở, màn này không thoát khỏi mắt mọi người.

– Nương, tiền này của con phải không?

Mai nhấn mạnh tiếng ‘của con’, cô cần có tiền riêng, ở hiện đại đứa trẻ nào cũng có ống heo cất tiền lì xì, tiền người lớn cho coi như là tiền riêng muốn mua gì thì mua. Từ hôm đến đây, Mai biết nhà nghèo không có tiền, cha nương lúc ở nhà nội cũng không có tiền, ở riêng mới được giữ tiền.

– Là tiền của con, thiệt là.

Mấy đứa nhỏ nghe thế đều vui vẻ, tuổi nhỏ như a Phúc cũng hiểu, cười hớn hở tìm túi đựng tiền.

– A Mai, để ta đếm lại tiền của muội xem phải mười văn không? Sợ cậu hai nhầm,

Vĩnh ca vọt nhanh lại gần Mai, như thật sự muốn đếm, cả nhà cười vang.

– Chàng thiệt là,

Mợ hai lắc đầu cười. Cậu chỉ ha ha ôm Mai đang trốn sau lưng.

– Sau này ta chỉ nhờ a Mai hiếu thảo thôi, bốn đứa con trai cũng không cần đâu.

Cậu hai không ngờ là số tiền này làm vốn cho mấy chị em Mai sinh lời, đương nhiên sau này mấy chị em hiếu thảo chăm sóc cậu chu đáo, xa gần đều biết, làm cậu luôn miệng nói cậu có phúc nhất!Chương 36: Mua gà con, ai hùn vốn?Trời tờ mờ sáng cậu lên ghe ra về, cả nhà bịn rịn.

– Ta về cho cha nương hay, biết tin muội chắc nương vui lắm. Thế nào nương cũng đến thăm, không cần lo lắng. Giữ sức khoẻ.

– Dạ, ca nói cha nương đừng lo, muội bây giờ tốt lắm.

– Được rồi, vào nhà đi, ta đi đây.

Trời mờ sương tiếng mái chèo khua nhẹ trong nước xa dần, bóng người khuất sau những rặng cây dừa nước lao xao. Tình thân, gia đình mãi ở trong tim, ấm áp, ngọt ngào.

Cậu hai mang theo đường và dầu, nên chợ phiên lần tới nương không đi bán.

– Chàng mang năm mươi cân gạo ra nhà nội a Bình đi, đợi hai ngày này làm đường và dầu đem ra đó luôn.

– Được, dù sao cũng không đi chợ phiên. Ta đi về trong ngày.

Bếp lửa lại nổi lên từ sáng đến tối, người lớn đều bận nên Vĩnh ca và Mai đi chợ làng mua gạo, Mai nói là nhờ bác bán gạo chở về nhà dùm.

Hôm nay chỉ mua gạo nên không cần đi sớm, trời sáng hai đứa nhỏ mới ôm giỏ lát đi. Hôm trước Mai nhớ trên đường đi có thấy dây tiêu trên gò đất ven đường, có mấy cây thơm già, Mai muốn đào gốc về trồng. Nhìn quanh một hồi Mai thấy nó, đúng là dây tiêu rồi, cô mừng rỡ nói:

– Hôm trước nương mua tiêu rất mắc, nếu mình trồng trong vườn thì sau này không tốn tiền mua.

Hạt tiêu còn trị được bệnh cảm, đau bụng nữa, nhưng cô chưa nói. Lúc gần đến chợ thì thấy một bụi thơm to, cây già cây nhỏ đan xen, lá thơm khía lên mặt và tay đau rát, a Vĩnh gắng sức đào, Mai tìm dây buộc ngọn lại, dùng mấy tàu lá chuối quấn quanh che gai đi. Hai đứa khiêng thẳng ra cạnh sông chỗ Trần bá bán gạo.

– Nhà con mua năm mươi cân gạo, bá chở về giúp được không?

Thấy đứa nhỏ quen, bá ấy đồng ý nhưng phải chờ khi tan chợ mới được. Mai xin chở thêm mấy bụi cây nữa, đặt chúng xuống chỗ đất trũng xăm xắp nước, rồi đi vòng quanh chợ ngó nghiêng.

Có hai thím bán vịt trời và con chim cổ dài gọi là chim đầu rắn, mùa này bọn chúng về đây kiếm ăn, đẻ trứng, chúng bay thành từng đàn. Góc kia có một thiếu niên đang bán hai con gà rừng và mấy cái trứng. Mai chợt loé lên ý nghĩ, nương nói gà khó nuôi nhưng gà rừng vẫn sinh sôi được, chúng khoẻ hơn gà nhà, vậy nàng nuôi gà rừng được không? Có thể chứ!

– Huynh có bán gà con không?

Mai tiến lại hỏi. Thiếu niên có mái tóc rất dài hơi xoăn quấn đại khái trên đầu nên có mấy đám phủ xuống mặt, cậu nhìn bé gái gương mặt tròn tròn, giọng nói thanh tao nhẹ nhàng như tiếng gió.

– Ta không bắt gà con, đợi chúng lớn mới bắt.

– A, muội muốn nuôi chúng, huynh bắt bán cho muội được không? Đừng làm chúng bị thương.

Hắn nghe rất lạ, trước giờ người ta mua gà rừng thích chọn con nào mập mạp nhiều thịt, bé gái này muốn con nhỏ đem về nuôi, mất công vậy làm gì, gà rừng tự sống tự kiếm ăn.

– Được không?

Nhìn bé gái có vẻ thật muốn mua, hắn do dự:

– Ta có thể đặt bẫy, không làm chúng bị thương. Ngươi muốn mấy con?

– Huynh bán bao nhiêu một con?

Nghe giống như mình muốn mấy con đều có thể bắt được, hắn giỏi vậy sao!

– Ta chưa bán gà con bao giờ, nên không biết.

– A, muội có hai mươi văn, huynh bán cho muội mấy con?

Hình như bao giờ mua bán như vầy!

– Ta bắt năm con cho ngươi được không?

– Được, phiên chợ sau huynh có gà con thì mang đến đây.

– Được.

A Vĩnh kéo Mai ra phía ngoài hỏi:

– Muội muốn mua gà con làm gì?

– Nuôi chúng,

– Nuôi?

Mai giải thích cho a Vĩnh tại sao nàng muốn nuôi, nuôi gà sẽ kiếm được tiền, một con gà nhỏ mua bốn văn, nuôi bốn năm tháng sau bán một con được hơn bốn mươi văn (con gà hôm trước mợ hai mua tốn bốn mươi ba văn). Đương nhiên Mai không nói chuyện gà con có thể chết!

A Vĩnh nghe xong nghĩ kỹ, cũng đúng, gà ăn rau cỏ, sâu, ngày mùa thì cho chúng nhặt lúa rụng ngoài đồng.

– Ta lấy mười văn cậu cho mua luôn. Ta sẽ cho chúng ăn.

– Vậy được.

Mai cười hì hì chạy lại chỗ thiếu niên đầu xoăn:

– Huynh bắt thêm hai con nữa, muội sẽ mua bảy con.

– Được.

Hắn nhìn hai anh em, gật gật đầu. Hai đứa trẻ đi dạo một vòng rồi tìm chỗ ngồi ăn sáng, người đến chợ đông hơn. Đang ngồi chờ tan chợ, bá mẫu bán chiếu ngoắc ngoắc tay gọi Mai.

– Nhà cháu còn bán đường không?

– Dạ còn,

Lúc Mai chạy đến thì bá mẫu hỏi, chỉ một cô nương bên cạnh.

– Này là cháu dâu ta, đang giúp việc nhà phú hộ bên kia sông.

Mai gật đầu chào tẩu ấy, tự hỏi không biết bá mẫu có việc gì.

– Bà nội nói nhà muội bán đường, nhà phú hộ muốn mua mấy cân đường.

Tỷ tỷ này có giọng nói thật hay, gương mặt tròn vành vạnh, búi tóc gọn gàng sau đầu làm khuôn mặt càng tròn hơn, như người ta hay nói khuôn trăng đầy đặn.

– Muội không có mang theo, muội về nhà lấy đến được không? Gặp tỷ ở đâu?

– Muội nói người lớn trong nhà mang đến nhà phú hộ, đi theo con sông kia, quẹo qua khúc quanh sẽ thấy.

– Đuợc, đến nhà phú hộ gặp tỷ sao?

– Ừ, gặp nhà ta, chàng là tam Hữu.

Hẹn gặp xong, bá mẫu và tỷ rời đi, hai đứa quay lại ghe Trần bá, chờ khoảng nửa canh giờ thì tan chợ. Ghe xuôi dòng về nhà.

– Bá biết nhà phú hộ Từ không?

– Biết, cháu hỏi làm gì?

– Nhà phú hộ muốn mua ba cân đường, nhà phú hộ giàu lắm hả bá?

Trần bá có vẻ suy nghĩ rất lâu, chậm rãi nói.

– Có lẽ, mà thời buổi này ẩn mình mới an,

Đang định nói thêm gì nữa, ông nhìn mặt hai đứa trẻ mới giật mình thở dài, ông lẩn thẩn rồi, nói với đứa nhỏ chuyện này làm gì.

– Ta chỉ nghe nói vậy thôi.

Haiz, đúng là không có ‘moi’ được chuyện gì. Mai đoán bá ấy biết nhiều hơn, chỉ là không thích nói thôi.

– Khi nào nhà cháu mang đường đến đó?

– Dạ, cháu về nói cha nương sẽ đi ngay, sáng mai cha cháu phải ra nhà ông nội ở làng chài.

– Ta cho cha cháu quá giang một khúc, dù sao cũng đi ngang qua nhà ta.

Mai mỉm cười cảm ơn.

Hôm nay trời không nắng, mây đen rải rác phía biển đang lững lờ trôi về đây. Bờ bên kia Tô Châu có nhóm người đang dựng nhà, chắc di dân mới về, mà sao họ dựng nhà sát bờ thế, không sợ ngập sao? đọc chương mới tại dienvan.space

– Nghe nói nhà đó chuyên đánh cá ở miệt Cà Mau, sống trên ghe là chính. Họ dựng nhà sàn ở mấy lúc mưa gió, mùa nước lên thôi.

À, thì ra vậy.

– Vũng này nhiều cá lắm sao bá?

– Không nhiều bằng miệt Cà Mau, nhưng mấy năm trước nước dâng cao, phá hư nhiều nhà cửa, ruộng đồng. Haiz,… gầy dựng lại cũng nhọc.

Trần bá thở dài, nhìn hai đứa bé chăm chú lắng nghe rồi nói tiếp:

– Năm đó họ phải đi gặt lúa ma ăn đỡ đói, cá tôm nhiều mà ăn riết cũng sinh bệnh.

Lúa ma (lúa trời) mọc nhiều ở vùng nước nổi, nó có thể sống được là nhờ thích nghi với con nước, nước cao tới đâu lúa cũng cao tới đó, luôn vượt lên khỏi mặt nước. Hạt lúa ma nhỏ và dài hơn lúa thường, gạo ăn cứng hơn. Hạt lúa chín rất dễ rụng xuống. Người nào muốn thu hoạch phải canh lúc lúa vừa chín, nhẹ nhàng chèo ghe vào gạt những bông lúa vào lòng ghe; mà phải đi nửa đêm, chỉ cần đến trễ vào rạngsáng hôm sau là lúa rụng hết.

Cho nên chỉ những lúc mất mùa đói kém người ta mới đi gặt lúa chống đói, đây là cách thiên nhiên bù lại cho con người một đường sống.

Người kể nhớ lại chuyện xưa chìm trong hồi tưởng, người nghe say mê vì biết thêm chuyện hay, đến nhà rất nhanh. Trần bá cũng ngạc nhiên, lâu rồi ông khép mình lại làm kẻ buôn bán lúa gạo tầm thường trên cái ghe nhỏ ven chợ làng, hai đứa nhỏ gợi chuyện làm ông như sống lại thời trẻ, không khỏi nuối tiếc.

Vĩnh ca nhảy lên cầu gỗ, chạy nhanh vào nhà gọi cha nương. Cha nghe tiếng đi ra chào hỏi, cảm ơn Trần bá.

– Hai đứa nhỏ nói ngươi đi bán đường nhà phú hộ Từ, nếu đi liền ta chở được một khúc.

Cha nghe vậy nhìn Mai, cô kể lại chuyện lúc sáng, dặn cha tìm tam Hữu ca ở nhà phú hộ. Cha quay sang chắp tay với Trần bá.

– Đa tạ huynh, huynh chờ một lát.

Cha định quay vào thì nương đã mang giỏ lát ra, Vĩnh ca theo sau tay mang bình nước, hai cái ly và rổ nhỏ có mấy củ khoai mì nấu nước dừa. Cha mời Trần bá nghỉ ngơi, uống nước và ăn khoai mì, còn mình thì chống ghe quay đầu chèo đi.

Vào nhà lại tiếp tục nấu dầu dừa, làm ống tre, chuẩn bị mang ra nhà nội. Cha muốn đi về trong ngày lại mang nhiều thứ, Bình ca sẽ đi chung, An ca nhỏ quá, đi về sẽ rất mệt. Cho nên khuya mai hai người sẽ đi sớm, lúc về không trễ. Mai lại nghĩ đến chuyện mua ghe, thật sự là rất cần!

Mai kéo Bình ca, An ca qua một bên kể chuyện mua gà con lúc sáng.

– Ca, ca tính xem mua ghe hai mươi quan thì bán bao nhiêu con gà?

Đương nhiên là nói với An ca rồi,

– Gần hai trăm con gà, ta tính bốn mươi văn một con.

Chính xác, Mai nhìn nhìn hai đứa chăm chú,

– Ta biết rồi.

Hai anh em rất tự giác đứng dậy đi đến tủ quần áo của mình. Động tĩnh bên này làm a Phúc chú ý, hắn chạy tới hỏi, Vĩnh ca cười cười dụ dỗ. Dù sao cũng cần nói cho cha nương biết nên lúc ăn cơm trưa Bình ca lên tiếng.

– Gà rừng có nuôi được không? Bọn chúng bay rất cao.

Cha hỏi, Vĩnh ca vội vàng nói:

– Cha cắt hai cánh là chúng không bay được.

– Hay là lấy tiền nhà mua gà con trong chợ Ngã ba lớn?

Nương không yên tâm, nuôi gà nhà bà biết, còn gà rừng chưa nghe ai nuôi bao giờ.

– Nương, gà rừng khoẻ hơn gà nhà, dễ nuôi hơn. Mình nuôi thử, gà rừng con không tốn bao nhiêu tiền. Tiền cậu cho con cũng không làm gì, sau này bán được gà là tiền riêng của tụi con được không?

Nương liếc nàng nói:

– Được, nuôi gà không dễ vậy đâu, đến lúc đó đừng khóc.

‘Nương không cần làm nản lòng người ta chứ’, Mai nhủ thầm trong bụng.

– Vậy ta cũng hùn mua gà con.

Cúc tỷ nói rồi cũng đi lấy tiền đưa Mai, vốn không nhiều, dù sao cũng nuôi lần đầu. Mai đưa tiền cho An ca nói:

– Tiền này An ca giữ, mình mua được mấy con gà con?

– 17 con, dư hai văn.

A An tính toán rất nhanh.

– Cậu cho con hai mươi văn?

Cha hơi bất ngờ hỏi, hôm đó hắn biết còn mấy văn trong túi là cậu hai cho thêm a Mai, nhưng không ngờ nhiều như vậy. Mai mỉm cười không nói, mấy đứa nhỏ bất mãn hừ hừ, cậu hai luôn thiên vị a Mai. Chỉ có Vĩnh ca biết trước số tiền này, hắn cười hì hì nói:

– Cậu hai nói là sau này đều nhờ a Mai phụng dưỡng, Mai à, ráng kiếm tiền nha!

Cả nhà cùng cười cho qua. Lúc nương sinh a Mai tròn tháng, cậu và bà ngoại đến thăm, vừa ôm Mai là cậu không muốn buông, cái này là duyên giữa người với người, ganh tỵ cũng không được.Chương 37: Rừng sâu lên tiếngChiều hôm đó trời mưa ầm ầm, cha lo ruộng ngập nước lúa non bị úng chạy ra ruộng mấy bận. Cả nhà cùng nhau ra đào mương, đào rãnh thoát nước. Xung quanh cũng có nhiều nhà ra ruộng canh nước.

Mưa giăng một trắng xóa, từng hạt lớn rớt lên người làm đau da tay. Nương không cho Mai và a Phúc ra ngoài, dặn hai đứa ở trong nhà. Mai nhuốm bếp nấu nồi nước nóng, chuẩn bị pha nước mật ong gừng ấm.

Đã hơn một canh giờ mà mưa chưa dứt, mây đen vẫn kéo về đầy trời. Sấm sét đùng đùng trên nóc nhà, ngọn cây dừa, cây tre oằn mình theo gió. Vĩnh ca, An ca chạy vào nhà, cả người run lập cập. Hai đứa vội thay quần áo khô rồi chạy ra ngồi gần bếp lửa.

Những hạt mưa bị gió thổi tạt vào vách lá rào rào. Đất sân trước nhão như bùn, nền nhà cũng ẩm ướt. A An nhìn màn mưa nói:

– Ruộng ngập dữ lắm.

Gió chợt ào ào đến, có lốc xoáy muốn thổi bay nóc nhà lên cao. Mấy đứa nhỏ hơi sợ đứng gần nhau, đầu ngó quanh tìm hướng lốc xoáy.

Mọi người chưa hết lo sợ thì ầm ầm, tiếng động từ trong rừng vang đến. Một vạt rừng bị đổ rạp, cây thốt nốt bên bìa rừng đổ theo. A cây đó nhà Mai đang lấy nước, thất thu rồi!

Phía trong rừng cũng có một mảng đen đổ ngã, tiến cây cối rầm rầm nghiên ngửa. Đàn chim gì đó bay vù lên không trung, bay nhanh về phía đỉnh núi. Trong màn mưa không nghe tiếng chim kêu quang quác, giống như đang xem một bộ phim câm, làm mọi người càng lo lắng.

Bên trong rừng tiếng động càng lớn hơn, mọi người đều đứng im nhìn về hướng đó, khoảng cách xa nên nghe không rõ lắm. Bỗng nghe tiếng ầm rất lớn, mặt đất như rung chuyển và ‘Gru ….. ừ …… m’ vang xa.

Sau đó là im bặt, chỉ còn tiếng gió xào xạc, mưa nhẹ dần rồi ngừng hẳn. Mọi người chăm chú nhìn phía bìa rừng một lúc, từ từ đi về nhà, không dám làm ra tiếng động lớn. Cha vội thay đồ khô rồi ôm a Phúc đang sợ hãi vào lòng. Nương và Cúc tỷ nấu vội nướng nóng tắm rửa rồi đều ngồi trên sạp tre nhìn nhau.

– Tiếng gì vậy cha?

A Phúc bớt sợ, giờ lại tò mò hỏi:

– Cha không biết rõ.

Ông nhăn mày lo lắng một lát, rồi lên tiếng.

– Tiếng gầm vang xa, không gần như chúng ta nghĩ, chắc là phía trong rừng rậm. Dọn cơm ăn đi, gần tối rồi.

Mưa lớn vừa dứt, mặt trời cuối ngày hiện ra rực rỡ, đỏ ngầu chiếu sáng rực mặt vũng Đông Hồ, màu đỏ như nhuộm khắp nơi, vừa kỳ ảo vừa ma quái. Mai ngồi trên giường trong phòng nhìn ra bên ngoài, cửa sổ phòng cô hướng ra vùng đất rộng giáp vũng Đông Hồ. xem chương mới tại dienvan.space

‘Bọn chúng đánh nhau sao?’ cô tự nghĩ, ‘ Một là ông cọp – ông ba mươi rồi, còn lại là con gì? Nghe tiếng gầm cũng không phải là ông cọp thắng lợi, không hẳn đau đớn. Sao ta, nghe giống như đang cảnh cáo vậy. Kiểu như “chỗ này là của ta, mau đi nơi khác!” Tiếng gầm nghe rất xa, nhưng tại sao vạt rừng lại ngã đổ, trùng hợp? Mà con gì làm cho ông cọp chỉ lên tiếng cảnh cáo mà không phải tấn công?

Đúng là không biết cái gì đang diễn ra mới đáng sợ nhất!

Sáng hôm sau cha và Bình ca không đi nhà nội mà ở nhà, tuy là xung quanh yên tĩnh không nghe thấy gì lạ nhưng ở nhà thêm một ngày vẫn tốt hơn. Người dân xung quanh cũng bình tĩnh lại sau một đêm, ai làm gì thì cứ làm, ít ra là người lớn vẫn bình tĩnh. Đám trẻ nhỏ thì sau khi hoảng sợ lại tò mò hiếu kỳ.

Sáng sớm Tương huynh qua rủ Bình ca sông bắt tôm. Nói là bắt thật ra là vớt tôm càng nổi lên trên mặt nước. Cứ sau mỗi cơn mưa tối, sáng sớm hôm sau trời hơi lạnh, tôm sẽ nổi lên ở những vùng nước trong. Mấy đứa trẻ nhẹ nhàng đi đến dùng vợt tre dài vớt chúng lên. An ca, Vĩnh ca cũng đi theo, vừa đi vừa nói lại chuyện hôm qua, giống như chỉ có mình chứng kiến tham gia vậy!

Cha vẫn đi lấy nước thốt nốt ở bìa rừng, lúc trở lại cha nói:

– Cây thốt nốt già, bị sâu đυ.c ngay gốc nên gió lớn làm ngã. Chắc có lốc xoáy ở đó, mấy cây kia đều bị trốc gốc, dây leo chằng chịt nên không bị cuốn đi.

– Vậy à?

Mọi người thở dài nhẹ nhõm.

– Chàng trồng mấy hàng cây thốt nốt ở rìa đất nhà mình, giữ đất khỏi sạc lỡ. Làm ranh đất luôn, tam tẩu nói nhiều nhà về trong làng ở lắm, trong đó hết đất sẽ ra phía này của chúng ta.

– Được, đi nhà cha về ta sẽ trồng, tranh thủ khẩn thêm mấy mẫu đất nữa. Sau này có chỗ cho mấy đứa làm ruộng.

Trưa nay ăn tôm càng nướng, có con to, vỏ màu xanh dương đậm ẩn vàng nhìn rất đẹp. Mai ăn một con đã muốn no, nương ép ăn thêm chén cơm mới thôi. Chuyển vào đây ở gần hai tháng, da không khô nắng nữa, tóc cũng đen và mượt hơn. Mấy đứa con trai cũng nhả bớt nắng, da ngăm ngăm giống mọi người xung quanh. Bình ca cao hơn thấy rõ, đã gần bằng cha rồi.

Cha và Bình ca đi rất sớm, nương gói theo cơm ăn dọc đường, dặn dò rồi mới để hai người đi. Mấy đứa nhỏ lên giường ngủ thêm một lát, nương và Cúc tỷ nấu cơm, quét nhà đến mờ đất đã xong. Nhà Mai nhỏ, nền đất, hôm nào trời mưa, đất ẩm hơi lạnh nên cha nương đào mấy tảng đá mỏng lót thành lối đi trong nhà. Lót như vậy khó quét nhà, đi không chú ý còn vấp té, sau đó ai cũng tìm đá về lót đều mặt nhà hết thì sạch hơn.

Trời vừa sáng, nương và An ca đi lấy nước thốt nốt, không có cha nương không để An ca đi một mình mà đi theo mới yên tâm. Bốn đứa nhỏ ở nhà dọn cơm ăn sáng thì có tiếng goi ngoài cổng. Vĩnh ca chạy ra.

– Là Bùi ông thợ mộc tìm cha, đệ nói cha về nhà nội. Ông nói sáng mai ông đến tìm cha sớm.

Lúc đi vào Vĩnh ca thuật lại lời Bùi ông, một mình An ca lấy nước thốt nốt nên lâu hơn mọi ngày, gần nửa canh giờ mới xong. Cả nhà vừa ngồi sạp tre thì nghe tiếng la loáng thoáng, chạy ra ngoài thì thấy tứ Mi chạy từ phía nhà cũ Lưu bá ra, phía sau Tương huynh tay cầm cây dài, tay cầm con dao mác cũng chạy ra, không biết là chuyện gì.

Lưu bá ra đồng sớm thấy vậy cũng đi lại, tứ Mi chạy khá xa nhà cũ mới dừng lại thở. Lúc gặp mọi người vẫn còn thở dốc.

– Sao vậy? Sao chạy dữ vậy?

Nương đi đến trước hỏi.

– Rắn, trong nhà cũ.

Tứ Mi nói mấy tiếng thì ngừng lại thở dốc.

– Trên kèo nhà cũ có hai con rắn hổ mây, to cỡ cùm tay.

Trời! Ai cũng hết hồn.

Nhà Lưu bá muốn nới rộng bếp phía sau làm kho lúa, Tương huynh đến nhà cũ chặt mấy cây lớn làm cột, tứ Mi theo hái rau và đu đủ, nhà bên đó có mấy luống rau trồng năm rồi và mấy cây đu đủ già cho trái rất ngọt.

Tương huynh vừa chặt nhánh cây lớn đổ vào mái nhà thì nghe tiếng khẹt khẹt, từ trên nóc ló ra hai đầu rắn hướng về phía tiếng động. Hai thân dài quấn quanh kèo đỉnh. Tứ Mi sợ quá quăng rổ bỏ chạy, Tương huynh lớn gan lấy cây dài đánh lên mái lá đuổi chúng đi. Chúng cũng sợ phóng vèo vèo qua mấy ngọn cây về phía rừng.

– Hôm trước ngã một vạt rừng động ổ nên chúng đến nhà cũ.

Lưu bá đến nghe chuyện xong thì đoán.

– Cha tính giật sập nhà cũ luôn, để trống không ở rắn rít vào cũng không tốt.

– Sáng mai cha a Bình về qua phụ nhà huynh.

– Được,

Lưu bá nói xong xách cuốc đi về, nương vuốt tay tứ Mi nói không sao rồi tản ra về nhà. Mai nhìn về hướng nhà cũ mà hơi sợ, có cách nào trị rắn không? Ít ra là không cho nó đến gần mình?Chương 38: Bắt đầu học y thuậtVề nhà ăn xong cơm, Mai xin nương một ít hạt sen, nấu chè hạt sen xong múc một tô rồi kéo a Vĩnh đi về hướng hào sen.

– Muội muốn đi đâu?

– Muội đến gặp sư ông, nhờ sư ông dạy cách trị rắn.

– Muội đừng sợ quá, nhà có người ở rắn không dám tới đâu. Chúng cũng sợ người mà.

A Vĩnh thấy Mai lo lắng nên an ủi, hắn nghe người lớn nói nếu mình không trêu chọc thì rắn sẽ không tấn công. Quan trọng là mình đâu biết nó ở đâu để mà tránh, nếu biết mình tránh còn không kịp!

Tịnh xá nằm yên tĩnh như hoà vào rặng cây lá xung quanh. Sư ông đang cuốc luống đất trống phía sau chùa. Hai đứa trẻ khoanh tay bạch sư, Mai đưa ông rổ tre đựng tô chè nói:

– Nhà con nấu chè hạt sen, cúng dường sư ông dùng.

Sư ông cười nheo mắt:

– Con nhà Lê tứ phải không?

– Dạ phải sư ông.

Sư ông dựng cuốc vào bụi cây, bước vào nhà khách. Mai nhanh nhẹn đặt tô chè xuống bàn.

– Sư ông dùng từ từ, ngày mai con đến xin lại cái tô.

Nhìn đứa bé mặt mũi sáng sủa, đôi mắt hạnh tinh anh, ông vui vẻ nháy mắt hỏi:

– Con muốn hỏi cái gì?

– A, (bị sư ông phát hiện rồi sao?) A, ca con muốn học cách trị rắn cắn.

Mai nhéo cánh tay a Vĩnh, hắn biết ý gật gật đầu. Mai kể chuyện lúc sáng ở nhà cũ Lưu bá, rồi nói chuyện cô lo sợ, chỉ muốn đuổi rắn đi; không lẽ nói mình muốn gϊếŧ chúng trước mặt người tu hành như sư ông.

Sư ông nghe xong nhìn hai đứa nhỏ, a Vĩnh không quen nên hơi khẩn trương, sau đó hắn lên tiếng:

– Con muốn làm lang y trị bệnh, mà không có người dạy. Sư ông có thể dạy con không? Cứu người là việc thiện.

Đây là mấy lời Mai nói lúc đi đến đây, xung quanh đây ngoài Đỗ lang y thì không ai biết tri bệnh. Đỗ lang y hay đi xa, không thể xin ông dạy, mà chưa chắc ông đồng ý truyền nghề.

Sư ông hôm trước có thể trị rắn cắn chắc cũng biết chút y thuật, xin sư ông dạy trước, sau này tính tiếp. A Vĩnh còn e sợ, Mai đã phân tích tiếp nếu sư ông không biết y thuật thì chỉ hắn cách trị rắn cắn cũng được, học cái này cũng cần thiết, giúp mình giúp người, sư ông sẽ đồng ý. Vì thế hắn mạnh dạn lên tiếng.

– Sư không biết nhiều y thuật, chỉ biết vài cây cỏ trị bệnh vặt. Con thích thì đến đây sư dạy.

Nghe đến đó gương mặt a Vĩnh cười sáng lạn chắp tay định quỳ thì sư ông cản lại.

– Không cần, sau này con có thể trị bệnh giúp người là được.

– Dạ, sư ông.

– Vãi Pran hôm trước biết nhiều y thuật, nếu con có duyên với Vãi ta sẽ nói giúp con.

Mai vui vẻ lên tiếng.

– Vĩnh ca, từ nay ca phải chăm chỉ đó.

Ha ha, sư ông cười to nhìn hai anh em trêu chọc nhau, bé gái này rất thông minh lanh lợi, có mắt nhìn, còn biết tiến lùi.

– Nhà con nhiều việc, dăm ba ngày đến đây một canh giờ là được. Đến vụ mùa cũng không cần đến.

– Dạ, sư ông.

Mở đầu bài học là sư ông dẫn hai đứa ra sân chỉ cây cỏ nghể trị rắn cắn, nói bài thuốc rồi đào một gốc cây cho hai đứa mang về nhà trồng. Sư ông thật hiểu ý người, mục đích đầu tiên của Mai là muốn xin sư ông cây này mang về trồng. Trên đường đi Mai nghĩ dù sao cũng thử xin ông dạy a Vĩnh xem sao, không được cũng không sao. Ai ngờ ông lại đồng ý nhanh vậy, chỉ tốn có một tô chè hạt sen thôi!

– Xung quanh nhà trồng thêm hàng cây xả, rắn không thích mùi này

Sư ông dặn, còn chỉ mấy bụi cây trong sân nói:

– Cây này trị cảm ho, cái này đắp vết sưng do rít cắn. Hôm nào nói cha con đem thúng tre đến đào gốc mang về. Ta sẽ chỉ con cách làm thuốc.

– Dạ,

Hai đứa nhỏ gật đầu lia lịa, chăm chú nghe sư ông nói. Tuy nói nhà sư tu hành thì gác bỏ chuyện đời nhưng cũng thể không biết chuyện dân gian. Theo như Mai biết, ở những am, chùa nhỏ các vị sư ông, sư cô đều phải làm ruộng, trồng rau tự cấp thức ăn. Họ chỉ khác dân chúng là ăn chay và không lập gia đình thôi.

Nương nghe hai đứa về nhà kể thì rất vui mừng, dặn a Vĩnh chăm chỉ nghe lời sư ông, việc nhà để nương làm, hắn cách ngày đến tịnh xá, còn dặn hắn nhìn xem trong tịnh xá thiếu lương thực hay gì thì mang qua.

Ở đây ít người truyền nghề ra ngoài, đa số truyền con cháu trong nhà, nên nếu được thầy nhận dạy nghề đều rất quý trọng, tuy sư ông nói là chỉ dạy chút ít để trị bệnh thông thường, như vậy cũng rất quý rồi.

Mai lại càng vui hơn, có sư ông chỉ dạy a Vĩnh rồi, cô thỉnh thoảng nói thêm một ít công dụng của cây thuốc nam nữa sẽ không làm người khác chú ý, coi như là sư ông hoặc a Vĩnh phát hiện ra.

Chiều hôm đó nương kêu mấy đứa nhỏ ăn cơm trước, nương chờ cha về mới ăn. Xong hết việc nhà thì nương dẫn a Phúc qua nhà Lưu bá, đầu tháng này Tương huynh sẽ theo cậu huynh ấy đi chành Long Hồ, đi về cũng mất hơn tháng.

Lần đầu huynh ấy đi nên nương qua xem giúp bá mẫu chuẩn bị. Thật ra cũng không chuẩn bị gì nhiều, mấy bộ đồ vá lại cho lành lặn, may mới một bộ đều do bá mẫu và tam Mi tỷ làm. Chỉ là bá mẫu lo,lắng quá nên cần người nói chuyện lảm nhảm thôi.

Cũng đúng, việc liên lạc ở đây rất kém, đi ra ngoài xảy ra chuyện gì người nhà cũng không biết. Có người đi làm ăn xa, gặp phải nạn tai rồi biền biệt mấy năm không một tin nhắn về. Cho nên ở đây người ta hay nhắc nhau giúp người lỡ đường, vì biết đâu người nhà mình đi xa cũng đang cần người khác giúp.

Còn có rất nhiều người cả đời chỉ sống quanh quẩn trong làng mình. Thành gia lập thất với người trong làng luôn. Sáng sáng chiều chiều ra đồng làm ruộng, về nhà nghỉ ngơi, chợ làng là nơi xa nhất mà họ đi.

Sẩm tối thì nương về, Mai đang nhét lá xả phơi khô vào bếp hun muỗi, mùa mưa muỗi càng nhiều hơn.

– Cha, nương ơi cha về.

Tiếng a Phúc gọi từ ngoài cửa, nương thở ra nhẹ nhõm. Mai nhìn phía đường đất không thấy cha, nghĩ a Phúc đùa quay lại tìm hắn. Cha đi từ hướng sông vào, sau cha là Bình ca và tiểu thúc. Mai mỉm cười vui vẻ, có tiểu thúc vô, có thêm người làm việc, hắc hắc.

– Nhà Chu bá có người vào trong này cho chúng ta quá giang.

– Tẩu,

Cha giải thích cho cả nhà, tiểu thúc chắp tay chào nương.

– Vào nhà, tắm rửa đi, ta dọn cơm, tối rồi.

Bốn người lớn ngồi ăn cơm, mấy đứa nhỏ ngồi quanh cùng trò chuyện.

– Tối hôm trước có lốc xoáy ngoài đảo Koh Tral (1), mấy hôm nay cha không ra biển. A Tấn vào đây phụ chúng ta một tay.

Cha ngưng lời thì Bình ca đưa túi vải cho nương nói:

– Ông bà nội đưa tiền bán đường. Cha không lấy nên ông nội kêu con cầm. Ông nói cha nương mua lương thực cho nhà nội là được rồi, đường hay dầu bán được ông bà sẽ không lấy. Lần này nhờ nhị bá mẫu, tam bá mẫu tặng hai nhà bên kia dầu ăn, tặng mấy nhà quen nữa, sau đó mới bán.

Nương gật gật đầu, bà nội tính vậy rất tốt.

– Ông bà nội ăn được không?

– Được, cả nhà đều nói ngon.

Lần này là thất thúc góp lời, cười ha ha nói tiếp:

– A Hân, a Bảo đòi theo vô đây ăn cho đã, ha ha. Hắn nói biết đâu còn món ăn mới khác.

Đúng là cá đồng nhỏ nhỏ ít xương như cá sặc, cá bạc, cá rô con, bầy lòng ròng hay tôm chiên giòn ăn rất ngon. Cá biển lớn, xương cứng chiên làm món ăn cơm thì được, nhưng không thể làm đồ ăn vặt được. Xem chương mới tại dienvan.space

Cả nhà cười rộ lên, a Bảo đúng là tham ăn chính hiệu, người tròn vo; còn a Hân ham vui đương nhiên là muốn theo. Cười đùa một chút đều bị nương kêu ngủ.

(1): Đảo Phú Quốc ngày nayChương 39: Phát hiện thú vị!Sáng hôm sau cha ăn sáng xong chờ Lưu bá đi qua nhà cũ thì Bùi ông đến.

- Trong làng có mấy nhà đến, dựng nhà mới gấp, ta và a Trăng làm không kịp, ngươi khéo tay qua phụ mấy ngày, tiền công trả như Trăng.

- Được thúc, khi nào làm?

- Hôm nay cũng được.

- Chiều cháu đến làm được không? Sáng nay cháu phụ Lưu Hà huynh dỡ nhà cũ bên kia.

- Vậy được, trưa cháu qua nhà ta, con trai út ta dẫn cháu đi.

- Được.

Bàn xong thì Lưu bá và Tương huynh qua, ba người vừa đi vừa nói chuyện lúc nãy. Bình ca và thất thúc đi lấy nước thốt nốt về, ăn cơm sáng xong cũng qua bên đó, đông người mau xong việc. Dựng nhà thì lâu, dỡ thì nhanh như chớp, mấy cây gỗ lớn muốn dùng lại không nhiều, mỗi người kéo hai lượt là xong.

Lưu bá mẫu đi theo hái hết đu đủ, rau cải đem chia nhà Mai một nửa, trong đó có rổ khoai lang củ còn nhỏ cũng đào luôn. Nếu không mấy đứa con gái chẳng chịu qua bên đó nữa.

Mai rửa sạch gọt vỏ khoai, kêu Vĩnh ca phụ nhóm bếp làm khoai lang chiên, khoail lang còn non ăn mềm mềm, ngọt ngọt như tàu hủ. Lâu rồi không được ăn tàu hủ, không biết ở đây có đậu nành không? Mai thấy đậu xanh, đậu đen, chưa thấy ai trồng hoặc bán đậu đỏ, đậu nành, còn đậu phộng nữa. Ở đây không có, biết đâu miệt khác có? Nhờ ai hỏi bây giờ?

Đang nhớ mấy món ăn hấp dẫn thì có người kéo tay cô, là thất thúc, Mai mở to mắt nhìn thúc ấy, hắn còn nhỏ tuổi hơn mình mà ‘chức’ lớn ghê!

- Ta nghe a Bình nói muốn mua gà, ta có tiền, muốn góp chung.

Mai cười hì hì nói:

- Thúc nha, bà nội giấu cho thúc phải không?

Ha ha, đánh bừa mà trúng, thất thúc lúng túng nói:

- Lúc vô đây bà nội nhét cho ta hai mươi văn.

Nương đang ngồi đan rổ lên tiếng:

- A Mai, không biết lớn nhỏ, nói lung tung gì vậy.

- Con, con,... bà nội thương thúc nhất nhà, tiền thúc có đương nhiên là bà cho rồi, ai chẳng biết!

Xì, nương liếc nàng như bảo im miệng. Thất thúc vẫn đứng gãi tóc, nương sinh hắn lúc đã lớn tuổi nên cha nương có chút nuông chìu, nhiều lúc hắn cũng ngượng; giờ bị a Mai nói trắng ra bảo hắn trả lời sao.

- Được, thúc góp mười văn đi, chúng ta mua được hai mươi con gà.

A An tham tiền đã giải vây cho thất thúc. Nói xong hắn chạy vào trong lấy túi vải ra đếm lại tiền, cộng thêm mười văn tiểu thúc đưa là tròn tám mươi văn. Từ hôm Mai nói hắn giữ tiền mua gà, hắn vừa vui vừa lo lắng, mỗi ngày đều sờ túi vải như sợ mất khiến cả nhà có thêm chuyện cười chọc ghẹo hắn.

- Vậy An ca tối nay thức canh tiền đó, thiếu một văn cũng không được,

Ha ha ha, Vĩnh ca lên tiếng làm mọi người vui vẻ. Hai hôm nữa là chợ phiên rồi.

- Chợ phiên này mình có bán đường trong chợ làng không nương?

Mai hỏi, dù sao cô cũng đi chợ mua gà, bán thêm đường cũng tốt.

- Con đi chợ với ai? Mang theo mười đòn bán đi.

Mấy đứa nhỏ đều trông mong muốn đi chợ làng lần này, mua gà con là chuyện trọng đại của tụi nhỏ mà. Nương phì cười nhìn mấy đứa.

- Được rồi, nương và a Bình đi chợ Sông Lớn, mấy đứa muốn thì đi chợ làng hết đi, nhà cũng không có gì.

Tụi nhỏ cũng không được đi đâu chơi, gần đây chỉ có qua lại nhà Lưu bá, dù sao cũng một nửa buổi sáng là về. Hơn nữa thấy mấy đứa nhỏ háo hức chuyện nuôi gà, bà cũng vui vui, nếu thành thì tốt, không thành cũng không sao.

Nương quay sang dặn Cúc tỷ lúc mua gà, mang gà về chú ý cái gì, dọc đường cũng nên cho bọn nó uống chút nước, cho ăn gạo nát thử xem sao, chúng không ăn thì cho ăn cỏ xanh. Mấy đứa đều lắng nghe, gật gù. A còn chuồng nuôi thì sao?

Nương nói gà còn nhỏ chưa cần chuồng, Cúc tỷ đan cái rổ to, lót rơm buổi tối bỏ chúng vô đó là được, ban ngày thì thả đất, làm hàng rào không cho chúng ra ngoài chạy mất.

Cha ra thăm ruộng, ăn vội cơm trưa rồi đi nhà Bùi ông, cha chỉ Bình ca và Thất thúc làm cỏ, đắp bờ thêm mảng đất hoang gần hào sen, làm từ từ cây cỏ nhỏ, cha rãnh sẽ đào gốc mấy cây lớn.

Chiều nay Vĩnh ca sang tịnh xá học với sư ông, nương lấy rổ đựng đường và một ống dầu qua cúng dường, dặn dò hắn chăm chỉ, đi đường cẩn thận. Hào sen gần nhà nhưng đi vòng vèo bờ đất cũng hơn một khắc mới tới, nương ở ruộng nhìn theo đến khi Vĩnh ca vào khúc quanh tịnh xá mới yên lòng.

Sáng ngày chợ phiên, chỉ có cha ở nhà đi lấy nước thốt nốt xong, đóng cửa đi dựng nhà. Lúc đó mấy đứa nhỏ đã gần đến chợ, a Phúc chân nhỏ đoạn đường sau là thất thúc cõng hắn để theo kịp.

Đến chợ Cúc tỷ bày đường bán, bá mẫu bán chiếu không đến. Vĩnh ca chỉ chỗ thiếu niên bán gà hôm trước, chỗ đó còn trống. Nhà huynh ấy trong núi gọi là Bình San nên đến trễ hơn. Mấy người khách quen lại mua đường không cần Mai ‘quảng cáo’ nữa. Một lát sau Vĩnh ca chỉ đầu chợ:

- Huynh ấy đến kìa.

Vĩnh ca sốt sắng chạy đến, đi phía trước thiếu niên đó là một thằng nhóc, cỡ tuổi An ca, người lùn hơn nhưng chắc nịch. Nhóc liếc a Vĩnh thủ thế:

- Làm gì? Cướp đồ?

Vĩnh ca bất ngờ mở to mắt ngạc nhiên nhìn nhóc đó, không biết nói gì. Thiếu niên thấy vậy vỗ đầu nhóc:

- A Báo, không được nói lung tung, đệ muốn bán gà con kiếm tiền mà, là hắn muốn mua đó.

Nghe đến đây thì đến phiên nhóc đó há miệng, nhưng hắn rất nhanh trở mặt cười,

- A, ta không biết ngươi mua gà con, gà con ta bắt rất mạnh khoẻ, nuôi mau lớn, đảm bảo mau lớn.

Lúc này thất thúc, An ca và a Phúc đã tới, nghe câu đảm bảo này đều vui cười.

- Ngươi đưa ta xem gà con trước đi, ngươi ngồi bán ở đâu? Hay lại gần chỗ nhà ta ngồi luôn đi.

Thất thúc vừa nói vừa chỉ chỗ Cúc tỷ và Mai đang bán. Thiếu niên quét mắt nhìn qua, hơi khựng lại rồi gật đầu.

- Được.

Một đám đi tới, thiếu niên đặt gánh xuống, lom khom mở gùi lấy ra mấy con gà rừng và mấy con thỏ xếp trên đất. Gùi bên kia mở ra liền nghe tiếng chíp chíp của gà con.

- Ca, để đệ bắt cho.

Nhóc nhỏ giành lấy gùi, cẩn thận bắt từng gà con ra để vào trong rổ. Mấy con gà này đã lớn, chắc được hơn mười ngày rồi, rất hoạt bát vừa mổ rơm vừa kêu lớn. A Phúc thích mê đưa tay sờ sờ.

- Thấy không, chúng háu ăn chóng lớn.

Vừa nói hắn vừa thảy búi cỏ xanh trong gùi xuống rổ.

- Hôm trước muội dặn bảy con, ta bắt được ổ gà này mười một con. Nếu muội không mua hết không sao.

Thiếu niên nhìn Mai nói.

- Muội mua hết, muội muốn mua thêm chín con nữa, huynh bắt được không?

- Thật?

Thiếu niên chưa kịp trả lời thì nhóc đã chen miệng. Mai cười gật đầu.

- Được, ta bắt cho ngươi.

Hắn vỗ ngực cam đoan, miệng cười vui vẻ, Mai thấy hắn thật thú vị. Cô quay qua Cúc tỷ:

- Tỷ xem gà có khoẻ mạnh không?

- Được,

Cúc tỷ bước đến xem từng con gà, Mai thoáng thấy thiếu niên hơi căng thẳng, hai tay chà sát hai bên đùi, có gì không ổn sao? Nhưng mà nhóc nhỏ vẫn nhe răng cười nói:

- Đảm bảo gà tốt, đảm bảo.

Hình như hắn chỉ biết nói hai chữ đảm bảo thôi, Mai nhịn cười. Mấy con gà đều khoẻ mạnh, An ca đếm tiền trong túi đưa cho thiếu niên, bốn mươi bốn văn. Nhận tiền xong, thiếu niên nghĩ nghĩ rồi nói:

- Ta có mấy cái trứng gà, tặng nhà ngươi ăn.

Hắn nói xong thì dỡ một lớp lá trong gùi, lấy ra gần mười trứng gà. An ca xua tay từ chối.

- Không được, ta không dám nhận, huynh để bán lấy tiền.

- Không sao, ngươi lấy đi, trứng gà này trong nhà ta nhiều. Ta đi nhặt một buổi sáng là có.

Nhóc ‘đảm bảo’ ba hoa nói, sau khi thấy An ca đưa tiền, hắn nhẹ nhõm cười còn tươi hơn, chắc sợ Mai không mua gà con thật.

Mai đoán đúng rồi, trước nay chưa có ai mua gà rừng con cả, nhóc a Báo nghe ca ca mình nói có người muốn mua hắn rất hưng phấn. Tuy hắn gần mười hai tuổi nhưng cha và nhị ca không cho vô rừng đi săn. Hắn chỉ có thể săn ở bìa rừng, mà bìa rừng thì có con gì chứ? Gà rừng cũng hiếm khi mới có, nhưng mấy con gà con thì khác, chúng còn nhỏ dễ làm mồi cho thú khác. Gà mẹ khi ấp nở xong dẫn chúng xuống phía dưới chân núi gần bìa rừng để tránh nguy hiểm.

Đúng dịp hắn bắt được ổ gà con này mấy hôm trước. Hôm nay đã bán được rồi, hắn kiếm được tiền cho nhà rồi, bảo sao hắn không vui. Tặng người ta mấy trứng gà có sao đâu, người ta muốn mua thêm chín con gà nữa, ha ha hắn sẽ kiếm thêm ít tiền nữa.

Từ chối qua lại không được nên Cúc tỷ tặng một đòn đường coi như đáp lễ. Mấy đứa nhóc kéo a Báo ra phía sau hỏi cách cho gà ăn, chỗ ngủ sao, hỏi hắn thật sự biết đi săn. Hắn liếc nhìn thiếu niên rồi nói:

- Cha và nhị ca săn trong rừng, ta chỉ săn ở bìa rừng thôi. Nhưng mà hai con thỏ mập đó là ta săn đó.

Hắn chỉ hai con thỏ mập nhất nằm trên đất, vẻ mặt rất đắc ý.

- Thật?

Nhìn thấy ánh mắt mọi người nhìn mình, nhóc ha ha kể. Thì ra hôm có tiếng gầm trong rừng, nhà a Báo cũng nghe thấy, muông thú trong rừng chắc cũng hoảng sợ. Hai con thỏ mập kia chạy từ trong rừng ra, hoảng sợ thế nào mà chạy đập đầu trúng gốc cây, lăn ra ngất, a Báo ở gần đó thấy nên chỉ việc chạy đến nhặt về. Xem chương mới tai dienvan.space

Ha ha ha, cả đám ôm bụng cười, a Báo cũng cười. Mai và Cúc tỷ không nhịn được cũng cười theo, thiếu niên liếc qua rồi đằng hắng nói:

- Ở nhà bà nội chìu hắn thành quen. Ta tên La Hùng.

Ủa, hai cái này có liên quan sao? Hình như chỉ có mình Mai nhìn ra chuyện thú vị này.Chương 40: Ghe lườn (1)Bán hết đường rồi nên Mai chuẩn bị về, hẹn chợ phiên sau mua tiếp mấy con gà nữa. Hai anh em La Hùng gật đầu đồng ý. Trên đường về tiếng tranh cãi của mấy đứa nhỏ, tiếng gà chíp chíp làm rộn một khoảng không. Có vài ngôi nhà đang được dựng lên, An ca chỉ ngôi nhà ven vũng Đông Hồ nói:

- Cha kìa, cha đang dựng nhà đó.

- Đâu? Đâu?

Từ xa nhìn không rõ ngôi nhà ra sao, người ở đây đều thích dựng nhà có mặt trước là đường, mặt sau là sông rạch, đôi khi ngược lại nhưng luôn gần sông.

- Cha, cha,

A Phúc nhảy lên xuống hét gọi cha, xa quá làm sao cha nghe được, hắn nhảy mệt quay lại đùa với mấy con gà trong rổ.

- Chúng ta về nhanh, trưa nắng mấy con gà khát nước, đói bụng.

Mấy đứa nhỏ ùa nhau chạy nhanh lên phía trước, chỉ có Cúc tỷ vẫn đi từ từ phía sau, gió thổi quần áo và tóc bay phất phơ, khuôn mặt trái xoan của thiếu nữ mới lớn vẫn còn nét trẻ thơ thật ưa nhìn.

Sáng nay không ăn sáng nên về nhà đứa nào cũng đói bụng, không có nương ở nhà thế là bọn nhỏ nài nỉ Cúc tỷ làm món ăn vặt, không cần ăn cơm. Món ăn vặt ưa thích là tôm chiên, khoai lang chiên, khoai mỡ chiên hoặc chè khoai. A Phúc nhìn ổ trứng gà muốn ăn nhưng Cúc tỷ nói để chiều cha nương về sẽ cùng ăn, hắn xịu mặt gật đầu rồi lập tức vui vẻ lấy nắm gạo cho gà ăn.

Đám gà này đã lớn, tự đi quanh quanh tìm thức ăn, thất thúc, An ca và Vĩnh ca quây chúng lại trong góc sân, đóng cây nhỏ làm hàng rào, giao a Phúc cho ăn cho uống rồi cùng nhau ra ruộng. Cúc tỷ và Mai nấu đường, nấu cơm trong bếp. Mai nhìn mấy cái trứng gà nghĩ, không có gà mẹ mình làm lò ấm để ấp trứng gà được không? Không biết ấp trứng cần nhiệt độ bao nhiêu?

Mai chạy ra sân ôm con gà lớn nhất trong bầy, giữ tay dưới lườn nó, ấm hơn tay mình, mô phỏng theo cách gà ấp trứng cần làm lò ấp bằng gỗ và đất, thử xem sao. Mai lấy que tre vẽ lên nền đất ướt ở góc sân. Nhìn tới lui vẫn không ra hình dáng gì rõ ràng. Mai chỉ biết nguyên lý ấp trứng gà vịt, còn chi tiết phải tự suy diễn thêm.

Hả vit, mình có thể ấp trứng vịt luôn! Đợi nước trong vũng, trong sông cao lên chút nữa, vịt nước sẽ về theo dòng nước ngọt. Mình lượm trứng để dành ấp được rồi. Như vậy có ấp hư cũng không lỗ tiền, mà sắp có hột vịt lộn ăn nữa, hí hí.

Cúc tỷ làm xong việc dặn Mai và a Phúc trông nhà, đi ra ruộng làm cỏ cho miếng đất mới.

Chiều hôm đó cha về đến sân trước đã thấy mấy đứa nhỏ chân tay còn dính bùn quây quanh chuồng gà xem chúng ăn, cái chén mẻ đầy nước để góc chuồng.

- Lê huynh, tìm được rồi.

Là Tiêu Ân thúc.

- Ân đệ, tìm ta sao? Vào nhà đi.

Sau khi chào hỏi, mời vào nhà cha mới lên tiếng hỏi:

- Đệ tìm ta có việc gì?

- A, là hôm trước huynh cho nhà đệ mỡ thực vật đó, có mấy nhà trong xóm thấy ăn được, giá cũng rẻ nên hỏi đệ mua ở đâu. Huynh có bán nữa không?

- Có bán, đệ mua mấy ống?

- À, để xem, cái này là mười lăm văn ống lớn của nhà tam ca ta, cái này,...

Tiêu Ân thúc lấy trong túi ra mấy xâu tiền, có xâu là mười lăm văn, có xâu tám văn, có vài đồng tiền lẻ rớt ra. Mai kéo ống tay áo cha thì thầm, ông gật đầu đằng hắng nói:

- Tiêu Ân đệ, ta tính như vầy đệ xem có được không,

- Sao?

Tiêu Ân thúc ngẩng đầu khỏi mấy xâu tiền hỏi.

- Ta bán người ta là mười lăm văn ống lớn, tám văn ống nhỏ. Ta bán đệ rẻ hơn mười hai văn ống lớn, sáu văn ống nhỏ, đệ thấy sao?

- Ý huynh là...

- Đệ đi xa, tiền dư ra là công vất vả,

- Được, vậy tốt quá.

Tiêu Ân thúc cười sảng khoái đáp ứng, đi chuyến này cũng không mất công, kiếm được vài văn tiền thật tốt. Chuyện sau đó là chiết dầu sang ống tre, tính tiền rất nhanh chóng, Ân thúc vội đi về vì trời sắp tối.

Khách về rồi thì cả nhà đều vui vẻ, Mai đặc biệt vui mừng, nếu có thêm vài nhà như vậy nương sẽ không cần đi chợ xa bán, chia chút tiền cho ‘đại lý’ cũng đáng.

Thất thúc hỏi cha:

- Ca muốn dùng cây thốt nốt già ở bìa rừng làm gì?

- À, ca thấy thân trên chưa mục nên kéo về để dành, đệ và a Bình kéo phụ ca, đi.

Cây thốt nốt già được kéo về đặt trên sân, gốc cây bị mục gần một nửa, chắc vì vậy nên khi gió lốc nó ngã theo. Thân cây thật to, một vòng tay Mai ôm không hết, vỏ sù sì đen sạm. A Phúc nghịch ngợm ngồi lên thân cây như cưỡi ngựa, cười ha ha.

Lúa đã cao qua đầu gối, bắt đầu đẻ nhánh. Mỗi ngày cha đều ra thăm ruộng, nương cũng vậy, nhổ cỏ, đắp bờ, canh nước không bớt việc. Đặc biệt từ hôm cha theo Bùi ông dựng nhà càng bận rộn hơn. Miếng đất mới khai hoang cũng tốn không ít công sức. Mới hôm trước nhổ sạch cỏ thì chỉ cần một cơn mưa cỏ lại mọc lên, rễ lan rộng dưới đất chằng chịt. Sức người lớn trong nhà mới đào lên hết được. Mấy lần rễ cỏ làm đứt tay, vết chai ở lòng bàn tay càng nhiều.

Chiều nay Mai ngồi trên thân cây thốt nốt nhìn a Phúc cho gà ăn, mấy con gà thật tham ăn. Chúng ăn suốt ngày, hình như không biết no. A Phúc cho ăn xong thì đến chỗ Mai ngồi nhảy lên cây giậm mạnh xuống.

‘Bụp’ thân cây thủng một lỗ, bàn chân hắn lọt vô trong kẽ, hắn kéo chân ra, nhăn mặt nhìn vết trầy ở mắt cá chân. Mai lấy tay bóc lớp vỏ bụp ra, không phải chỉ mục dưới gốc mà dọc theo thân cây đều bị đυ.c lỗ chỗ.

- Bình ca, Bình ca.

Mai chạy ra ruộng kêu Bình ca, kéo hắn vào sân xem cây thốt nốt.

- Ca, ca đυ.c làm ghe lườn được không?

A Bình xoay xoay thân cây xem xét,

- Cây này cũng không còn tốt nữa.

- Không sao, ca làm ghe nhỏ mình đi chợ làng thôi, cũng không tốn tiền.

Ừ, tốn chút công nhưng không phải tốn tiền. Mùa mưa dùng ghe đi lại thuận tiện hơn nhiều. Có nhiều đoạn đường nước ngập sâu qua khỏi eo phải lội qua, ướt hết cả quần áo.

- Được, để chiều ca nói với cha.

Cha xem xét thân cây xong nói:

- Cha hỏi Bùi ông mượn cái đυ.c, mình chỉ làm vào lúc nghỉ trưa và tối thôi. Gần đây không thấy ai làm ghe này, phía Cần Bột nhiều người dùng hơn.

Ông chưa từng làm ghe lườn bao giờ, chỉ thấy nhiều đàn ông trong làng người Chân Lạp sống trong vùng nước ngập làm. Phải chọn cây thốt nốt già, thân đủ lớn. Cây thốt nốt sống mấy chục năm, gỗ rất cứng. Đυ.c ghe lườn rất tốn công, đốn cây, ngâm nước cho bền hơn. Rồi dùng đυ.c từ từ trong thân tạo thành khoảng trống làm lòng ghe, không được sâu lắm nhưng cũng đủ để ít đồ. Ghe lườn nhỏ dài dễ luồn lách trong các con rạch nhỏ. Xem chương mới tại dienvan.space

Nhà mình chưa có tiền mua ghe, mấy đứa nhỏ đi đâu phải lội sình, chân cẳng suốt ngày lấm lem. Hai đứa con gái còn vất vả hơn, vừa nghĩ tới trong lòng Lê tứ hơi khó chịu. Gắng sức thêm mấy năm nữa đóng một chiếc xuồng ba lá cho tụi nhỏ mới được.

___________________________

(1): Ghe lườn hay còn gọi là ghe độc mộc do người Chân Lạp dùng thân cây thốt nốt đυ.c một nửa thân cây làm thành. Ghe lườn nhỏ dùng để di chuyển giữa các mương rạch hoặc vùng ngập nước mùa nước nổi, chỉ chở một hai người và ít đồ đạc.

Vẫn còn một câu hát ru con truyền đến bây giờ:

Ầu ơ,... con nước lớn tràn đồng,

Bớ chị ghe lườn muốn tía tui hông?

Tía tui lịch sự lịch sàng,

Cái lưng mốc thích cài đầu chôm bôm,

Uống rượu rồi ngã tới ngã lui,

Chúi đầu vô bụi, ló chân ra ngoài!Chương 41: La Hùng huynh thật biết tận dụng cơ hộiHôm sau là ngày chợ phiên, Mai không bán đường mà chỉ đi chợ mua thêm gà con từ La Hùng huynh nên chỉ có An ca và Mai đi. Thất thúc ở nhà dùng dao đẽo cây thốt nốt trước, trưa cha mang đυ.c về làm tiếp công đoạn khác.

Hôm nay La Hùng huynh và a Báo rất đúng hẹn, đến sớm hơn hôm trước. Nghe cha nói từ Bình San đến chợ làng phải đi bộ một quãng đường dài. Sau đó là đi ghe từ phía trong làng ra nữa. Hai anh em đến đây sớm như vậy chắc là dậy từ canh tư.

Nhìn hai người chỉ mặc áo ngào dài tay, mang giày dây gai, đội nón lá đơn bạc như vậy, thật sự không lạnh? Con người thích nghi rất tốt với hoàn cảnh xung quanh, “ở bầu thì tròn, ở cuống thì dài”.

Hùng huynh chỉ thấy hai đứa nhỏ thì hơi thất vọng, ‘mình nhìn nhầm sao!’ Mai nhủ thầm, huynh ấy muốn gặp ai? A! A, biết rồi.

Mai cười tủm tỉm hỏi:

– Hùng huynh chờ ai sao?

Free Domain Name with every hosting package.

– Đâu có, đâu có.

Ha ha, không thành thật! A Báo thì cười tươi rói kéo An ca ra phía sau, mở gùi bắt từng con gà ra. Mấy đứa con trai thật mau thân thiết, mới gặp lần trước mà giờ đã thân thiết như vậy. Mà tính tình a Báo thật ngộ, giống như chưa từng có bạn, gặp mấy anh em nhà Mai cứ huyên thuyên.

– Thấy không? Chúng còn khoẻ mạnh hơn mấy con lần trước, mười con.

An ca nhìn mấy con gà đang mổ cỏ, đúng là lớn hơn ổ gà trước, hắn hơi khó xử nói:

– Ta chỉ còn tiền mua chín con thôi, con kia, …

– Biết biết, con đó ta tặng cho ngươi, không lấy tiền,

A Báo sảng khoái đáp, còn lôi một lớp lá trong gùi ra, dưới đó là gần chục trứng gà.

– Cái này cũng cho ngươi luôn. Bà nội nói chúng ta không nên nhận đường của nhà ngươi, dù sao đã nhận rồi nên tặng lại cái này.

Hai đứa nhỏ nói qua lại, a Báo rất nhanh nhẹn, hắn lấy gà và trứng đặt vào trong rổ cho An ca rồi vỗ vỗ hai tay ‘xong việc’. Mai buồn cười nhìn, chắc ở nhà bà nội hắn giao việc này cho hắn, dặn phải làm xong.

La Hùng chắc hai mươi tuổi rồi. Ở đây thiếu niên mười bảy, mười tám là đã có vợ, có con. Tuổi huynh ấy đã coi như “ế” rồi. Là do hoàn cảnh hay huynh ấy kén chọn?

Qua mấy lần tiếp xúc, Mai thấy tính huynh ấy trầm tĩnh, làm việc cũng được, nói ít nhưng nói là làm. Mặt mũi rất “đường đường chính chính”, đúng dạng mặt chữ điền cứng cỏi của đàn ông. Hơn nữa huynh ấy cũng tính là có tài. Cha nói muốn vào rừng săn bán phải thạo nghề bắn cung, có võ nghệ; còn phải biết nhìn hướng đi, theo dõi dấu vết con mồi. Thịt rừng luôn mắc hơn, thợ săn giỏi sẽ

sống

rất tốt nhưng nguy hiểm cũng không nhỏ nên nhiều người muốn đi săn mà không dám.

Nghe a Báo nói hắn đã bắt đầu học săn bắn từ nhỏ, La bá phụ thật là thợ săn có nghề. Mai ngước nhìn dãy núi Bình San phía bắc nhấp nhô như dãy tường thành che cho vũng Đông Hồ. Màu xanh thẫm của rừng cây cổ thụ chứa nhiều bí mật hiểm nguy mà con người chưa biết.

Mai lại liên tưởng đến chuyện hôm trước, là ở gần Bình San sao? Cô chỉ nhớ mang máng là vùng đất này cọp, beo, gấu, mãng xà, trăng đều có. Nhưng ba trăm năm sau bojn chúng đã bị con người dồn vào thế yếu, phải tránh thật xa. Còn hiện tại, con người chưa có vũ khí chống lại, phải dè chừng bọn chúng rồi.

Lúc Mai đang miên man suy nghĩ thì a An vui vẻ đếm tiền đưa cho a Báo. Hai anh em nói thêm mấy câu rồi về. Mai liếc gương mặt La Hùng mất hứng nhìn theo hơi buồn cười. A Cúc nhà cô cũng lợi hại quá, mới một lần gặp đã bắt mất hồn người ta rồi.

Vừa ra khỏi chợ thì trời bắt đầu mưa, lúc đầu còn thưa sau đó lộp độp lớn dần. Quay lại chợ tìm chỗ núp mưa hay chạy nhanh về nhà? Hai đứa nhỏ nhìn rổ gà con phân vân, gà mắc mưa sẽ dễ bệnh chết. Đang định quay lại chợ thì gặp hai anh em a Báo.

– Đưa gà đây.

Hùng huynh bắt gà bỏ lại trong gùi, bẻ nhánh cây bên đường che sau đó còn cởϊ áσ phủ lên, mấy động tác diễn ra lưu loát. Mai không kịp phản ứng, mở to mắt nhìn nửa thân trên trần của huynh ấy!

Khinh người quá, cô là con gái mà, sao huynh ấy ‘thoát y’ không ngại ngùng vậy chứ!

– Trong chợ đã tản hết rồi, a An, đệ dẫn đường ta chạy nhanh về nhà, gà gặp mưa lâu sẽ lạnh chết. A Báo đi sau với Mai.

Hùng huynh thật quyết đoán a, lo cho gà hơn mình! Mai than thở gật đầu với An ca.

– Ca đi nhanh, muội theo sau.

Hùng huynh đưa gùi còn lại vẫn còn một con gà rừng, hai con thỏ chưa kịp bán cho a Báo, rồi chạy nhanh với An ca. Mưa nặng hạt hơn, đường đất vừa trơn vừa nhão, đôi giày nặng trịch. A Báo đi rất nhanh, hắn đã treo đôi giày lủng lẳng ngay miệng gùi đang đeo sau lưng, bản thân thì xăng quần lên cao quá đầu gối. Đi một lát hắn quay lại thấy Mai chật vật chậm chạp phía sau có vẻ mất kiên nhẫn nhíu mày.

– Ngươi bỏ giày ra, xăng quần lên giống ta nè, chậm như vậy chắc tới chiều chưa tới nhà.

Gì chứ, không ai nói cho hắn biết là con gái không được làm thế sao? Mai mặc kệ hắn, bẻ nhánh cây bên đường làm gậy chống đi tiếp. Mưa lớn mà trời vẫn nắng, cái kiểu vừa ướt mưa vừa ấm áp cũng không tệ lắm! Mai liếc nhóc đi trước một đoạn thì đứng lại dậm chân chờ cô mà buồn cười! Tuy hắn không đủ kiên nhẫn nhưng cũng không bỏ mặc Mai mà chạy trước, cũng tạm được!

Đi được hơn nửa đường thì mưa tạnh, ánh mặt trời rạng rỡ hơn, đường vẫn nhão nhẹt trơn trợt nên đến giờ tỵ cô mới về nhà. Vĩnh ca thấy Mai thì chạy đến nắm tay cô hỏi:

– Lạnh không? Có té không?

– Muội không sao.

Mai để mặc a Báo nhăn mặt đứng đó, đi vào trong nhà thay quần áo, thân thể này vẫn gầy nên sợ lạnh, phải cẩn thận không để bệnh. Lúc Mai vào bếp thì hai anh em đã ngồi trên sạp tre uống nước mật ong gừng ấm nóng, có vẻ rất thỏa mãn.

La Hùng đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà, cảm thấy rất thoải mái. Bếp lửa tí tách làm không khí ấm áp hơn. Trong lòng bỗng dâng lên cảm giác thân thiết. Thất thúc ngồi đối diện nói:

– Ta không thể nhận gà, thỏ này được. Ngươi đã mang gà con về dùm là quý lắm rồi.

– Không sao, đem về nhà cũng không còn tươi, huống hồ nhà ta muốn ăn sẽ đi săn về, trong rừng có nhiều.

Thất thúc nói Cúc tỷ gói đường, mật ong và gừng cho Hùng huynh, còn nói cách pha nước mật ong gừng cho hắn. Hắn nhận đường và gừng, nói là mật ong nhà hắn có. Hắn xin một ít muối; đúng rồi, nhà hắn gần rừng nên thường thiếu muối.

Đã qua giữa giờ tỵ mà La Hùng vẫn chưa muốn về. Hắn hỏi thất thúc đủ chuyện. Còn a Báo đã đứng dậy theo mấy đứa con trai ra xem chuồng gà, xem vườn rau. Tiếng cười nói ha ha của mấy đứa nhóc vang vang.

Sao Mai có cảm giác dẫn sói về nhà. À mà con sói này lợi dụng thời cơ vào nhà chứ! Mà còn giả bộ làm con sói tốt bụng nữa!Chương 42: Nghề thợ mộcNgày hôm sau, lúc ăn cơm chiều cha nhìn mấy đứa nhỏ, ậm ừ rồi lại im lặng, nương nhíu mày nói:

– Có việc gì chàng nói đi, chiều giờ cứ làm ta lo lắng.

– À, nhà mình mượn đυ.c bào của Bùi ông hoài cũng không nên. Ta có hỏi đặt làm mấy món, hỏi thử thôi,… hơn mười quan. Nàng và mấy đứa tính sao?

Cả nhà yên lặng nghe cha nói tiếp.

– Bùi ông nói sắp tới sẽ có nhiều người đến dựng nhà, Bùi ông sẽ dẫn cha theo học làm, chỉ là dụng cụ ta phải tự đặt làm, không thể mượn của Trăng thúc được. Cha tính làm thêm nghề này cũng có thêm tiền, đến ngày mùa thì không làm, giống như Bùi ông, a Bình sau này có thể theo cha học.

Lần đầu Mai thấy cha nói dài như vậy, xem ra cha rất muốn làm nghề thợ mộc. Như vậy rất tốt, có câu một người tính chín người làm, cha có tính toán tương lai cho nhà mình, sẽ vất vả hơn người ta, bù lại

cuộc

sống

sẽ tốt hơn.

Free Domain Name with every hosting package.

– Nhà mình đủ tiền không nương?

Đây là điểm chính, thật ra Mai tính sơ cũng biết chưa đủ mười quan.

– Không đủ, nhà mình có gần tám quan. Ta vào lấy tiền.

Nghe vợ con nói vậy có nghĩa là đồng ý đặt mua đồ rồi. Lê tứ thở dài nhẹ nhõm, mặc dù ông là chủ gia đình nhưng tiền kiếm được đều có phần của vợ và mấy đứa nhỏ. Hơn tháng nay mấy đứa nhỏ theo ông vất vả, giờ muốn lấy tiền mua dụng cụ, biết là ông kiếm tiền cho nhà, nhưng ông cũng áy náy không dám quyết.

Từ nhỏ ông đã thích đóng đóng, gõ gõ. Thấy thợ cả, thợ phụ dựng nhà, đóng đồ ông hay đi theo nhìn. Nhìn nhiều, rồi làm thử, từ từ quen tay cũng làm cho người ta. Nhưng không có ai dạy làm đàng hoàng, cũng không có chính thức được là thợ phụ. Bây giờ có Bùi ông lên tiếng dẫn ông theo, không được tính như Trăng đệ – con trai Bùi ông – nhưng cũng có cơ hội học thêm.

Ông vui mừng hớn hở trong lòng. Lúc nghe nói cần mười quan đặt làm dụng cụ ông hơi thất vọng. Số tiền lớn như vậy đủ cho nhà nông xài hai ba năm. Ông biết trong nhà có ít tiền, có nên mua không? Phân vân trong lòng mãi!

Bùi ông là thợ mộc chuyên dựng nhà, đóng đồ dung trong nhà. Nhà Chư-rui ở làng Thạch làm đồ dùng nhà bếp hay trang sức. Còn có người đóng ghe xuồng đi sông, đi biển. Làm cái nào cũng kiếm được tiền, đóng ghe xuồng lại càng tốt, những nhà có xưởng đóng ghe đều là phú hộ, đương nhiên là vất vả hơn nhiều.

Nếu mình có bộ đồ nghề sẽ làm được ít tiền, từ từ học thêm sẽ lên tay. Bùi ông cũng hay nói mình khéo tay, cẩn thận; còn a Bình cũng làm được. Hai cha con làm, có thất đệ theo nữa. Vừa làm ruộng có lúa gạo, làm thêm nghề này, cố gắng chịu cực vài năm trong nhà sẽ khá lên. Dựng vợ gả chồng cho mấy đứa sẽ không quá thiếu thốn. Hay là cứ thử?

Ông không nghĩ vợ con nghe xong đã đồng ý, không hỏi han hay thắc mắc gì cả. Cái này thực làm ông xúc động, trong lòng thật ấm áp.

Cả nhà ngồi đếm lại tiền thiếu bảy mươi văn là tám quan, nương lẩm nhẩm rồi nói:

– Bán hai ba lần chợ phiên nữa, mà cũng giữ lại ít tiền trong nhà mới được.

– Vậy chờ tháng sau đủ tiền rồi đặt làm dụng cụ.

Cha cũng đã tính trước nên nhẹ nhàng nói, đúng là ông thích làm thợ mộc, đã chờ bao nhiêu năm rồi, thêm một tháng nữa có là gì, trong nhà cần có tiền dự phòng.

– Cha, người ta làm dụng cụ đó trong bao lâu? Mình trả trước một phần được không?

Đúng rồi, dù sao ông chưa từng đặt mua dụng cụ bao giờ nên không nghĩ đến cái này. Ông nhìn con gái nhỏ cười nói.

– Cha nghĩ được, ngày mai cha sẽ hỏi Bùi ông.

Thợ rèn thời này còn hiếm hơn thợ mộc, mấy làng lớn hoặc ở trấn mới có. Nghe Bùi ông nói có nhà thợ rèn trong chợ Sông Lớn, tay nghề cũng tốt. Có một nhà làm rèn mấy đời ở tận Lũng Kỳ, làm được cả đao, kiếm, cung tên cho thợ săn hoặc cho quân lính quan phủ.

Việc lớn bàn xong cả nhà ngủ sớm, mấy ngày tới làm việc kiếm thêm tiền nữa. Lúc nãy cha kéo thất thúc và Bình ca ra dặn dò chuyện đυ.c ghe lườn. Xem ra cha muốn hai người theo cha học làm thợ mộc. Bình ca cũng rất khéo tay, đυ.c đυ.c gõ gõ cũng ra hình ra dạng. Còn thất thúc, Mai hơi mỉm cười nghĩ. Thúc ấy chẳng có chút khéo léo nào, chỉ là mạnh khỏe, chắc nịch là dân đi biển chính hiêu. Ừ, mà làm thợ mộc cũng cần phải khỏe mới được. Thời này tất cả đều dùng sức người, đốn gỗ, kéo gỗ từ rừng về, cưa, xẻ. Trời, mới nghĩ tới mấy cây gỗ lớn mà phải tự mình kéo về là thấy mỏi rồi.

Nghĩ một lát Mai chợt thấy hưng phấn, nếu có dụng cụ làm ghe lườn, sao nhà mình không tiến tới đóng ghe xuồng luôn? Không phải đi đặt người ta làm, tốn tiền, gỗ thì vô rừng kéo về. Nếu làm được thì sẽ không lo thiếu tiền, mà nghề này ổn định, không sợ không ai mua. Đây là cách kiếm tiền mà mình đang tìm, không phải sao? Mai càng nghĩ càng thấy có tương lai. Bắt đầu từ ngày mai mình phải tính toán chuyện này.

Nửa đêm gió mạnh dần, mưa rơi lộp độp, phòng cha nương có tiếng mở cửa, cha ra ngoài xem che mưa chuồng gà, lại lo nên bắt chúng đặt trên ổ rơm tránh mưa ướt.

Tháng sáu mưa nhiều hơn, không khí ẩm ướt, lúa gặp nước ngọt, có mưa tắm mát nên lớn nhanh, thân mập, lá xanh mướt như khích lệ người nông dân sau thời gian vất vả. Trên ruộng không thiếu bóng người nông dân ra thăm lúa, canh nước, nhổ cỏ, bắt ốc.

Thất thúc về nhà nội mấy ngày lại quá giang ghe vào. Ông bà nội nghe nói nhà Mai đặt mua dụng cụ làm mộc rất mừng. Ông bà biết cha muốn làm thợ mộc, trước đây không có điều kiện thì đành chịu. Bây giờ có cơ hội này phải cố gắng. Nội nhắn thất thúc ở trong này phụ nhà Mai, làm ruộng hay làm thợ đều được. Nhà nội cũng không thiếu người làm việc.

Sáng nay tứ Mi mang một rổ nấm tràm qua. Phía bên kia nhà tứ Mi là mảng rừng tràm kéo dài đến bờ sông, mùa này nấm tràm bắt đầu mọc lên rất nhiều. Nấm tràm màu nâu như vỏ cây tràm già, thân mập làm được đủ các món ăn ngon. Mỗi năm khi mùa mưa đến, vỏ cây tràm ẩm là nấm lại mọc lên. Có khi nấm mọc từ lớp lá, vỏ tràm dưới đất thành từng đám lớn.

– Nhà muội làm món gì?

Mai lấy rổ nấm sang qua, trả lại rổ tứ Mi hỏi.

– Nương xào tôm nõn hôm qua Bình ca bắt.

– Ừ, nhà tỷ chưa ăn tôm, chắc xào nấm luôn. Muội đi đào măng chưa? Hôm nay ta và Vĩnh ca đi.

– Vậy muội đi chung với, ăn cơm trưa xong muội qua.

– Được,

Tương huynh đi chành hơn mười ngày, nhà Lưu bá ít người, Bình ca đi bắt tôm trên sông đều bắt thêm một phần cho nhà Lưu bá. Nghe Lưu bá mẫu nói tháng sau Tương huynh về sẽ mua ghe. Lưu bá và Tương huynh sẽ thay phiên làm lái chợ Sông Lớn, kiếm thêm chút tiền lúc nông nhàn. Nhà Lưu bá làm năm mẫu đất. Ngày thường tam Mi và bá mẫu đan rổ, đan giỏ gửi cậu tứ Mi bán lúc đi chành, giờ lại thêm làm lái nữa, thật là chịu khó làm ăn. Đọc chương mới tại dienvan.space

Không có Tương huynh thì mấy việc bắt tôm, bắt cua thường do tụi con trai làm đều nhờ mấy đứa nhà bên này làm. Không thể để tam Mi, tứ Mi dầm mưa lội sông được.Chương 43: Dì dượng năm đến thămTứ Mi đi về, Mai đặt rổ núm tràm trên sàn cây ngoài bếp thì nghe tiếng tứ Mi nói vọng vào.

– Mai tỷ, có khách tìm.

– Ra liền.

Ai mà tìm nhà mình, là Tiêu Ân thúc sao? Vừa nghĩ cô vừa ra ngoài. Trên cầu nước có người đàn ông đang buộc ghe, nhìn rất lạ, cô chưa gặp bao giờ. Buộc ghe xong ông bước xuống ghe nói vọng vào trong.

– Nàng xong chưa? Không phải đã dọn tối qua rồi.

– Chàng mang giúp ta đi.

Free Domain Name with every hosting package.

Tiếng người đàn bà trẻ vang lên, âm điệu nghe hơi quen. Thiếu phụ nhìn thấy Mai đứng bờ rạch thì tươi cười gọi:

– A Mai, đã lớn vậy sao? Nhớ dì năm không?

À, dì năm là em gái út của nương sao, hèn gì giọng nói hơi quen. Mai khoanh tay thưa dì, dượng năm.

– Nương trong nhà, con đi gọi nương.

Lúc nương cùng Cúc tỷ đi ra thì thấy hai người ôm hai túi vải lớn đi vào. Nương vội đi lên đỡ, nắm tay dì nói:

– Sao biết nhà tỷ, muội khoẻ không?

Dì năm không xúc động như nương mà cười vui vẻ trả lời:

– Nhị ca chỉ đường, muội đến đây là biết khoẻ rồi.

Quay sang nói với người đàn ông bên cạnh:

– Chàng còn nhớ tam tỷ không đó!

– Tam tỷ khoẻ.

Giọng nói lơ lớ của người Tàu di cư đến đây, lần đầu

tiên

Mai nghe nên hơi lạ tai. Mai nhìn kỹ hơn, dáng người vừa tầm, không mập không ốm, da cũng hơi ngăm đen. Nếu không nhìn kỹ đôi mắt hơi nhỏ và nghe giọng nói thì khó biết là người Tàu. Đôi mắt nhỏ nhưng lấp lánh tinh anh, đôi mắt không láo liên nhưng lại quan sát rất nhanh ngôi nhà và người trong nhà. Chắc dượng cũng không ngờ có người đang quan sát mình.

Mấy ngày trước dì dượng đến thăm ông bà ngoại mới biết chuyện nhà Mai. Dượng làm nghề mua bán trên ghe; mua hàng hoá từ Cù Lao Phố (1) về bán ở các làng gần đó. Đây là lần đầu dì dượng đi xuống vùng này. Dì kể mấy chuyện nhà ngoại rồi chuyện dì dượng đi buôn bán ở đâu trong hai năm qua cho nương nghe. Sau đó mở cái túi vải to hơn ra, đem ra ba đôi giày vải xanh đậm, cái lược gỗ đưa cho nương:

– Cái này nương và muội làm cho ba mẹ con tỷ, lược này cũng vậy, răng lược mài kỹ không bị đứt tóc. Tỷ cắt tóc mượn sao?

– Ừ, mới cắt mấy hôm trước cho a Cúc.

Mấy hôm trước nương nhờ Lưu bá mẫu sang cắt tóc mượn cho Cúc tỷ, tóc nương giờ chỉ dài qua vai, ở nhà hoặc ra ruộng nương chỉ kẹp tóc, quấn khăn. Lúc đi ra ngoài nương mới dùng tóc mượn của bà ngoại búi sau đầu.

Tóc mượn cắt ra được chải gội sạch sẽ, hong nắng sớm mấy ngày, uốn thành vòng gói kỹ cất đi. Lúc con gái sắp xuất giá người mẹ sẽ dạy con gái cách búi tóc, vấn tóc theo kiểu thiếu phụ. Nếu tóc con gái không đủ dài, đủ dày thì dùng tóc mượn của nương nối vào để búi tóc đẹp.

Mấy gói còn lại là gia vị, có một bình dầu thắp không phải dầu lửa mà là dầu đậu phộng; còn có một gói kẹo đường và mứt hạt sen, mứt khoai lang.

– Trên ghe có mấy túi đậu, nhị ca nói nhà tỷ có trồng đậu, khoai nhưng muội cứ chở đến tỷ thiếu thì lấy làm giống hoặc nấu chè cho mấy đứa nhỏ ăn.

– Dượng và muội đến đây là được rồi, đem theo đồ làm gì, nặng nề.

– Có nặng gì đâu.

Dượng năm mỉm cười nghe hai người nói chuyện cũng không xen vào, thỉnh thoảng nhấp ly nước ấm.

– Không thấy tỷ phu đâu?

– Chàng đi phụ dựng nhà mới trong làng, ta bảo a An đi cho chàng hay rồi. Trưa nay về ăn cơm với dượng. Trưa nay muốn ăn gì?

Nói rồi nương kéo dì năm xuống bếp, chắc muốn nói mấy chuyện riêng tư. Dượng năm thấy vậy cũng ý tứ đứng lên kêu Mai dẫn ra ruộng xem. Mai lấy nón lá đưa dượng rồi cùng ra ngoài.

Lúa đã cao gần tới hông, mặt nước ruộng cỡ hai gang tay, cá con, cua đồng, tôm rủ nhau xẹt ngang xẹt dọc trong gốc lúa như chơi trốn tìm. Thấy bóng người đi tới lặn xuống làm đυ.c nước. Mai không biết dượng muốn xem gì nên dẫn ra bụi cây lớn, chỉ xung quanh:

– Nhà cháu có ba mẫu từ chỗ cây thốt nốt đó đến chỗ thất thúc và Bình ca đó, đang khẩn hoang thêm miếng đó.

Dượng thấy Mai chỉ về hướng có mấy đứa nhỏ đang nhổ cỏ, đào rễ thì cúi xuống cởi giày vải để trên gốc cây.

– Ta đến đó làm một chút, còn sớm.

– A, dượng biết làm ruộng sao?

Mai buột miệng nói. Dượng không nói chỉ liếc cô nghĩ ‘bé con nhanh miệng, ta mà không biết làm ruộng liệu có cưới được dì năm ngươi không? Cũng phải ở rể, làm cỏ chai tay đó.’

Dượng quả thật biết làm, cũng có sức. Đến trưa thì cha về, đi ra ruộng nói:

– Dượng vô nhà nghỉ đi, từ từ ta làm cũng xong.

– Tỷ phu về rồi.

Hai người vừa hỏi thăm vừa đi vào nhà, mấy đứa nhỏ chạy trước rửa mặt rửa tay. Cơm trưa chia hai mâm, nhà trên là cha, dượng, thất thúc và Bình ca; còn lại ngồi sạp tre ở bếp. Tính tình dì năm cởi mở hoạt bát nên bữa cơm náo nhiệt hơn hàng ngày. A Phúc bị dì bẹo hai bên má chắc đau nên hắn ngồi nhích xa ra, bĩu môi ăn cơm làm mọi người càng buồn cười.

Tuy vào đây a Phúc cũng giúp làm mấy việc lặt vặt nhưng có nương ép ăn ép ngủ, hắn đã tròn lên một chút, tay chân cũng có thịt, không khẳng khiu, gương mặt tròn tròn da thịt mát rượi. Thất thúc cũng hay ghẹo hắn.

– Cắt đầu ba vá cho a Phúc đi, nhìn giống chú tiểu trong chùa, trắng trắng mủm mỉm.

Cách làng chài một quãng có ngôi chùa của người Chân Lạp, chú tiểu và Vãi trong chùa không đi đánh cá chỉ trồng ít rau, khoai làm lương thực nên mấy chú tiểu trắng mập hơn mấy đứa nhỏ làng chài. Người Chân Lạp rất xem trọng sư vãi, mỗi ngày đều đến chùa chiền cúng dường bái lại. Có một số gia đình đem con gửi vào chùa học chữ, học đạo. Khi lớn lên có thể tịnh tu như sư vãi hay hoàn tục lập gia đình đều được.

Mỗi lần a Phúc nghe vậy hắn đều bĩu môi, ngó lơ thất thúc mấy ngày.

Nhà mới trong làng dựng gần xong nên cha báo Bùi ông nghỉ ở nhà đãi dì dượng. Ăn trưa xong, Cúc tỷ dọn mứt khoai lang, hạt sen cả nhà vừa ăn vừa nói chuyện, dượng năm nhìn dì một cái rồi nhẹ giọng nói:

– Nhị ca nói nhà tỷ phu muốn bán đường và mỡ thực vật, ta và a Trà cũng đi mấy làng gần Cù Lao Phố bán hàng. Tỷ phu muốn gửi bán không?

Đương nhiên là muốn bán rồi, chỉ là đi từ đây đến đó hai ba ngày, quả thật không tiện. Dầu dừa để lâu sẽ có mùi làm thức ăn không ngon.

– Cha, tháng sau nhà Lưu bá đóng ghe làm lái chợ Sông lớn mấy ngày chợ phiên. Ngày khác mình mượn ghe đi nhà ngoại về kịp không?

Bình ca hỏi.

– Sợ không kịp, cũng không thể mượn ghe Lưu bá riết.

Xem ra là không được rồi.

– Từ từ tìm cách đi. Tiền này nương bán lần trước dùm tỷ đó.

Dì năm thấy mọi người bàn tính không xong, chán nản nên cắt ngang nói, đưa cho nương túi tiền.

– Nương có giữ lại phần ta gửi tặng không?

– Đương nhiên là có rồi, lần nào lấy ra ăn cũng vui cười nói do cháu ngoại hiếu thảo cho đấy.

Dì cười ha ha nói làm cha nương cũng vui vẻ. Cha mẹ biết con

sốngtốt, dùng đồ con cháu biếu ít nhiều đều thấy vui. Con cháu hiếu thuận ông bà nghe vậy ai chẳng thích. Đọc chương mới tại dienvan.space

– Hôm trước đặt làm dụng cụ còn thiếu hơn một quan, giờ có tiền này cũng yên tâm rồi.

Dì dượng chỉ ở lại mấy ngày nên nhà Mai tranh thủ nấu đường, nấu dầu gửi theo bán, chỗ ngủ cũng phải sắp xếp lại. Mấy đứa con trai ra ghe ngủ, cha và dượng ngủ ván gỗ nhà trên, nương và dì ngủ trong phòng. Đợi mấy hôm có dụng cụ cha sẽ đóng thêm một bộ ván bên trái nhà trên cho khách.Chương 44: Mạc thị quan nhânCuối tháng sáu mưa nhiều, bầu trời lúc nào cũng như cuộn bông ngậm nước, sẵn sàng trút xuống bất cứ lúc nào. Ruộng lúa, vườn rau và miếng đất vừa khai hoang trồng đậu, khoai xanh mơn mởn, tràn đầy sức

sống. Chen giữa màu xanh là màu vàng của bông mướp, màu tím của bông rau muống.

Nước trên rạch, mương quanh nhà đã gần đầy, lên xuống theo thuỷ triều. A Phúc thích nhất là mỗi chiều nhảy xuống con rạch nhỏ tập lội. Ở làng chài hắn chỉ được tắm ở gần bờ biển, hay bị sóng lớn dập vào bờ. Ở đây có thể lội dọc theo con rạch, khi có mấy ca ca tắm chung, hắn có thể ra rạch lớn trước nhà.

Cha chặt hai bẹ dừa nước làm phao cho a Phúc, mấy ngày sau là A Phúc biết lội rồi. Ngày nào hắn cũng lặn hụp dưới rạch, thỉnh thoảng mò mấy con vọp ở trong gốc dừa nước đem về cho nương luộc ăn cơm.

Mai muốn tập lội nhưng nương không cho, con gái không thể xuống rạch tắm như con trai được. Mai đành nói:

– Vậy lỡ con rớt xuống sông thì làm sao? Sẽ chết chìm luôn!

– Nói bậy bạ, xui xẻo. Con làm sao rớt xuống được?

Mai giả dụ nhiều trường hợp như đi đường trợt chân té, đi ghe lúc trời mưa, vân vân thì nương mới đồng ý. Tắm song rạch thì rất thích nhưng người hôi bùn non, nhất là tóc. Mỗi lần tắm xong phải gội mấy lượt bồ kết mới sạch. Lúc trước Mai đã học bơi nên học lại cũng nhanh. Cơ thể nhỏ sức yếu nên chỉ bơi đoạn ngắn, dù sao ở rạch hoặc sông nhỏ cũng không chìm được.

Chiều hôm đó nhà có khách là Dương ông trưởng làng. Mai chợt nhớ chuyện văn tự ba mẫu đất. Lúc người lớn nói chuyện trong nhà trên, Mai giả vờ cho gà ăn gần cửa nghe.

– Văn tự chưa có, nghe nói bên Chân Lạp không quản xứ này nữa. Haiz,… mấy làng xung quanh đây đều lo lắng, nghe nói văn tự đã có trước đây có thể bị huỷ luôn.

Dương ông thở dài nói.

– Giờ tính sao?

– Phải chờ thêm coi sao.

Dượng năm nghe xong góp lời:

– Mấy tháng gần đây nghe đồn Tân Quốc Vương lên ngôi ban vùng này cho Mạc thị quan nhân cai quản, thực hư không rõ.

Dương ông hơi giật mình hỏi

– Mạc thị quan nhân ở Nam Vang (1) sao?

– Phải, ta có biết mấy người cùng nguyên quán Quảng Đông với ông ta nói lâu lắm rồi họ cũng gặp ông chỉ nghe tin tức thôi. Nghe nói Mạc thị quan nhân giao du rộng rãi khắp các vùng tự Lũng Kỳ (2) đến Cà Mau, từng ra đảo Coh Tral (3), đi Xiêm La (4) mấy năm.

Dượng nói là không rõ thực hư nhưng nói chuyện rất hào hứng, ha ha ha, chắc đây là chuyện ‘tám’ của mấy người đàn ông khi tụ tập.

Cha ít ra ngoài, nghe chuyện càng lo lắng:

– Có ảnh hưởng đến chúng ta không?

Dương ông có vẻ lão luyện hơn nói:

– Lo gì, dân quèn như chúng ta họ chẳng để tâm đâu, nộp thuế đầy đủ là được. Ông ta quản thì quản, mà ta nghĩ thà như vậy còn yên tâm hơn, giặc cướp đến còn có người đứng ra chống đỡ.

– Dương bá nói phải, là ai cũng thu thuế. Ta nộp cho ai cũng vậy.

Xem ra cần vài năm nữa thì Vũng Đông Hồ này mới trở thành Trấn

HàTiên

thịnh vượng. Nhà Mai lúc đó cũng có căn cơ ở đây, sẽ

sống

tốt. Bây giờ mình chịu vất vả tích luỹ, lúc đó sẽ có cơ hội phát tài.

Nói thêm vài chuyện làng xóm nữa thì Dương ông đi về. Mai thấy ông đi qua hướng mấy nhà mới dựng sau. Chắc ông báo tin tức mới về Mạc thị quan nhân. Không biết Mạc gia bằng xương bằng thịt như thế nào? Nhớ không lầm thì ông ấy đã bốn năm mươi tuổi rồi?

Sắp đến giờ cơm chiều nên cha không ra ruộng mà xem chuồng gà. Mấy con gà đã ra lông cánh, lông đuôi, nương nói có ba con gà trống, còn lại là gà mái. Cha nương sẵn dịp chặt lông cánh bọn chúng, làm hàng rào cao hơn, sửa lại mái che và nâng giàn tre làm chỗ ngủ cao hơn.

Lúc ăn tối xong, dượng thấy mấy đứa nhỏ học tính toán bằng que tre hơi ngạc nhiên. Mai chợt nhớ dượng buôn bán chắc có bàn tính gỗ của người hoa. Quả nhiên dượng mang từ ghe lên một bàn tính cỡ mâm gỗ pha trà còn mới. Mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh nghe dượng chỉ cách tính, có căn bản cửu chương đã học nên a An và thất thúc rất nhanh đã biết. Mai chỉ biết nguyên lý tính, cô vẫn nghĩ mình nhẩm theo phương pháp hiện đại nhanh hơn. Cô lấy que tre vẽ lại hình dáng bàn tính trên nền đất.

Ngày hôm sau ai cũng bận rộn, cha mượn ghe dì dượng cùng An ca chèo dọc bờ sông tìm dừa khô, còn hái hai rổ núm tràm. Nương và Mai đi đào măng, còn lại ở nhà lột vỏ dừa, nấu dừa, nấu đường.

Buổi trưa ăn cơm xong, dì kéo Cúc tỷ ngồi bên cửa sổ chỉ cách làm mấy kiểu tóc mới dì thấy bên ngoài. Mai nhìn dì khéo léo chải, xoắn tóc qua bên phải, cố ý chừa lại mỗi bên một lọn nhỏ, tết bím, vấn hai vòng sau ót dùng trâm gỗ giữ rồi lại thả dài thành kiểu tóc thiếu nữ thật đẹp.

Tiếp đó hai ba kiểu tóc khác vấn tóc cao gần đỉnh đầu rồi chia làm hai thả dài xuống vai. Vừa làm dì vừa nói kiểu nào nên dùng lúc nào, nào là kiểu đơn giản lúc ở nhà, kiểu đoan trang lúc đi chợ hay làm khách, kiểu thanh tân để đi hội làng, hội chùa. Nương nghe cũng phì cười dì út lắm chuyện:

– Suốt ngày bận rộn việc trong nhà, ở đó mà làm tóc kiểu này kia, muội thiệt là,

– Tỷ nói vậy sao được, a Cúc đến tuổi rồi, chăm chút sẽ tìm được lang quân như ý.

Cúc tỷ thẹn thùng liếc dì,

– Cháu, cháu không làm đâu!

Đang nói chuyện thì nghe tiếng cha chào hỏi khách.

– Lưu huynh, mời vào.

– Đệ không cần khách sáo, ta đến mời vợ chồng đệ sáng mai đến Lễ cúng tân gia nhà ta, đầu giờ tỵ.

Người đàn ông vào nhà cũng không khách sáo mà nói luôn.

– Được, sáng mai vợ chồng đệ đến giúp một tay.

– Ha ha, đến vui cùng nhà ta là được.

Lưu bá cười ha ha rồi nói tiếp:

– Ta đi mời thêm vài nhà quanh đây, cũng thuận tiện chào hỏi. Hôm khác cùng đệ nói chuyện.

– Được, huynh đi đi.

Cha tiễn Lưu bá xong vào bếp hỏi nương:

– Sáng mai nàng xem mình tặng lễ gì?

– Một cân đường được không?

– Được.

Lễ Tân gia thường chọn ngày tốt để gia đình cúng trời đất khi vào nhà mới ở. Nhà Lưu bá lúc trước và nhà Mai tiết kiệm nên cúng cùng lúc với ngày Cất Đòn Đông. Mai chưa đến xem nhà vị Lưu bá này, nghe nói là nhà lớn năm gian chính, hai gian phụ; cột chính được chọn mua từ Cần Vọt (5) đưa vào. Bùi ông khen gỗ tốt, lên nước đen bóng. Cha đến làm mấy ngày là đẽo gọt đầu cột, kèo đẹp mắt, cộng thêm các thúc bá trong làng đến làm nữa mới xong kịp ngày tốt.

Từ ngày vào đây, cha nương chỉ qua lại vài nhà trong làng, dịp này biết thêm vài nhà ‘bà con xa không bằng láng giềng gần’ sau này giúp đỡ tương trợ lẫn nhau. Lưu bá mẫu gần như giao thiệp hết các nhà trong làng, dù sao bá mẫu cũng lớn lên ở đây, có vài nhà mới chuyển đến là bá mẫu chưa thân quen. Mai còn nghe lén bá mẫu nói với nương đang tìm mối cho Tương huynh. Năm sau huynh ấy mười tám tuổi, đến tuổi lấy vợ rồi mà hai năm nay chưa tìm được mối hôn sự nào.

Sáng sớm hôm sau dì dượng năm lên ghe về Trấn Giang, ngoài dầu và đường gửi theo, nương còn gói mực khô, tôm khô nhà nội mang vào, mật ong, măng tươi và núm tràm. Tối đó dượng tính tiền dầu, đường đưa cha, nhưng cha không nhận nói khi nào bán hết hẳn đưa tiền cũng được. Sau đó hẹn với dượng khi nào có người đi ghe lên Trấn Giang sẽ gửi hàng ở nhà ngoại.

Tiễn dì dượng, ăn sáng xong thì cha nương dẫn theo a Phúc đi nhà Lưu bá trong làng ăn Lễ Tân gia. Mai kéo Vĩnh ca ra sau vườn chăm sóc mấy cây thuốc. Từ hôm Vĩnh ca theo sư ông học, hắn bắt đầu tự trồng cây thuốc giống trong tịnh xá trồng ở vườn sau. Mai đương nhiên khuyến khích hỗ trợ. Có mấy cây tên gọi khác hiện đại nhưng Mai nhớ được công dụng cũng đào gốc mang về trồng.

– Cỏ mực: hạn liên thảo: cầm máu

– Cây vυ' sửa đất: thiên căn thảo, cỏ sửa: kiết lỵ

– Cây đu đủ: mộc qua

Mai lẩm nhẩm trong đầu, phải ghi lại mới được.

Vấn đề phát sinh là a Vĩnh và cô không biết chữ. Cô lo lắng nhớ không đúng, hoặc khi cần nhớ không ra, có cách nào ghi chép lại. Sư ông không biết nhiều chữ, ông học chữa bệnh truyền miệng từ vãi ở chùa. Cộng thêm hơn hai mươi năm trị bệnh cho mọi người tích luỹ thêm kinh nghiệm. đọc chương mới tại dienvan.space

Mai chỉ mấy cây a Vĩnh mang về, hỏi tường tận công dụng và cách sao, sắc thuốc. Sư ông bắt đầu chỉ a Vĩnh cách sắc thuốc, sao khô trước sau đó dạy cách nhận biết vài loại cây thuốc có trong chùa hoặc quanh nhà.

Tác giả: VRSS

________________________________________________

(1): Nam Vang là Phnonh Penh ngày nay

(2): Lũng Kỳ là khu vực sát biên giới Việt Nam – Cambodia, bên kia sông Giang Thành

(3): Coh Tral là Đảo Phú Quốc ngày nay

(4): Xiêm La là Thái Lan ngày nay

(5): Cần Vọt là tỉnh Kampot sát biên giới Việt Nam – Cambodia ngày nay.Chương 45: Thử đóng ghe đi, đâu có mất gì?Hôm trước mượn đυ.c và cưa nhà Bùi ông được hai buổi trưa nên cây thốt nốt gần như còn nguyên. Sáng nay cha nương đi chợ Sông Lớn sẽ lấy dụng cụ ở nhà thợ rèn phía trong chợ. Mấy đứa nhỏ ở nhà chạy ra vô mong cha nương đem đồ về.

Mười quan đặt làm được hai cái đυ.c một lớn một nhỏ, một cái cưa hai lưỡi và một lưỡi bào. Lúc trước ông nội mang vào cho một cái búa, một dao mác và một dao làm bếp. Cha nói như vậy đủ đυ.c ghe lườn và đóng các món đồ gỗ trong nhà.

Mai nhìn mấy cây gỗ cha ngâm trong nước chuẩn bị dùng sau này ngẫm nghĩ, nếu nhà mình đóng ghe xuồng bán thì tốt quá. Lấy cái ghế tre nhỏ, Mai ngồi dưới gốc cây gần chuồng gà, dùng que tre vẽ nguyệc ngoặc trên nền đất ướt hình chiếc xuồng tam bản. Gọi là xuồng tam bản vì thân xuồng được ghép từ ba miếng gỗ lớn. Hai mũi xuồng giống nhau thon dài vươn cao hơn mặt nước. Bên trong thân xuồng là các thanh nối cố định và chịu lực ngang cho xuồng gọi là cong.

Điểm khó nhất khi làm xuồng là uốn cong ba bản gỗ để ráp khít vào nhau, ở hiện đại người ta dùng đinh đóng. Ở đây chưa có đinh nên các mối nối dùng kiểu âm dương rất kỳ công. Chính vì vậy giá đóng ghe xuồng rất cao. Người thợ làm rất lâu mới ra một chiếc, chưa kể còn có các ‘mẹo’ bí truyền của mỗi nhà để chiếc ghe đẹp, bền và nhẹ nữa.

Thất thúc và Bình ca khẩn hoang về nhìn những hình vẽ trên đất rất hiếu kỳ. Mai chỉ từng hình nói ra ý nghĩa, những chỗ khó mà cô không biết cách làm.

– Dùng nhựa cây trám đường nối thì nước không vào được.

Free Domain Name with every hosting package.

Thất thúc lên tiếng,

– Nhưng làm sao để ba miếng gỗ ráp vào được?

– Cháu nghĩ mình làm nhiều lần sẽ quen tay, ráp không khớp thì đυ.c, bào từ từ.

Mai trả lời, rồi nói thêm:

– Thúc biết cách làm mộng không? Thuyền nhà nội làm sao?

– Thúc không biết, về nhà coi thử.

Giọng thất thúc không chắc chắn lắm, nếu nhìn mà biết làm thì chẳng phải ai cũng đóng được ghe rồi!

– Mình cứ thử xem, a Mai làm sao làm được mũi ghe? Mấy tấm gỗ cần uốn cong lên, dùng sức chúng ta không làm được.

Bình ca nghe rất kỹ thất thúc và Mai nói, nêu lên đúng trọng điểm.

– Muội có cách, đợi cha về muội nói luôn.

– Thật?

– Thật?

Hai người ngạc nhiên nhìn Mai, nếu biết được cách thì nhà họ sẽ đóng được ghe xuồng, khỏi nói là sẽ tốt biết chừng nào. Những nhà đóng ghe là những nhà giàu có trong vùng, chỉ thua quan lại địa phương thôi.

– Muội không chắc lắm, nhưng sẽ được. Tuy nhiên mình phải làm nhiều lần mới được.

Làm thử nhiều lần thì có sao đâu, nhà người ta cũng mất mấy chục năm mới tìm ra các ’mẹo’ đóng xuồng. A Bình vội ăn cơm trưa rồi cùng thất thúc đốn mấy cây gỗ to ở bìa rừng. Hai thiếu niên hăng say chọn cây, chặt cành, đốn gốc. Nhìn những giọt mồ hôi thấm ướt khăn quấn đầu và đôi tay chai sạn vì cầm cuốc, cầm búa của hai người Mai thấy đau lòng.

Nếu ở hiện đại, tuổi mười lăm mười sáu vẫn là bé trai đang đi học, vui vẻ chơi game, nghịch ngợm cùng bạn bè. Thì ở thời bây giờ đã lo sinh kế trong nhà, gánh vác công việc như người lớn.

Xế chiều cha nương về nhà mang theo giỏ đệm to nặng. Cả nhà nhìn mấy cái đυ.c, cưa sáng loáng, sắc bén rất vui vẻ, đây là tài sản quí giá nhất nhà. Mấy món này làm từ sắt, hơi dày hơn so với đồ ở hiện đại. Ở đây người ta rèn bằng thủ công, đốt lửa thật nóng, đưa thanh sắt thô vào làm mềm rồi đập, rèn theo hình dáng dụng cụ. Nói mấy câu đơn giản chứ làm thì cả một quá trình dài ngày, rất vất vả, đôi khi có nguy hiểm nữa.

Bình ca chờ cha nương nghỉ mệt xong thì nói việc đóng thử ghe. Cha nhíu mày nghe không khỏi lo lắng, đâu có dễ dàng như mấy đứa nhỏ nói vậy.

– Ca, dù sao đã có đồ rồi, lúc rãnh làm thử cũng không tốn thêm gì. Đệ và a Bình sẽ thử.

Thất thúc hăng hái lên tiếng, tuổi trẻ thật nhiệt tình.

– Đệ, a Bình tập đυ.c ghe lườn trước. Rãnh rỗi ta sẽ đốn cây lớn ngâm nước, ít nhất phải ngâm hơn tháng mới được.

Vậy cũng tốt, hắn được dùng dụng cụ mới rồi, ha ha!

Phiên chợ kế tiếp Mai đi bán đường cùng a Vĩnh ở chợ làng. Gần hai tháng kể từ lần đầu

tiên

Mai đến chợ mà đã có nhiều thay đổi, chợ đông người mua bán hơn. Ở ven sông có thêm sạp bán khoai, đậu các loại, có sạp bán kim chỉ, vải bố, sợi gai. Mai vừa đến chỗ ngồi quen thuộc chưa kịp bày hàng ra thì nghe tiếng hỏi:

– A Mai, muội đến rồi. Sao hôm trước không đến?

Là Hùng huynh, đang đi đến chỗ Mai, huynh ấy cõng gùi to sau lưng mà vẫn đi rất nhẹ nhàng.

– A, huynh khoẻ.

La Hùng đi đến bày bán bên cạnh Mai, mỉm cười hỏi:

– Nhà muội khoẻ?

– A, khoẻ (biết ngươi hỏi ai rồi), hôm nay huynh không săn được thỏ à?

Mai nhìn mấy con gà rừng bị trói chân đặt trên đất. Gà rừng không mập nhưng thịt ăn ngon hơn, xương hầm cũng rất ngon.

– Không, chỉ mấy con gà rừng, có ổ trứng gà cho muội nè.

Vừa nói La Hùng vừa mang hơn chục trứng gà từ trong gùi ra.

– Muội không nhận đâu, huynh để bán đi.

Mai trả lời, nhìn Vĩnh ca thấy hắn cũng gật đầu đồng ý. Trứng gà bán không nhiều tiền như gà lớn. Nhưng mười trứng cũng được mấy văn, nhà Mai đâu thể nhận không được.

– Đâu có gì, cái này ta để dành mấy ngày cho nhà muội mà, sao không nhận.

Nói qua lại một hồi hai đứa nhỏ không nhận, La Hùng đành bán thu được năm văn. Hắn gửi gà chưa bán được cho Mai trông chừng, đi mua gạo. Nhà Hùng huynh có bà nội, cha và a Báo. Nương huynh ấy mất lúc sinh a Báo được hai mươi ngày, lúc đó La Hùng chỉ mới sáu tuổi. Hai anh em do bà nội chăm sóc, a Báo được cả nhà nuông chiều. Nói là nuông chiều nhưng trẻ em miền núi, nhà nghèo thì cũng không phải là chiều đến mức ăn không ngồi rồi hay cả ngày rong chơi. A Báo cũng làm việc nhà, học săn thú, làm thịt con mồi nhưng hắn luôn được bà nội trông nom, dặn dò.

Mai nghĩ đến khối đất cô đang làm ở nhà, là kiểu bếp ấp trứng gà vịt. Việc gà ấp trứng chú ý nhất là độ ấm. Với bếp ấp thì khi đốt lửa bên này sẽ truyền nhiệt sang phần bên kia của bếp. Việc quan trọng là giữ độ nóng ổn định và liên tục. Đàn gà trong nhà có mười mấy con mái, đến khi trưởng thành chúng có thể tự ấp trứng, nhưng Mai không biết gà rừng có khác gà nhà hay không. Do đó mấy hôm nay cô chưa vội đốt thử bếp ấp trứng. Thật ra cô rất muốn có thêm gà con nhưng giờ không còn tiền mua trứng, cha nương chắc chắn không cho cô vô rừng, mà trong rừng nguy hiểm quá.

Lúc hai đứa về nhà thì chỉ có a Phúc giữ nhà, chăm bầy gà trước sân. Cha theo Bùi ông dựng nhà trong làng, thất thúc, a Cúc, và a Bình tranh thủ ra ruộng lúc mát trời. Nắng lên cao thì hai người về nhà đυ.c cây thốt nốt. Nương và An ca đi chợ sông lớn chưa về.

A Vĩnh lấy mấy củ khoai ăn rồi ra vườn cây thuốc, từ ngày theo sư ông học hắn ngoài việc nhà thì sẽ ở vườn cây. Chuyện rắn hổ cắn người ở hào sen làm cho mấy đứa nhỏ không dám đi ra đó một mình, lâu dần cũng quên. A Vĩnh qua lại đi học sẽ đến đó hái ngó sen, hạt sen về cho nương. Sen đã tàn gần hết nên những đài sen còn lại cái nào cũng lớn, hạt to chắc mẩy.

Trời lại đổ mưa, không lớn nhưng có gió cũng hơi lạnh, màn trời như phủ lớp vải thưa. Thất thúc

và Bình ca kéo cây thốt nốt vào hiên nhà bắt đầu đυ.c, lõi cây cứng màu nâu nhạt, từng mảnh vụn rời ra theo từng nhát đẽo.

Nương và a An không biết còn trong chợ tránh mưa hay đã lên ghe về. Đường từ chợ Sông lớn về đây cũng có vài ngôi làng ven rạch, rẽ sông vào là đến. Từ xa đã thấy dáng cha đội mưa đi về, chắc mưa nên không thể dựng nhà tiếp. Đó là lý do người dân ít dựng nhà vào mùa mưa, công việc sẽ gián đoạn.

Cha thay quần áo ướt rồi cùng đυ.c cây thốt nốt. Cha cũng nôn nao muốn thử làm lắm, Mai hơi mĩm cười nghĩ bụng. Mỗi lần cầm bào, cầm đυ.c cha như quên hết xung quanh. Cha chỉ nhìn từng thớ gỗ, từng đường bào, chăm chú, tỉ mỉ từng động tác.

Đυ.c cho đến khi cây còn dày độ một tấc là được. Phần đáy có thể dày hơn một chút, hai mũi ghe thuôn nhọn để rẽ nước dễ dàng. Nếu có cha làm trong năm sáu ngày nữa là xong rồi.

Vĩnh ca và a Phúc ngồi xem một lát thì chán, chạy đi lấy rổ xuống ruộng bắt cá tôm hoặc ốc. Trời mưa như vậy là bọn cua ốc thích nhất, chúng sẽ bò ra khỏi hang hóng mưa, khoe càng, khoe râu; rất dễ cho mấy đứa trẻ vừa tắm mưa chơi đùa vừa bắt chúng.Chương 46: Cá sấu lên bờ (1)Mưa nhỏ dần rồi dứt hạt, mọi người quay lại việc của mình giống như được nghỉ giải lao giữa giờ. Hôm nay nương và An ca về trễ hơn mọi lần, gương mặt hai người có vẻ không vui. Mai đến xem giỏ bàng, đường và dầu đều bán hết. Nương còn mua một miếng thịt lợn và xương nữa. Vậy chuyện gì xảy ra?

Lúc ra ruộng, Mai nhổ cỏ gần An ca hỏi:

– Trong chợ có chuyện gì sao?

A An gật gật rồi kể. Chưa kịp ra khỏi chợ thì trời mưa nên nương và hắn ghé vào sạp đồ gốm trú mưa, có mấy người khác cũng vào. Một vị bá mẫu thở dài nói hôm kia mưa lớn ở miệt Giá Khê. Cá sấu theo nước tràn bò vào con rạch cạn ven rừng.

Gần đó có mấy gian nhà đang

sống, có một con sấu cắn và lôi xuống sông một đứa nhỏ và một người lớn mà không ai hay. Đến gần chiều người nhà không thấy hai mẹ con về mới đi tìm. Chỉ thấy máu loang bờ rạch và dấu vết còn sót lại. Người đàn ông và con trai lớn đau đớn gào thét rất thương tâm.

Sáng hôm sau hai cha con mang rìu và cây mác đi lần theo dấu vết con cá sấu để lại lần tìm vào rừng. Hai hôm nay không thấy hai cha con trở lại. Người dân trong làng chỉ biết thở dài nhìn ngôi nhà bỏ hoang, lo là dữ nhiều lành ít.

Cá sấu rất ít vào khu vực đó nên người dân không đề phòng. Có lẽ cơn mưa liên tục mấy ngày làm nước dâng lên cao nên chúng không ở tiếp vùng nước sâu mà mò vào trong rạch nước cạn hơn. Nó ăn mồi rồi có thể không đi nữa, cả làng đang rất lo lắng, tìm gϊếŧ nó hay dời đi?

Dời đi thì biết đi đâu? Ở đâu quen đó, còn mồ mã cha ông, rồi bà con dòng họ. Một khi đi là coi như bỏ lại hết, mất luôn liên lạc. Còn gϊếŧ cá sấu, nói dễ hơn làm. Dưới nước là giang sơn của chúng, huống chi người ta không thể cả ngày đi canh chúng. Còn phải lo làm ruộng, đi săn, đánh cá kiếm ăn nữa.

Lên rừng gặp cọp, xuống sông gặp sấu, còn rắn độc xung quanh nữa.

Cuộc

sống

nơi vùng đất hoang sơ này không dễ dàng chút nào.

Giá Khê cách vũng Đông Hồ không xa, cách một ngày xuôi ghe theo sông lớn nên tin tức cũng được truyền đến. Lưu bá mẫu lo lắng qua nhà Mai nói chuyện với nương. Mấy ngày nữa Tương huynh sẽ về, bá mẫu trông đứng trông ngồi.

– Phía Long Hồ đông người hơn chắc không nguy hiểm gì đâu, tẩu đừng lo lắng quá. Hơn nữa Nguyễn bá và nhị huynh đều lão luyện sẽ lo cho a Tương.

– Cha ta nói miệt Cà Mau còn nhiều thồ lộ hơn, chúng to lớn và dữ tợn lắm.

Cá sấu hay ngạc ngư là cách gọi chính văn, dân gian thường gọi thồ lộ là do đặc điểm đôi mắt nó lộ trên mặt nước. Đêm xuống, đôi mắt nó đỏ rực dưới ánh đèn. Người ta đồn nhau là do linh hồn oán hận của các nạn nhân của nó. Họ muốn người

sống

cảnh giác nó nên biến mắt nó thành hai đóm lửa trong đêm. Người xưa tránh né cách gọi chính thống, giống trường hợp con cọp (gọi là ông ba mươi) do kiêng kỵ.

– Mấy ngày nữa nhà Lưu tam thúc vào đây.

Bá mẫu đổi sang chuyện nhà Lưu bá, Lưu tam thúc trong lời bá mẫu là em trai của ông nội Tương huynh. Ông có bốn người con trai và ba con gái,

sống

ở làng chài gần gò Lộc Trĩ. Ba người con gái đã gả ra ngoài, còn lại mấy gia đình con trai đều

sống

chung, cùng đi đánh cá. đọc chương mới tại dienvan.space

– Vào chơi sao?

Nương hỏi, nhìn Lưu bá mẫu nghi hoặc, hình như đoán ra cái gì.

– Là có việc?

– Ừ, là muốn vào trong này

sống, chỉ là … haiz là tam đệ a Chí vào.

Cả hai người đều im lặng một lúc, Mai ngồi cạnh thấy lạ nhìn hai người, Cúc tỷ nói nhỏ trong tai Mai.

– Muội không nhớ a Ngọc giật rách lưới nhà mình sao?

Mai mơ hồ không nhớ được, nhưng chắc là nhà tam bá Lưu Chí và con gái a Ngọc đó không được mọi người hoan nghênh lắm. Lưu bá mẫu là người hay nói, hay cằn nhằn nhưng tính tình rất tốt, rất sảng khoái. Vậy mà bá mẫu có vẻ không thích nhà Lưu Chí bá hẳn là có nguyên nhân.

Buổi trưa mười ngày sau, mấy đứa nhỏ ăn cơm trưa không yên. Và cơm nuốt canh thật nhanh rồi cùng nhau chạy ra con rạch trước nhà. Nương cười lắc đầu nhìn bọn nhỏ, đúng là con nít!

Bình ca và thất thúc đang kéo cây thốt nốt bây giờ là chiếc ghe lườn nhỏ từ sân ra con rạch, kéo nó từ từ xuống nước. Chiếc ghe rất nặng, chìm xuống một nửa rồi nhích cái nổi lên. Thất thúc lấy cây sào bằng gỗ tràm, từ trên cầu gỗ bước xuống ghe. Mấy đứa chăm chú nhìn theo thất thúc đang chống ghe lướt trên dòng nước:

– Được rồi, được rồi.

A Phúc la lớn rồi nhảy nhót đòi lên ghe, mấy đứa chen nhau muốn lên. Bình ca và An ca đứng dưới nước vịnh thành ghe cũng hứng chí bừng bừng chống tay trèo lên. Hai bên lực không đồng thất thúc loay hoay không chống được ngã nhào xuống, chiếc ghe cũng lật úp.

Ha ha ha,

Ba đứa nhỏ trên cầu không phúc hậu chút nào, cười trêu nhìn ba đứa lớn loi ngoi dưới rạch. Vĩnh ca nhảy xuống phụ lật chiếc ghe lên, không dễ chút nào!

Buổi trưa hôm đó bọn nhỏ thay phiên nhau chèo ghe lườn thô lậu tới lui qua nhà Lưu bá, ngược lên vũng Đông Hồ không biết mệt. Chiếc ghe nhỏ quá mỗi lần chỉ chở được hai ba đứa. Cả đám trèo lên là nó chìm xuống luôn.

– Cha, ngày mai thúc và con làm khung uốn gỗ được không?

Thừa thắng xông lên, Bình ca mạnh miệng xin cha cho hắn bắt đầu đóng khung uốn gỗ như Mai vẽ hôm trước. Cha gật đầu đồng ý, ông còn mong làm thử ghe hơn là a Bình. Nhưng mà ông cũng phải nghĩ chuyện kiếm tiền để dành trong nhà nên vẫn theo Bùi ông dựng nhà.

Ăn cơm xong trời chưa tối hẳn. Mấy đứa nhỏ bu xung quanh hình vẽ cách làm khung uốn gỗ lúc Mai vẽ xuống nền đất. Chen nhau tính xem ngày mai cần làm gì.

Sáng hôm sau trời chưa sáng hẳn, cha dẫn theo Bình ca vào rừng tràm ven sông chặt cây, thất thúc chống ghe lườn đi theo. Chặt được một đám cây thì để lên ghe chèo về, đỡ tốn sức và có thể thay phiên nhau chở. Cha về trước đi dựng nhà trong làng còn ôm theo một ôm trứng nhỏ màu xanh da trời.

– Vịt nước đến mùa đẻ trứng rồi.

Thấy Mai đang săm soi từng quả trứng, gương mặt cười rạng rỡ, ông nói thêm:

– Chiều nay cha thử làm bẫy, bắt được con nào để nương làm thịt kho cho con ăn.

Ông nói thử vì ông không biết làm. Hôm trước nghe mấy người đàn ông làm nhà hỏi nhau cách làm bẫy tốt, ông lắng nghe nên biết. Ở làng chài sẽ không đi săn thú, đặt bẫy chim cò như ở đây. Thậm chí việc trồng lúa, trồng khoai cũng là lần đầu làm. Có nương cùng với thê tử biết trồng chỉ dẫn nên ông làm cũng đâu ra đó, không đến nỗi không thu hoạch được gì. Lần đầu hơi khó khăn, ông ráng vất vả rồi sẽ làm được.

Thật ra cha đã hiểu sai nụ cười hớn hở của Mai. Mặc dù thèm ăn thịt gà vịt nhưng không đến mức híp mắt như vậy. Cô cười vì đã có trứng để thử bếp ấp trứng rồi.

Vịt nước

không ấp trứng như gà mái mà chúng đẻ trứng ở những nơi có độ ẩm và nhiệt độ ổn định sau đó trứng tự nở ra vịt con. Do đó tỷ lệ trứng vịt nở con thấp hơn gà nhưng vịt khoẻ mạnh hơn. Mà vịt mái đẻ nhiều trứng hơn, thời gian đẻ từ sáu đến chín tháng trong một năm, giống kiểu đẻ bù.

Cha đi một lát thì Tương huynh và Lưu bá mẫu đến. Hơn một tháng không gặp Tương huynh hình như cao hơn, da hơi đen, tay chân rắn chắc. Bá mẫu vui vẻ nói chuyện với nương, mang rổ tre có mấy gói kẹo và hai túi vải gai.

– Kẹo cho mấy đứa nhỏ, cái này là đậu phộng, còn cái này là khoai sọ. Khoai này trong đó trồng nhiều, ăn béo mà thơm nữa, nấu với gạo nếp thành chè. Nhị ca nói nhà chúng ta trồng thử xem sao. Thím chọn đất cao, tưới nước rồi đào lỗ đặt chúng vào, giống như trồng khoai lang.

Mai nhìn túi khoai sọ bá mẫu đang cầm, củ nhỏ hơn hiện đại nhưng đúng là nó. Có thêm món ăn mới rồi, mong là chúng

sống

được trong đất nhiễm mặn. Cô không nhớ rõ cách trồng khoai sọ lắm, ở Long Hồ có củ giống rồi không lo là sau này không có nữa.

Tác giả: VRSS

(1) Con nít miền nam hay chơi trò chơi ” cá sấu trùm beng” (chữ trùm beng không rõ lắm, lúc nhỏ chỉ biết hát chứ không đọc được). Trò chơi này có định ra một chỗ là dưới sông, chỗ khác cao hơn chút là trên bờ. Sẽ có một đứa là bị làm “cá sấu” rượt mấy đứa còn lại là “người”. Nếu ‘cá sấu” đυ.ng trúng một đứa nào đó ở chỗ sông thì đứa đó bị bắt thay làm cá sấu. đọc chương mới tại dienvan.space

Mấy đứa “người” hay nhảy nhảy ngay mép bờ, hát:

“Cá sấu trùm beng, ai nuôi mầy lớn, dạ thưa thầy con lớn một mình con”

Lúc nhỏ không biết, cứ miệt mài chạy giỡn trong trò chơi. Khi lớn lên, đọc về lịch sử khẩn hoang miền nam mới biết được bài đồng ca đó được hình thành từ rất nhiều xương máu và nước mắt của con người trong

cuộc

chiến sinh tồn mấy trăm năm trước.

Con nít không biết gì nên tiếng ca cứ trong trẻo, vui tươi. Người lớn nghe hát thì xót xa nghĩ đến chuyện xưa.Chương 47: Công việc kéo dài không dứtMai rủ Vĩnh ca ra chòi trước sân, chỉ vào cái bếp ấp bằng đất cô đắp tạm lúc trước, giải thích cho Vĩnh ca hiểu công dụng của nó. Nguyên lý của bếp rất đơn giản, bếp ấp chia hai ngăn, ngăn dưới là bếp lò đun lửa truyền nhiệt lên ngăn trên. Trứng đặt vào rổ tre có lót lớp dây gai bện, A Vĩnh rất nhanh hiểu ý Mai.

Từ đầu tháng bảy sư ông đã về chùa lớn ở Cần Bọt tu tập một tháng theo lệ hàng năm của đạo Phật. A Vĩnh cứ cách ngày đến chùa quét dọn rồi về nhà nên làm việc nhà nhiều hơn. Hắn rủ An ca chèo ghe lườn ra ven hồ cạnh rừng tràm tìm trứng vịt hoang. Đi gần nửa buổi chiều hai đứa tìm được năm ổ trứng hơn năm mươi quả, chỉ khéo léo nhặt trứng không phá tổ để vịt sẽ đến đẻ tiếp, còn hái được mấy rổ tre núm tràm.

Đến lúc ăn cơm chiều, nương nói nhà Lưu bá đặt đóng xuồng ở Trấn Giang. Là chỗ nhà ngoại Tương huynh đặt trước đây, nghe nói chỗ đó đóng xuồng rất tôt, xài bền.

– Tốn hết hai mươi ba quan.

Cả nhà nghe đều hâm mộ. Tưởng tượng đến lúc nhà mình cũng có xuồng lớn như vậy thì tốt biết mấy.

– Nhà mình gắng sang năm mua.

Free Domain Name with every hosting package.

– Nương định chuẩn bị ít đồ gửi cho nhà ngoại. Bá mẫu nói sẽ ghé chợ Trấn Giang, từ đó đến thăm nhà ngoại cũng gần.

– Nàng chuẩn bị nhiều đồ chút.

– Được.

Cha nương nói xong chuyện thì Mai nháy mắt nhìn Vĩnh ca, thất thúc cười nói:

– Cái gì? Trưa ta thấy hai đứa đắp cục đất gì trong chòi vậy?

– Cái gì cục đất chứ!

Mai bĩu môi phản bác, trong nhà đã quen nhìn a Vĩnh và a Mai rù rì với nhau. Chỉ là sau đó sẽ luôn có ‘ý tưởng’ mới làm cả nhà bận rộn muốn chết. Cũng may là nhờ vậy mà kiếm được không ít tiền.

– Con định thử ấp trứng vịt nuôi, chỉ là không biết làm sao giữ lửa liên tục,

Vĩnh ca mô tả và giải thích bếp ấp trứng như thế nào.

– Giống như lò nung gạch sao?

Nương rất nhanh hỏi.

– Dạ, Đúng rồi,

Mai vui mừng trả lời. Cô quên là ở đây người ta đã có lò nung làm đồ gốm, đồ sành, gạch ngói xây nhà.

– Cha thấy trong lò nung người ta có dùng than củi. Cái này phải mua.

Than củi, than đá thường do người Chân Lạp lấy cây trong rừng đốt thành, phía Cần Bọt, Lũng Kỳ có rất nhiều nhà làm than củi. Những nhà giàu hay dùng đốt trong phòng giữ ấm hay sắc thuốc. Nhà Mai chưa có tiền mua, hơn nữa Mai nói mấy lần ấp đầu có thể không được nên không thể tốn tiền mua than củi được.

Tính tới lui một hồi thì là dùng củi bình thường. Cha nương sẽ canh lửa buổi tối để giữ ấm cho lò ấp.

– Đệ cũng canh lửa buổi tối. Ca, tẩu còn làm việc ban ngày không thể thức suốt đêm.

Giống như mấy lần trước, người lớn trong nhà từ An ca trở lên sẽ thay phiên nhau canh lửa cho lò ấp trứng đầu

tiên. Việc cần làm nối tiếp nhau dài thêm là sửa lò ấp, nhặt trứng vịt nước. Thêm nữa là làm khung uốn gỗ, đốn cây gỗ to ngâm nước, chăm sóc ruộng lúa, khoai và đậu. Rãnh rỗi khẩn hoang, nuôi gà và hai việc kiếm tiền là nấu đường, nấu dầu.

Lúc trước nhà Mai đã chỉ Lưu bá mẫu và tam Mi cách làm mỡ thực vật để dùng trong nhà, có dặn nhà bá mẫu không nói ra bên ngoài. Nhà Lưu bá gửi mỡ này ra nhà nội Tương huynh ở làng chài ăn thử, cộng thêm việc nhà Lưu bá khấm khá, sắm ghe mới. Cho nên nhà Lưu tam ông mới có ý định vào đây

sống.

Mấy hôm sau, Lưu bá và Tương huynh đi Trấn Giang, năm ngày sau thì chèo xuồng mới mua về. Chiếc xuồng dài mười thước, rộng hai thước, có mui ở giữa. Chiếc xuồng tam bản mới vẫn thơm mùi gỗ, hai mũi xuồng thon nhọn vươn cao được vẽ hai mắt bằng sơn đen hai bên rất dữ tợn.

Theo lệ thường là phải đặt tiền trước cho thợ đóng, gần tháng sau mới có xuồng. Nhà Lưu bá gặp may, chiếc xuồng này là đóng cho khách ở Giá Khê nhưng người ta khó khăn chưa đủ tiền nhận. Bên kia đồng ý nhường cho Lưu ý lấy trước, tháng sau nhà họ lấy chiếc khác.

Lưu bá chọn ngày tốt cúng thuỷ thần xin phép cho dùng ghe, cầu thần phù hộ đi đường bình an. Lưu bá mẫn mua con vịt nước, làm thị để nguyên con trên dĩa. Mâm cúng còn có rượu, muối, cháo vịt, trái cây, bình bông và nhang. Lưu bá và Tương huynh nghiêm cẩn đốt nhang khấn vái.

Sống

ở vùng sông nước này người dân coi trọng nhất là thần sông. Thần sông có rất nhiều tên gọi, như



bá, thủy thần, thuồng luồng cũng hóa thần sông. Mỗi tháng người làm nghề đi biển đánh cá, thương lái, lái đò trên sông đều cúng thần khúc sông mình hay qua lại để cầu sự phù hộ.

Lưu bá còn mời nhà ngoại Tương huynh, Dương ông, Nguyễn bá và cha nương đến nhà mở tiệc mừng. Ai cũng mừng cho nhà Lưu bá có chiếc ghe mới. Mấy đứa nhỏ thì khỏi nói, lên xuống săm xoi từng phần chiếc ghe.

Bà ngoại gửi cho nhà Mai mấy loại mức trái cây và nhắn sẽ đến thăm trước khi bắt đầu gặt lúa. Nương nghe xong rất vui mừng, nhưng cũng lo sức khoẻ bà không tốt, đi xa mệt mỏi.

Tháng bảy mưa ngâu – trời mưa sụt sùi là mưa khó chịu nhất. Nương không đi chợ sông lớn được nên mang hai xấp vải cậu hai cho hôm trước ra đo đo tính tính. Hai xấp này không đủ may quần áo cho cả nhà tám người, còn thất thúc nữa.

– Cha các con ra ngoài đi làm, cũng cần tươm tất nên lần này may cho cha một bộ mới màu đen, còn lại một ít may quần dài cho a Tấn, vải xanh này may cho a Cúc. Các con từ từ may sau được không?

Nương thương lượng lúc ăn cơm chiều.

– Ta còn một bộ nguyên, may cho nàng và a Mai đi.

– Đệ cũng không thiếu, tẩu không cần may.

– Con đâu đi ra ngoài, đâu cần đồ mới.

Ba người được may đều lên tiếng từ chối, thật ra Mai biết tính toán của nương, tính vậy cũng hợp lý. Cúc tỷ đến tuổi mai mối, có đồ mới gặp khách đàng hoàng, lịch sự.

– Nương tính vậy cũng được mà. Không lâu nữa mình bán gà, đóng ghe bán sẽ có tiền mua vải may quần áo tụi con cũng được.

Mấy đứa còn lại đều gật đầu, nhắc tới việc bán gà làm tụi nhỏ rất hớn hở. Đàn gà hai mươi con đã lớn, mỗi con được khoảng một cân (=0,618kg) rồi. Nghe nương nói đến mùa gặt lúa cho bọn chúng xuống ăn lúa rụng chúng sẽ rất nhanh lớn, Tết bán rất được giá.

– Vậy từ từ may đi nương, đợi thêm mấy tháng gặt lúa xong rảnh rang may.

Cúc tỷ không muốn mình có đồ mới mà các em không có. Xưa giờ chỉ có chị nhường em chứ ai lại giành mặc đồ mới, người ta biết được sẽ cười nàng chết.

Cuối cùng gác lại chuyện may đồ, cha sẽ ở nhà vài ngày đóng bộ ván nhà trên cho khách và thêm sạp tre ở bếp nữa. Lúc bà ngoại đến thăm có chỗ nghỉ, không chật như lần bà nội ở đây.

– À, chiều ta thấy nhà Lưu huynh có khách, là nhà Lưu tam thúc đến sao?

Cha đột nhiên thông báo,

– Chắc là vậy, chàng qua chào không?

– Sáng mai qua, giờ tối rồi.

– Ca, đệ tính về thăm nhà mấy ngày, quá giang ghe Lưu tam thúc luôn.

– Ừ, về thăm cha nương đi, việc trong này ca làm được.

A, mấy đứa nhỏ nhăn nhó, than thở trong im lặng. đọc chương mới tại dienvan.space. Việc nhiều lắm, không có thất thúc là cả đám sẽ thêm nhiều việc làm rồi. Mai gắp cho thúc đầu cá lóc to, nói:

– Thúc về rồi cháu nhớ thúc lắm, mau trở vô nha. Vĩnh ca cũng trông thúc, ai cũng trông hết!

– Đúng đó, ai cũng trông thúc hết!

A Vĩnh hùa theo nịnh nọt quá trớn làm cả nhà cười lăn, a Phúc gắp cái đuôi cá vào chén thúc ấy ha ha nói:

– Mấy con gà cũng trông thúc!

Ha ha ha. Ăn no, cười nhiều đến đau bụng luôn!

Nương gói gém các loại rau, củ ngoài làng chài không có, còn thêm mứt bà ngoại gửi cho vảo giỏ đệm để thúc mang về.Chương 48: Có hàng xóm sắp đếnTrưa hôm sau, Lưu bá và một nhóm người lớn đi từ phía nhà cũ bá ấy qua ruộng nhà Mai. Cha nương đi đến chào hỏi, người lớn tuổi nhất trong nhóm chắc là Lưu tam ông hỏi:

– Ruộng nhà cháu đây sao?

– Dạ phải, cháu đang khai khẩn thêm miếng này.

Cha chỉ phía ruộng lúa đã sắp trổ đòng đòng trả lời, còn chỉ miếng đất đang làm nói thêm. Lưu tam ông có vẻ rất thích, đưa mắt nhìn ruộng lúa trải dài từ nhà Lưu bá sang nhà Mai. Người đàn ông trẻ rất cao lớn đứng bên cạnh chỉ phía hào sen hỏi:

– Nguyễn gia có hơn chục mẫu bên đó xanh tốt quá, đất chỗ đó tốt hơn bên này?

Mặc dù ông đang hỏi nhưng giọng gằn xuống như khẳng định.

– Nguyễn bá ở đây hơn mười năm rồi, lại có tay nghề làm ruộng giỏi nhất làng nữa.

Lưu bá

giải thích. Nguyễn bá trong lời Lưu bá nói là ông nội của a Tùng bị rắn cắn lúc trước. Nghe cha nói là nhà ông ấy đến đây ở lâu nhất, lâu hơn Dương ông mấy năm, chỉ là ông lo làm ruộng, trồng khoai, nuôi heo (nhà ông là nhà có nuôi ba con heo duy nhất trong làng), rất ít ra ngoài. Thường ngày chỉ có Nguyễn bá cha a Tùng qua lại với người trong làng. Cha rất thích nói chuyện với bá ấy, vẫn hay nhắc ông là người đúng đắn, mực thước, hiểu biết.

– Miếng đất nhà cũ hơi nhỏ, xây nhà xong chỉ còn lại một ít sân vườn. Đất ruộng cũng hẹp mà dài nữa.

Người đàn ông trẻ nhất chắc là tam đường đệ của Lưu bá rồi, ông ấy có vẻ không hài lòng lắm với miếng đất dựng nhà và ruộng.

– Tam thúc và hai đệ đi xem phía bên kia nhà cháu, đất ruộng gần bờ sông. Trong làng kia vẫn còn chỗ dựng nhà, nhưng ra ruộng hơi xa.

Nói thêm mấy câu thì nhóm người rời đi, xem thêm mấy chỗ nữa. Mai không quan tâm lắm chuyện nhà đó. Mai không biết là sau này cô ‘phải quan tâm’ chuyện nhà đó nhiều!

Ăn trưa xong cả nhà ngồi quanh mấy rổ trứng vịt, nương chỉ dẫn:

– Chọn trứng vừa vừa, không lớn quá, không nhỏ quá, không bị trầy xước.

Nương cầm miếng vải bông lau nhẹ trứng được chọn, đặt riêng trong rổ. Vĩnh ca cẩn thận đếm một chục mười sáu trứng vào một giỏ đưa cha đặt vào ngăn trên lò ấp. Tổng cộng được hơn ba giỏ, bốn mươi tám trứng. Giỏ tre được lót lớp vỏ cây mềm, thấm mước. Mai nhớ là trứng vịt rất cần độ ẩm trong khi ấp, nên vỏ cây thấm nước sẽ giữ độ ẩm cao, mỗi ngày chỉ vẫy nước sáng, trưa, chiều và tối là được.

Xếp trứng xong cả nhà hồi hộp nhìn nương nhóm lửa. Chỉ cần giữ ngăn trên ấm áp như lườn gà là được. Nói vậy mọi người rất dễ hiểu, chạy ra sân bắt gà vào bếp so. Bắt đầu bây giờ phải luôn có người trực ở bếp canh lửa. Ban ngày chủ yếu là Cúc tỷ, tỷ ấy không cần ra ruộng mà lo việc trong nhà và bếp.

Chiều hôm sau thất thúc về làng chài, Bùi ông kêu cha đi dựng nhà. Một mình Bình ca không làm được khung uốn gỗ nên hắn đóng mấy món đồ trong nhà. Đầu

tiên

là mấy cái ghế đẩu cao, kệ gỗ, móc gỗ treo quần áo trong nhà, giàn gỗ phơi quần áo sân sau. An ca, Vĩnh ca theo phụ gõ gõ đóng đóng suốt ngày.

Trong nhà có thợ mộc đã quá, qua mấy ngày mà trong nhà thêm mấy món đồ tiện dụng thật thoải mái. Nương nhìn mấy cái móc phơi đồ vừa ngạc nhiên vừa vui vẻ. Treo đồ như vậy vải sẽ không nhăn, giặt xong móc lên phơi ngoài sân rồi mang vào thật tiện. Trời mưa nhanh không sợ lấy vào không kịp. Mấy kệ nhỏ móc nón lá, treo quần áo cho mỗi người nhìn gọn gàng. Cha đi dựng nhà về thấy cũng xăm soi từng món, rất hứng thú. Còn dặn Bình ca làm thêm gửi cho nhà nội, ngoại; bảo đảm hai nhà sẽ thích; ông cười hì hì nói vẻ rất đắc ý.

Ăn cơm trưa xong, Lưu bá mẫu ôm rổ tre qua chơi. Từ ngày có ghe Tương huynh mỗi sáng sớm làm lái đò đưa khách đi chợ Sông Lớn. Đến xế huynh ấy về nhà, ra ruộng nhổ cỏ, còn khẩn thêm phần đất hướng gần bờ sông nữa. Lưu bá cũng theo Bùi ông dựng nhà kiếm thêm tiền. Giống cha Mai tranh thủ sáng sớm, chiều tối ra thăm lúa. Thỉnh thoảng bá mẫu mang giỏ đệm, chiếu do tam Mi, tứ Mi làm ra chợ bán. Bá mẫu tin tức linh thông, lần nào đến cũng nói cho nương nghe chuyện làng trong, làng ngoài. Mai và Cúc tỷ ngồi nghe hai người nói như một cách giải trí.

– Haiz, nhà nội a Tương nhắn tin, a Chí đầu tháng tám chọn ngày tốt dựng nhà trong đây.

– Vậy à, chọn chỗ nào?

– Haiz, cái này ta nói nhà ngươi biết thôi, chọn tới chọn lui không hài lòng chỗ nào. Nói xung quanh chỗ đất nhà ngươi là thuận tiện nhất, nói sao lúc trước chúng ta không để dành cho người trong họ.

Mai nghe xong há miệng chữ O luôn, nương cũng nhíu mày nhưng không nói gì.

– Ta nói chẳng phải lúc trước sợ cực nhọc, còn chê cha a Tương không biết tính sao. Đất này cũng có phải của họ Lưu đâu, thiệt là. Chọn miếng gần nhà ngươi đó, tính là khẩn đất gần Nguyễn gia ra tới bìa rừng luôn, chắc muốn có đất tốt giống nhà họ.

– Đất gần Nguyễn gia có hơn mười mẫu, cũng mất hai ba năm.

– Người ta nói là trong một năm sẽ khẩn xong đó, nhà người ta có nhiều con trai.

Nói xong câu này, bá mẫu bĩu môi tiếp:

– Nhiều con trai còn phải xem con trai có chịu làm hay không nữa.

Nương cũng gật gật đầu nói:

– Ta nghe nói a Trục cao lớn khoẻ mạnh.

A Trục là con trai trưởng nhà Lưu tam bá, năm nay mười chín tuổi, mới cưới vợ tháng giêng năm này. Lưu tam bá có năm con trai, hai con gái, con gái lớn a Ngọc bằng tuổi Vĩnh ca và cô gái út a Châu nhỏ hơn Mai một tuổi. Có một điều nữa là bác ba gái là người trong họ với tam ba mẫu của Mai – nương của Hân ca.

– Lâu lâu gặp không nói, bây giờ ngày nào cũng thấy còn không biết sao, haiz,

Nói đến đâu rồi? Mai lo nhớ chuyện nhà Lưu tam bá bỏ lỡ một đoạn.

– Chị dâu ngươi còn biết làm việc, còn nàng ta chỉ tay thôi. Mấy lần lễ Tết, nàng ngồi chiếu trên tiếp khách chứ không xuống bếp như chúng ta đâu.

À, là nói bác ba gái Lưu.

– Mới vào trong này chắc sẽ nhờ tẩu hết rồi.

– Ừ.

Lưu bá mẫu trả lời, bà không dám nói thêm là a Chí mới hôm trước còn nói. ‘Người ngoài như Lê tứ ca còn giúp, trong nhà chúng ta đều nhờ ca hết’. Cái gì mà nhờ hết! Định chỉ tay cho nhà bà làm sao?

Lúc đầu nhà bà có giúp Lê tứ, nhưng người ta cũng có qua có lại. Mấy lúc a Tương đi chành, mấy đứa con trai bên này hái nấm, bắt cá, tôm đều mang qua nhà bà. Còn đường, cách làm dầu người ta cũng chỉ làm. Sau này mấy đứa nhỏ lớn lên nhà bà còn phải nhờ nhiều. Dù sao có mấy việc con gái không ra mặt làm được, một mình a Tương không gánh xuể phải nhờ thêm a Bình, a An giúp đỡ. đọc chương mới tại dienvan.space

Tuy nói giúp đỡ người ta cũng không nên tính toán, nhưng cũng nhìn người để giúp. Lê tứ và cha a Tương là bạn từ nhỏ, tính tình hiền lành, nói ít làm nhiều. Nguyễn thị và mấy đứa nhỏ chăm chỉ, làm việc không ngơi tay, ai mà không thích giao du.

Than thở xong, bá mẫu đứng dậy đi về, ra đến cổng gọi lớn vào trong.

– Trong làng có chuyện gì sao? Đông người vậy, a Vĩnh cháu chạy đi coi thử.Chương 49: Đánh liều ra tay tương trợA Vĩnh nghe gọi chạy ra, hắn thấy phía trong làng có nhóm người đứng ở nhà Dương ông. A Vĩnh không đợi nhắc, chạy ù về hướng đó. Mai đang đứng trong sân phân vân không biết nên theo a Vĩnh hay không thì thấy Tương huynh chống xuồng đến.

– Nương, có người bị sấu cắn, mang đến cho lang y trị thương.

– Tương huynh nói với bá mẫu, mọi người đều giật mình hoảng sợ.

– Sấu ở đâu? Gần đây sao?

– Không, ở Giá Khê. Họ không tìm được lang y nên đến đây. Con gặp xuồng họ trên đường về.

– Bị thương sao?

– Con không rõ lắm, họ rất vội nên không nói nhiều.

Đám đông trong làng càng đông hơn, nhiều người nghe tin chạy đến.

– Chết rồi, không phải Đỗ lang y đã đi Lũng Kỳ rồi sao? Đã về chưa?

Bá mẫu giật mình la lên, chắc là lang y chưa về nên mọi người vẫn đứng trong nhà Dương ông. Mai chưa kịp nghĩ xong đã vội chạy đi, đến đó xem sao, mạng người quan trọng. Nương và bá mẫu cũng đi theo.

Gần một khắc thì đến, trong sân nhóm người đứng thành vòng tròn, có tiếng thì thầm nói chuyện và tiếng thở dài của vài người. Mai không dám chen vô mà đưa tay kéo áo Vĩnh ca, hắn quay lại thấy Mai thì lui ra ngoài.

– Thúc ấy bị sấu cắn mất chân, máu chảy nhiều đã ngất rồi, con trai thúc ấy cũng bị thương ở tay. Nghe nói là con sấu này lần trước ăn mất vợ và con gái, chiều qua xém chút cắn nhà bá kia.

A Vĩnh chỉ người đàn ông đang đứng gần Dương ông.

– Đỗ lang y đi rồi, mai mốt mới về, gần đây lại không biết lang y khác. Nếu sư ông còn ở đây thì tốt quá, ít ra còn cầm máu trị thương.

– Ca biết làm không?

Mai đột ngột hỏi làm a Vĩnh ngớ ra rồi lắp bắp:

– Ca mới biết cỏ nào cầm máu thôi, chưa trị thương bao giờ.

Không có thời gian nữa, chiều hôm qua đến giờ đã chảy hết máu rồi! Mọi người xung quanh đang bàn tính xem làm sao, mà dùng dằng hoài sao được?

Mai kéo tay Vĩnh ca đi lại gần cha nói:

– Cha, đưa thúc ấy về nhà mình đi, Vĩnh ca có học thuốc. Cần cầm máu trị thương trước chờ lang y về.

Tuy là nói với cha nhưng giọng Mai không nhỏ. Cô cố tình để người đi chung bệnh nhân nghe.

– Ca cháu biết trị thương sao?

Đúng như Mai đoán, vị bá bá này như người sắp chết đuối bắt được phao, vội hỏi cô.

– Ca ca cháu mới học một ít từ sư ông, biết cầm máu rịt vết thương.

– Vậy tốt quá, nhà cháu ở đâu? Mong cháu hết lòng cứu, ta mang ơn cháu.

Bá ấy nói chưa xong đã nhanh chóng khiêng cán lên, cha Mai kéo áo a Vĩnh hỏi:

– Con biết làm không, chuyện này hệ trọng.

A Vĩnh liếc Mai, thấy cô ra dấu thì gật đầu, quay sang nói với vị bá bá:

– Cháu không phải lang y, chỉ có thể rửa vết thương, cầm máu để chờ Đỗ lang y về.

– Ta hiểu ý cháu.

Vị bá bá nghe Vĩnh ca nói hơi khựng lại. Ông quay sang nhìn người đàn ông mê man trên cán và đứa bé trai ngồi kế bên một lát rồi gật đầu quyết định. Ông đâu còn lựa chọn nào chứ, biết đi đâu tìm lang y bây giờ.

Nhóm người đứng xung quanh lên tiếng ồn ào,

– Con trai nhà Lê tứ biết y thuật sao? Còn nhỏ thế mà?

– Ông không nghe nói sao, mới học thôi, dù sao cũng biết cầm máu, giỏi hơn chúng ta rồi.

– Đành vậy thôi, không rửa vết thương sớm, đợi lúc lang y về thì muộn quá.

Ai nói thì nói, ai phụ khiêng cán, neo ghe thì phụ, từ từ đặt cán lên ghe. Đứa bé trai vẫn yên lặng đi theo cái cán, cùng lên ghe.

– Ta chèo dẫn huynh đi, vị này theo con trai ta đi.

Cha nói với hai người đàn ông đi theo bệnh nhân, họ gật đầu. Mọi người có việc tản ra đi làm. Chỉ có Dương ông đi theo về nhà Mai. Đi qua hào sen gặp Nguyễn bá từ nhà đi ra.

– Dương thúc, có chuyện gì vậy? Cháu ở trong ruộng thấy mọi người tụ tập ở nhà thúc.

Dương ông kể sơ lại chuyện xảy ra:

– Vết thương rất nặng, không có lang y nên đưa về nhà Lê tứ. Con trai hắn có theo sư ông học ít bài thuốc, cầm máu đến mai chờ Đỗ Phương về.

Đỗ Phương chắc là tên của Đỗ lang y. Nguyễn bá nghe xong nhìn a Vĩnh làm hắn hơi e ngại cúi đầu. Đúng như cha nói, Nguyễn bá đúng là người mực thước, không nhiều lời bàn luận, chỉ nhanh chân bước cùng mọi người.

Mai về nhà thì cha còn chưa về tới, cô kéo a Vĩnh vào bếp dặn:

– Ca hái lá cầm máu, nhiều một chút, làm như sư ông chỉ là được.

– Tỷ nấu một nồi nước lớn, khăn sạch nữa.

Cô quay sang nói a Cúc đang giữ bếp. Nương mời Dương ông và Nguyễn bá vào nhà ngồi, xuống bếp nghe Mai nói thì hỏi:

– A Vĩnh đâu? Hai đứa làm được không?

– Được, nương đừng lo, ca ra vườn hái thuốc cầm máu rồi. Mình còn rượu không nương?

– Còn, cần gì nữa?

Mai nghĩ tạm thời những cái đó, còn lại xem vết thương như thế nào, cô đi ra sân trước thi thấy cha đã về. Mấy người lớn cùng nhau đưa cán lên bờ, khiêng vào bộ ván nhà trên. Người đàn ông nằm yên, không một tiếng rên, gương mặt tái mét. Ông ta đã kiệt sức và hôn mê rồi.

Mọi người đều khẩn trương, có người đi ra đi vào, lầm bầm gì đó. A Vĩnh mang cối chày gỗ nhỏ và rổ tre có mấy cây cỏ được rửa sạch, còn nguyên rễ.

– Ca giã thuốc đi,

Mai nhờ cha nâng chân bị thương của ông ấy lên, kê gối tre thấp vào. Cô nhanh nhẹn dùng kéo cắt ống quần rách qua khỏi vết thương.

Hizzzz,

Mọi người đều hít vào khi thấy vết thương, da thịt máu lẫn lộn. Khớp xương đầu gối bị bẻ đôi, giống như bị tháo khớp, cũng mai xương đùi không bị nát. Quan trọng nhất là cầm máu, tránh nhiễm trùng, hoại tử gây sốt. Mai nhanh chóng dùng nước ấm lau rửa cẩn thận vết thương. Cô nhờ cha cho thúc ấy uống nước thuốc cầm máu trước. Rồi dùng vải nhét vào giữa hai hàm răng thúc ấy.

Người đàn ông vẫn mê man không rên một tiếng làm cô rất lo ngại. Ngọn đèn được đốt lên, Mai hơ lửa mũi dao nhọn rồi từng chút rạch các vết thương cho máu bầm và thịt nát rơi ra. Mai tập trung hết mức vào vết thương không để ý xung quanh.

Xong rồi, giờ cần khâu lại để vết thương liền lại, phủ qua một phần sụn đầu gối còn lại. Cũng may là lúc cô dùng kim to hơ lửa, sợi vải ngâm rượu may lại thì ông ấy đau đớn rêи ɾỉ. Phản ứng của thúc ấy làm cô an tâm hơn.

Mọi người im lặng nhìn cô từng mũi từng mũi khâu lại. Máu vẫn thấm ra ngoài theo vết thương đang được khép miệng. Mai cắn chặt răng, tự nhủ trong lòng ‘bình tĩnh, không được run’. A Vĩnh cũng rất chăm chú, hắn giúp Mai đắp thuốc cầm máu lên vết thương run run, mồ hôi rịn ra dưới chân tóc.

– Nương hầm gà hạt sen tẩm bổ cho bá ấy, cần thêm rượu, mấy trái dừa.

Trán Mai lấm tấm mồ hôi, chiều tháng bảy hơi oi bức. Mai dặn người đàn ông đi theo lau mình, thay quần áo sạch sẽ cho bệnh nhân lớn. Rồi cô quay lại nhìn đứa bé trai vẫn còn ngồi ở góc bộ ván. Vết thương trên tay trái hắn cần được xử lý.

Mai để Vĩnh ca làm, trước khi khâu cô đưa cho đứa bé khăn tay xếp lại, bảo hắn ngậm. Nó lắc đầu nhưng cô vẫn kiên quyết nhét vào miệng nó, ‘đùa sao, lỡ cắn đứt lưỡi lại đổ thừa cô’. Từng mũi khâu làm đứa bé run run cắn chặt hàm răng vào khăn, mồ hôi túa ra, mặt tái dần. Vĩnh ca cũng không khá hơn, lúc nãy thấy Mai làm hắn rất sợ, không nghĩ tới tự mình may còn sợ hơn.

– Ca, bình tĩnh. Ca run sẽ làm bệnh nhân đau đớn hơn.

Hai người đàn ông đi theo là anh em gọi là Trương Ân, Trương Ẩn. Người em xin phép cha đi mua mấy thứ Mai nói. Người anh ở lại cùng cha thu xếp chỗ ở. Dương ông, Nguyễn bá, Lưu bá thấy việc tạm ổn nên cũng ra về. Đứa bé trai sau một hồi chịu đựng cũng ngất đi, là do kiệt sức hay sợ đây? Cha mang hắn lên nằm kế cha hắn. Đọc chương mới tại dienvan.space

Tội nghiệp a Phúc, lúc nãy thì run run nhìn vết thương của người đàn ông. Giờ thì hắn mếu máo muốn khóc nhìn hai con gà của hắn bị làm thịt hầm hạt sen. Nương vuốt đầu nó nói:

– Bây giờ đâu có ai bán gà, thúc thúc và ca đang bệnh, cần ăn. Mai mốt nương đền cho con hai con gà khác.

Hắn gật đầu mà miệng vẫn mếu máo.Chương 50: Cha con Lý SaoĂn cơm chiều xong Dương ông và nhà Lưu bá qua thăm. Cha dọn bàn tròn ra sân, chuẩn bị mấy ly rượu, cá lóc nướng. Hai anh em Trương bá mới kể ngọn nguồn câu chuyện.

Tháng trước vợ và con gái của Lý Trám – thúc thúc bị thương, bị con sấu bò vào rạch cạn sau nhà ăn mất. Ông cùng con trai đau đớn, giận giữ gói ghém đồ đạc lần theo con sấu. Dân làng có khuyên giải nhưng không lay chuyển được. Gần tuần trăng theo dấu, con sấu quen đường quay lại làng họ ở Giá Khê rình mồi. Lý Trám làm cái bẫy lớn cuối làng, ông bắt vịt trời làm mồi dẫn dụ con sấu.

Chiều hôm qua khi con sấu phát hiện con vịt mồi, sắp lọt vào bẫy thì ta không biết chèo ghe ngang qua. Con gái nhỏ thấy nó trước nên sợ hãi hét lớn. Con sấu lập tức tấn công chiếc ghe. Lúc đó Lý Trám thấy tình hình biến chuyển nên đến hỗ trợ. Hai người dẫn dụ con sấu ra xa bé gái. Nhưng nó cứ bám riết đứa bé, táp nhanh be xuồng làm hai mẹ con bé gái té xuống sông. Con sấu sấn tới táp, may mắn hai lần táp liên tục nên sức mạnh cơ hàm giảm nên khi Lý Sao đỡ thay bé gái chỉ bị cắn trên cẳng tay. Vết cắn chưa làm gãy xương.

Máu tuôn ra, mùi tanh làm con sấu hung hăng hơn. Lý Trám lợi dụng lúc nó còn say mùi máu lướt lên quăng thòng lòng khép miệng nó, Trương Ẩn cũng nhào tới dùng dao đâm vào bụng nó. Lý Trám chưa kịp giật dây khép hàm thì bị nó quật táp kéo rời chân. Dù máu tuôn đau đớn ông vẫn dùng sức siết dây, quấn quanh gốc tràm to. Vết thương ở bụng nó bị Trương Ẩn xoay dao khoét rộng, nó kiệt sức dần rồi chết.

Lúc ấy Trương Ẩn vội vàng đưa cha con Lý Trám lên ghe, cùng vợ chèo vội về làng. Làng nhỏ ven sông không có thuốc thang gì nên ông chỉ kịp băng bó sơ vết thương rồi cùng em trai lên ghe chèo đi tìm lang y. Trước đây Đỗ lang y có đến trị bệnh vài gia đình ở Giá Khê nên mọi người chỉ hướng xuôi sông Giang Thành về đây.

Ai cũng yên lặng nghe câu chuyện, vừa thương tâm vừa nể phục Lý Trám. Mai nhìn đứa bé trai đang ngủ, cỡ tuổi An ca nhưng đen gầy hơn, trải qua chuyện này không biết nó có vượt qua được không? Thời bây giờ chưa chú ý đến vấn đề tâm lý, người ta sẽ không biết chuyện Lý Sao đối mặt sẽ ảnh hưởng đến nó như thế nào. Đứa bé gái nhỏ kia nữa, mong rằng cô bé có thể quên đi, bình an lớn lên.

Mặt trời lặn xuống, Mai hướng dẫn anh em Trương bá chăm sóc cha con Lý Sao trong tối nay. Tối nay là đêm quyết định, nếu Lý thúc có thể qua khỏi thì sẽ từ từ bình phục. Lo lắng nhất là vết thương gây sốt, nhiệt độ cơ thể cao dẫn tới hôn mê rồi người bệnh không qua được. Cần phải cho uống nước ấm, nước dừa, đút cháu gà hầm để người bệnh đủ sức vượt qua. Bên ngoài thì phải lau người bằng rượu giảm sốt.

Cũng may nhà đã đóng thêm bộ ván và sạp tre nên cũng sắp xếp được đủ chỗ ngủ cho khách. Nương lau sạch sạp tre gần bếp cho mấy đứa con trai ngủ.

Đêm hạ tuần trăng lên muộn, nương đốt đèn nhỏ trên bàn nhà trên, bên ngoài có đống lửa nhỏ cháy bập bùng soi sáng trong nhà. Gió từ vũng Đông Hồ thổi vào xào xạc. Tiếng ếch nhái, côn trùng u u làm màn đêm bớt tĩnh mịch mà tràn đầy sự

sống.

Nửa đêm tiếng rêи ɾỉ của Lý thúc làm Mai giật mình tỉnh giấc. Cô ra ngoài thấy Bình ca và Vĩnh ca đã ngồi dậy. Mai nói:

– Ca lên dặn Trương bá tiếp tục lau người, thỉnh thoảng cho uống nước dừa. Qua khỏi đêm nay mới được.

– Được.

Lúc Mai dậy sáng hôm sau thì thấy Lý Sao ngồi ăn cháo gà, a Phúc cũng được một chén cháo. Mai bước đến đưa tay sờ trán hắn, ‘vẫn còn sốt’. Trong tâm tưởng Mai xem hắn chỉ là bé trai, cô quên mất là cô chỉ mới hơn tám tuổi, cô đứng chỉ bằng hắn đang ngồi. Tuy nhiên hắn không nhích ra, hắn biết nàng là người cứu cha hắn. Sau khi nhìn thấy cách Mai khâu vết thương và trị sốt, mọi người đều nhận định cô và a Vĩnh thật sự có thể cứu người.

Vĩnh ca cầm chén cháo từ nhà trên xuống:

– Lý thúc vẫn còn sốt, lúc nãy ăn cháo có tỉnh táo hỏi tìm hắn.

Ca hướng đầu chỉ Lý Sao, hắn ăn vội cháo rồi đứng dậy lên nhà trên. Hai con gà nhỏ quá, nấu không được bao nhiêu thịt. Trương nhị thúc đi ra chợ làng tìm mua gà rừng, mong rằng Hùng huynh có bán.

Vừa ăn sáng xong Nguyễn bá đến, trong tay cầm túi vải nhỏ. Ông tháo lớp vải gói lấy ra một khúc nhân sâm nhỏ.

– Cha ta nói để huynh ấy dùng, nấu chung với cháo là được.

Nhân sâm quý cỡ nào, Lý bá chắc qua khỏi rồi. Cha và Trương bá ngạc nhiên, sau đó chắp tay trịnh trọng cảm ơn.

– Đa tạ Nguyễn huynh, ta nguyện sẽ đền đáp.

– Không cần, không cần, ai lại không gặp lúc hoạn nạn, là việc nên làm thôi.

Lý Sao nhìn nhân sâm rồi quỳ xuống lạy tạ ơn Nguyễn bá, hắn đúng là ít nói. Nguyễn bá đỡ hắn dậy:

– Không cần, cháu cũng dưỡng thương. Sau này chăm sóc, phụng dưỡng hiếu thảo với cha cháu là được.

Lúc Trương nhị bá về xách theo hai con gà rừng và một người đi theo sau lưng, là Hùng huynh. Hắn đến làm gì?

– Hắn nói có quen nhà đệ, không nhận tiền bán gà, còn đi theo xem có giúp gì được không.

Trương nhị bá chỉ La Hùng nói với cha. A Phúc chạy ra vui cười nói:

– Gà nhà cháu là mua của Hùng huynh đó.

La Hùng hơi bối rối khi gặp cha, may quá có a Phúc giúp hắn, xác nhận là hắn quen nhà Mai thật.

– Gà nhà thúc còn nhỏ, lấy gà cháu săn được nấu cháo tốt cho người bệnh hơn. Cháu xin cha mang đến nữa, cha nhất định sẽ đồng ý.

La Hùng một tay để lên vai a Phúc ra vẻ thân thiết, mắt nhìn cha nói. Trương bá bước lên nói:

– Làm phiền cháu, ta nhận sau này sẽ tạ ơn.

Vì ông đưa Lý Trám đến, ông không thể để nhà Mai chịu ơn thay được. Ông ra mặt như vậy mới hợp lẽ, ơn nghĩa cũng sẽ do nhà mình báo đáp.

Nương và Cúc tỷ bận rộn làm gà, nấu thêm cháo ở bếp. Mai và Vĩnh ca chia nhỏ nhân sâm dùng trong hai ngày chờ Đỗ lang y về.

Lý thúc vẫn còn sốt nhưng bá ấy tỉnh nhiều hơn, còn thì thào nói chuyện. Mọi người không khẩn trương nữa, ai đi làm việc nấy. Đến ngày thứ ba thì Đỗ lang y về. Ông vội vàng đến bắt mạch cho hai cha con Lý thúc. Ông xem kỹ vết thương, còn hỏi Vĩnh ca đã làm như thế nào. Vĩnh ca nói rõ từng việc, Trương bá cũng nói ông lau rượu pha nước ấm, uống nước dừa, đút cháo ra sao. Đọc chương mới tại dienvan.space

Đỗ lang y nhìn a Vĩnh thật nhanh rồi hỏi:

– Lần đầu cháu làm sao?

– Dạ phải,

Mai lén nắm tay a Vĩnh, bảo hắn an tâm.

– Sư ông có dạy cháu cầm máu, trị thương nhưng cháu chưa làm bao giờ.

Lang y gật đầu bỏ qua, nói với Trương bá.

– Ta bốc mấy thang thuốc, để hắn dưỡng thương hơn tháng là khỏi. Bây giờ khiêng hắn đến nhà ta, có phòng ở, không nên di chuyển hắn đi xa. Ở lại mười ngày nửa tháng vết thương liền sẹo mới đi được.

– Được.

Trương bá đương nhiên đồng ý, ông nợ Lý Trám mạng của vợ con và cái chân bị mất, mười ngày nửa tháng tính là gì.

Mỗi người giúp một tay chuyển Lý thúc đến nhà lang y. Sau đó Trương tam bá về Giá Khê báo tin người nhà biết. Nhà Mai quay về nếp sinh hoạt hàng ngày, chỉ có a Vĩnh mỗi ngày đến nhà Đỗ lang y một lượt giúp mấy việc lặt vặt. Mai dự cảm được ý tứ lang y. Thật ra cô không biết ông ấy tài giỏi không, dù sao ông ấy là người biết y thuật duy nhất quanh đây. Ngày thường ông cũng

sống

giản dị, hiền hoà nên nếu ông muốn thu a Vĩnh theo học cũng tốt.Chương 51: Ông ngoại đẹp traiTháng tám năm nay vẫn còn mưa ngâu rả rích mấy ngày. Hôm nay trời mới hửng nắng, không khí ấm áp dễ chịu hơn. Lưu bá qua nhà chơi, cha mang bàn ghế ra sân, gió chiều thổi vào mát rượi. Đang nói chuyện thì thấy Nguyễn bá đi đến. Từ hôm bá ấy tặng nhân sâm, cha càng coi trọng bá ấy hơn. Ba người chào hỏi nhau rồi cùng ngồi vào bàn. Nương đã nướng khô mực, cá lóc, tôm và để bình rượu nhỏ trên bàn. Cha và Lưu bá đều ít uống rượu, nhưng cũng nhâm nhi vài chén lúc rãnh rỗi hay lễ tiệc.

– Mời Nguyễn huynh!

– Không cần khách sáo vậy.

– Lúc trưa đệ ghé thăm Lý đệ, đệ ấy đỡ nhiều rồi, có thể ngồi dậy ăn cơm rồi.

– Ta cũng có đến thăm hôm kia, từ từ sẽ khoẻ, chỉ là …. haiz.

Cả ba người đều trầm mặt, ai cũng không nỡ nói đến tương lai của Lý Trám. Mất một chân đi lại rất khó khăn, kế sinh nhai thì tính làm sao? Lý Sao còn nhỏ quá, vài năm nữa mới có thể tự nuôi thân.

– Nghe nói da con sấu đó bị rách nên bán không được giá, hơn mười quan, tiền thuốc thang xong cũng hết.

Lưu bá chắt lưỡi nói. Cha quay sang hỏi:

– Nguyễn huynh qua có chuyện gì sao?

– Cũng có, hôm trước ta thấy trong nhà đệ có mấy món đồ lạ, thấy tiện dụng nên định hỏi là đệ làm sao? Có bán không?

Cha và Lưu bá đều ngạc nhiên, rồi cha cười vui vẻ hỏi:

– Huynh nói kệ, móc sao?

– Là cái nào? Sao ta không thấy?

Lưu bá nhìn vào nhà hỏi, ông qua đây thường xuyên mà có thấy gì lạ đâu. Thế là cha vui vẻ dẫn hai người vào trong nhà xem móc quần áo, kệ treo tường, ghế đẩu.

– Nguyễn huynh mang về dùng, rất tiện lợi. Ta sẽ làm thêm cái khác.

– Ta thật thích, nhưng không thể lấy không.

Cha xuống bếp hỏi ý nương, bàn bạc xong cha nói giá cho Nguyễn bá rồi hẹn ngày giao đồ. Bình ca cười hớn hở, hắn không ngờ có người thích và muốn mua mấy đồ này.

– Nương, mấy cái này mang lên chợ bán được không?

An ca hỏi, tuy nhiên mấy món này lớn, nặng nên khó mang theo. Nhà Lưu bá có ghe, chợ phiên nào cũng làm lái đến chợ chắc được. Mai nói ý tưởng này với a An, hắn gật đầu rất nhanh.

Sáng hôm sau cha sang nhà Lưu bá hỏi ý của bá ấy. Có việc bán dầu đường cho Tiêu Ân nên cả nhà rất nhanh quyết định chuyện giao Lưu bá bán mấy món đồ. Đương nhiên là nhà mình bán giá ‘sĩ’ để nhà Lưu bá bán giá ‘lẻ’ ở chợ Sông Lớn. Lưu bá và Tương huynh đi theo cha về nhà, xem các món đồ, ước lượng làm sao xếp lên ghe, che mưa nữa.

Chưa đến ngày chợ phiên thì nhà Lưu tam thúc vào, dọn dẹp miếng đất nhà cũ của Lưu bá, bắt đầu dựng nhà mới. Buổi chiều Mai đang xem mấy khay trứng vịt trong lò, cô đang tính xem ngày nào có thể soi tìm trứng không phôi (trứng vữa – không có con) loại bỏ.

– Tứ thẩm có nhà không?

Cúc tỷ đứng dậy ra sân xem.

– Tam bá mẫu, tìm nương cháu sao?

– A Cúc à? Còn nhớ bá mẫu?

Giọng người đàn bà cao, sang sảng cùng tiếng bước chân đi vào. Nương cũng đứng dậy ra đón, Mai đậy lò ấp trứng, ngồi xuống sạp tre. Chuyện nhà nàng nuôi đàn gà rừng có vài nhà biết. Có người hỏi thăm, có người bĩu môi chê cười nên cô dặn người nhà không nói bên ngoài chuyện ấp trứng vịt này.

– Tẩu đến chơi, bên đó dựng chòi xong chưa?

– Chưa xong, nhà thím hơi nhỏ hả, có phòng cho a Bình cưới vợ chưa?

– Chưa có, a Bình còn hai ba năm nữa, lúc dựng nhà vội vàng nên không làm lớn được.

– À, lúc đó mùa nắng, giờ ta lo trời mưa bùn lầy. Quần áo giày đền dơ không như ở làng chài, dính cát rửa là xong.

Lưu tam bá mẫu lưu loát so sánh điều kiện ở đây và làng chài, nào là nhiều muỗi, bùn lầy, nhà cửa xa nhau không biết nói chuyện với ai.

Mai và Cúc tỷ vừa đương đệm vừa nghe, nương ừ, à vài câu, không biết bà qua đây làm gì? Phàn nàn sao?

– Vườn bên kia ít rau, nhà thím chắc có nhiều, cho ta một ít làm bữa được?

À, cuối cùng nói lý do chính rồi, mà sao bá mẫu không mang rổ theo, xin rau xin rổ luôn à? Nương đứng dậy nói được rồi dẫn bá ấy ra vườn, cái này có tính là sai lầm rồi không? Vì sau khi bá mẫu về, Mai ra vườn hái rau thì thấy vườn rau ‘tan nát’.

– Nương ơi, ai phá vườn rau vậy?

– Haiz, chọn cái này chê cái kia,

Nương không trả lời mà lầm bầm rồi thở dài. Lúc a Vĩnh từ nhà lang y về, Mai kéo hắn ra sân vườn nói:

– Ca làm hàng rào, trồng cây che lại vườn cây thuốc.

Hai anh em nhìn vườn rau bên kia mà thật giận, a Phúc nghe nói cũng chạy ra. Hắn nhíu mày rất giống cha nhìn buồn cười, Mai phì cười nói:

– Đệ lấy rổ, tỷ nhặt rau dập cho gà ăn.

– Dạ.

Mấy anh em cắt rau bị dập, nhặt mấy ngọn rau non rớt xuống đất, đám gà rừng không chê, mổ tóc tóc. Người nhà nông ghét nhất là người ta phá vườn rau ao cá. Ăn bao nhiêu không tiếc mà tiếc nhất là hái rồi để đó không ăn. Giống như ở hiện đại, mấy ban trẻ ở thành phố về quê. Cứ ào vô vườn trái cây hái hết trái già trái non mà đâu có muốn ăn, chỉ hái cho đã tay. Thiệt là họ không chăm sóc nên không biết công sức người ta bỏ ra cực khổ như thế nào.

Hôm trước Trương bá mang tám mươi văn đến cho a Phúc, thật ra là trả tiền hai con gà của hắn, cha không nhận vỗ đầu a Phúc nói:

– Con trai út đệ biếu Lý thúc, Lý ca dưỡng bệnh, đúng không con?

A Phúc hiểu chuyện gật gật đầu, mím mím môi mỏng, đúng là trẻ con. Mỗi ngày hắn cho gà ăn đều đếm tới đếm lui không chán, như sợ mất thêm con nào hắn sẽ đau lòng.

Mấy hôm sau Mai và a Phúc chống ghe lườn qua nhà tứ Mi. Trong lòng ghe là hai con vịt nước cha đặt bẫy được. Nhà Lưu bá rất bận rộn giúp Lưu tam bá dựng nhà bên kia. Nhà Mai cũng giúp nhưng chỉ có cha và Bình ca qua mấy ngày khi dựng cột, kèo.

Chỉ có tứ Mi và ngũ Mi ở nhà, mấy đứa nhỏ neo ghe rồi vào nhà sau chơi. Ngũ Mi hơn hai tuổi đã biết quấn sợi đay, tay nhỏ xoay xoay trục gỗ nhìn thật đáng yêu. Mai thấy miếng lót giày và sợi đay đan dở trên sạp tre nên hỏi tứ Mi

– Muội biết đan giày rồi?

– Muội mới học làm, đế giày cứng quá.

– Muội giỏi ghê, tỷ chưa làm thử nữa.

– Đâu có, tỷ với Vĩnh ca mới giỏi, cha nói tỷ biết trị thương, cứu mạng Lý thúc.

Chuyện Vĩnh ca biết trị thương đã lan ra bên ngoài, người ta nói a Vĩnh bỏ qua Mai vì xưa nay rất hiếm nghe nói có nữ lang y. Người ta nghĩ Mai giúp anh trai thôi. Vậy càng tốt, cô không nên ra mặt.

Ngồi chơi một lát hai chị em về, có chiếc ghe neo ở cầu nước, nhà có khách. A Phúc nhảy lên cầu nước, giúp buộc ghe lườn. Vừa đi lên thấy Sinh ca cùng Bình ca đang dìm hai cây gỗ sao ngâm xuống rạch. Sinh ca đến, vậy bà ngoại đến rồi? Mai không nhớ rõ bà ngoại, cô chỉ gặp bà hai lần lúc nhỏ nên không có ấn tượng.

Trong nhà cha ngồi bàn tròn tiếp chuyện ông lão có gương mặt hơi dài, chòm râu ngắn đã có sợi bạc, tóc vấn quấn khăn đen nghiêm chỉnh. Trên bộ ván là bà lão gương mặt tròn tròn, miệng nhai trầu, đôi mắt rất tinh anh, nương và Cúc tỷ ngồi sau bà.

Bà thấy hai chị em, ngoắc tay gọi:

– Mai nhi, a Phúc, lại đây với ngoại, lớn quá rồi!

Hai đứa khoanh tay chào ông bà ngoại rồi tiến về bộ ván gần bà ngoại. Ông ngoại nhìn nghiêm túc nhưng lúc cười nhìn Mai lại rất ‘đẹp trai’.Chương 52: Soi hột vịt lộnÔng ngoại như đang nói tiếp câu chuyện dang dở:

– Không cần nghỉ mệt đâu, cha ra xem ruộng nhà con. Lúc này phải chú ý sâu ăn lá, đυ.c thân, đi.

– Dạ, cha.

Ông ngoại và cha đi thì mọi người xuống sạp tre trong bếp ngồi.

– Nương đi nằm chút không?

– Ta không mệt đâu, chiều nay kho thịt hột vịt cho mấy đứa ăn.

Bà ngoại và nương đang nói chuyện thì Cúc tỷ kéo tay a Phúc nói:

– Đệ chạy đi xem chuồng gà của đệ đi.

A Phúc không hiểu, nhưng cũng chạy đi. Cúc tỷ nháy mắt cười với Mai, loáng cái nhóc đã chạy vào hớn hở nói:

– Có mấy con gà con trong chuồng, ở đâu có vậy tỷ? Của nhà mình sao?

Hắn vui vẻ hỏi liến thoắng, nương cười cười nói:

– Ông bà ngoại mua cho con đó.

Hai đứa nhóc cảm ơn bà, bà vuốt gương mặt, cánh tay tròn tròn của a Phúc.

– Nghe nói a Phúc thích nuôi gà nên bà mua cho, con cho nó ăn uống đầy đủ. Mai mốt nó đẻ trứng cho con ăn.

Chắc là dì dượng năm kể cho bà ngoại nghe rồi. Có thêm gà nhà được thuần hoá vậy con của chúng là gà lai, chúng có tính trội của hai loại, tốt quá, Mai vui vẻ nghĩ.

Ông ngoại là lão nông đúng nghĩa, từ sáng đến tối ở ngoài ruộng, vườn. Ông chỉ cha cách phân biệt các loại sâu, cách diệt sâu, còn canh mực nước trong ruộng nữa. Cha như học trò nhỏ chăm chỉ vâng dạ, Mai có cảm giác cha hơi sợ ông ngoại. Lúc cô lén hỏi nhỏ nương, nương mỉm cười xỉ trán cô ‘nói gì đâu’. Lưu bá cũng sang nghe ông ngoại nói, mời ông sang ruộng xem giúp.

Ngày thứ ba sau khi ông bà ngoại đến, cha mời Dương ông, Bùi ông, Đỗ lang y, Nguyễn bá và mấy người đàn ông nhà Lưu bá đang dựng nhà bên kia đến nhà Mai ăn cơm chiều. Bữa cơm chỉ là mấy món quen thuộc nhưng đều là người có giao tình với cha nên không khí thật hài hoà.

Bà ngoại nấu món măng vịt, nước mắm gừng thật ngon. Vịt nước không có lớp mỡ dày, thịt săn, ngọt. A Phúc và ngũ Mi cầm cái đùi vịt ăn ngon lành. Vĩnh ca kéo Lý Sao từ nhà lang y đến tham gia. Vết thương trên tay hắn đã khô mặt, không rướm máu nữa, nhưng vết sẹo còn có đường khâu giống như chân rít sẽ rõ mồn một. Cô chỉ có thể làm được như thế, đắp thuốc liền sẹo cũng không tốt hơn bao nhiêu. Lý thúc đã khoẻ hơn, chỉ là việc đi lại rất khó khăn, phải nhờ người khác giúp đỡ.

Ăn cơm xong nhóm đàn ông bày rượu ngồi uống ngoài sân. Trăng thượng tuần mọc sớm, treo trên bầu trời trong vắt. Hôm nay ông bà ngoại muốn làm quen với người trong làng nên mời đến dùng cơm thôi. Như ông nói: bà con xa không bằng láng giềng gần. Ông bà ở xa, có việc sẽ không đến giúp được nên dặn cha nương đối đãi người trong làng tốt, còn nhờ cậy qua lại.

Ông ngoại lo lắng tiếp khách đàn ông chu đáo. Bà ngoại tất bật nấu nướng món ngon đãi khách, giúp con gái con rể thêm bạn thêm người tương trợ. Không cần dạy đạo lý cao xa, nhìn ông bà ngoại đối đãi với người thân sơ mấy đứa nhỏ sẽ học được cách

sống

ở đời.

Dương ông đặr ly rượu vừa uống hết xuống hỏi ông ngoại.

– Bên Trấn Giang có tin gì không?

Ông ngoại trầm ngâm chút mới lên tiếng.

– Ta cũng nghe nói vài tin tức, Quốc Chúa ban chiếu lập Dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, phái Lễ Thành Hầu đưa thêm người vào khai hoang.

– Cái này đáng tin. Dạo gần đây nhiều ghe lái tìm mua lương thực, nghe nói là Nguyễn hầu tích trữ cho di dân đàng ngoài vào đây.

Đỗ lang y nói, ông hay đi các vùng tìm thuốc, trị bệnh nên tin tức cũng linh thông.

– Việc văn tự đất đai cũng khó khăn, chắc sắp có thay đổi. Làng mình có thêm nhiều nhà, ta lo lắng.

Dương ông không nói rõ lo lắng cái gì, nhưng mọi người trầm mặc. Lo lắng nhất của người dân ở đây là giặc cướp. Làng nào trù phú, thịnh vượng mà không có quan phủ binh lính đều là mối hoạ ngầm.

– Nguyễn huynh xem năm nay thời tiết thuận lợi, chắc được mùa chứ?

– Ta cũng nghĩ vậy, phía trong nhà ta mưa sớm hơn, mong là gặt trước khi nước lên.

– Cha, lúc đó nhà con vào gặt phụ.

– Không cần đâu, làng trong đó làm dần công. Nhà con làm lúa năm đầu

tiên, phải lo đương đệm, láng sân, dựng bồ.

Chuyện làm nông luôn là đề tài thường trực của nhóm đàn ông.

– Ta thấy làng mình cũng làm dần công đi.

Dương ông vừa nói là mọi người đều gật đầu, dần công là cách người làm nông giúp đỡ lẫn nhau vào mùa thu hoạch.

Trong bếp mấy người đàn bà cũng rôm rả vừa nói chuyện vừa làm luôn tay. Bà ngoại biết làm mấy loại kẹo mứt từ cây trái quanh nhà. Có kẹo dừa, kẹo chuối, mứt chùm ruột, mứt khoai lang. Bé ngũ Mi đã nuốt luôn hột chùm ruột nên bá mẫu không cho bé ăn nữa. Bé mếu máo làm nương mủi lòng nhét thanh kẹo chuối cho bé ăn tiếp.

Ở làng chài, thời gian của đàn bà con gái thường là vá lưới, làm cá muối, phơi mực, phơi cá. Ít có thời gian làm bánh mứt như ở làng làm nông. Mấy năm nương Mai ở làng chài cũng không làm bánh mứt thường xuyên mà theo bà nội học vá lưới, làm khô cá.

– Bá mẫu thật khéo tay, a Châu nhà cháu thích ăn nhất kẹo mứt.

Lưu bá mẫu ngồi bên bàn nhìn mọi người làm chen miệng nói. Mời khách đến nhà cũng không thể để khách làm việc. Chỉ là lúc nãy ăn cơm không thấy bá mẫu giống khách mà như đang ở nhà, nhìn vào nồi măng hầm thịt vịt xem còn nhiều ít. Lúc này thì tam bá mẫu quay lai ‘làm khách’ chỉ ngồi nhìn người ta làm. Lại có ý muốn mang đồ ăn về nhà nữa, thiệt là!

Người ở đây khi đến nhà người ta làm khách sẽ mang theo ít đồ đến gọi là tặng lễ, tuỳ theo đám tiệc gì mà chủ nhà sẽ ‘trả lễ’ mang về. Ví dụ như đám giỗ, cúng đầy tháng, giáp năm cho em bé thì có quà đáp lễ, đám cưới, đám hỏi thì không có. Mời cơm đâu có lệ cho mang về nhà?

Ý tứ của tam bá mẫu đứa nhỏ như a Phúc cũng hiểu, Mai cười cười nói:

– Bá mẫu xem bà ngoại cháu làm đi, dễ lắm, mai mốt bá mẫu hay Ngọc tỷ làm nhiều nhiều cho a Châu ăn. Ngũ Mi cũng ăn ké chút. Mà tam Mi tỷ khéo tay lắm, cái này làm dễ ợt.

– Miệng a Mai mới ăn lén kẹo hay sao mà ngọt dữ! Tỷ có làm chỉ cho a Phúc ăn thôi.

Tam Mi cười nói lớn, còn vươn tay búng lỗ tai Mai nữa. Thật ra mứt kẹo này làm không khó, có người dạy làm, nguyên liệu có sẵn chỉ tốn chút công là làm được. Còn khéo tay thì làm đẹp mắt, không khéo hơi xấu nhưng ở nhà ăn vẫn được, trẻ nhỏ mà đâu có khen chê nhiều. Quan trọng là đàn bà con gái trong nhà có siêng năng bỏ công ra làm hay không thôi.

Lúc khách về thì trời đã tối hẳn, sao lấp lánh trên bầu trời. Nương đốt ngọn đèn nhỏ, bà ngoại ngồi trên sạp tre soi trứng vịt, xoay đầu to trứng lên trên, chụm tay che, bà nói:

– Cháu nhìn nè, chấm đen này, cái này là có con.

Mấy đứa nhỏ đều bu xung quanh xem bà làm, còn thử soi nữa. Bốn mươi tám trứng có hai trứng bị nứt vỏ, mười bốn trứng không có con, còn lại ba mươi hai trứng. Mai thì rầu rỉ mà mọi người lại vui mừng, ba mươi hai trên bốn mươi tám, tỷ lệ hơi thấp.

– Cha thấy làm cái lò ấp này được.

Ông ngoại chắp tay sau lưng nhìn cha đặt hai khay trứng có con lại vào lò nói.

– Dạ, ngày mai con đắp thêm một lò nữa.

Mai hì hì cười, cha đúng là nghe lời, ông ngoại nói gì nghe nấy.

– Vịt mau lớn hơn gà. Tháng sau có vịt con thì nhà con bán được vịt lớn lúc giáp năm, mua quần áo mới.

– Bà ngoại, con muốn nuôi heo. Ở đâu bán heo con vậy ngoại?

Ừ, nuôi heo đi, nghe Mai hỏi ai cũng muốn nuôi heo.

– Để ông bà ngoại hỏi thăm xem nhà ai bán heo con.Chương 53: A Vĩnh bái sưGần đến Tết Trung thu, bà ngoại dạy Cúc tỷ cách làm bánh dẻo bột gạo nhân đậu xanh cúng đêm trăng rằm. Ngày mai ông bà cùng Sinh ca về nhà. Có Sinh ca theo giúp, a Bình đóng kệ, móc nhanh hơn, lần này là để ông bà ngoại mang về dùng. Còn đóng cho Sinh ca một tủ quần áo nhỏ, năm sau ca ấy thành thân. Mai đang nghĩ cách làm bàn trang điểm tặng ca ấy, vẫn còn thời gian.

Mùng chín là ông bà ngoại đi về nhà ở Trấn Giang. Mấy đứa nhỏ đều quyến luyến. Bà ngoại dặn dò nương rất nhiều. Phải đến qua năm khi Sinh ca thành thân mới gặp lại. Nương và Cúc tỷ gói gém khô cá, khô mực để ông bà mang về. Trấn Giang ở hơi xa biển, mấy món này khó có được.

Chiều ngày rằm Trung thu trời đổ mưa, không lớn nhưng dai dẳng đến tối, không thấy mặt trăng đâu cả. Cha bày đồ cúng trên bàn ngoài hiên, có rượu, bánh dẻo, trái cây. Vĩnh ca chỉ hướng nhà Nguyễn bá có hai cái đèn l*иg bằng tre dán vải đỏ treo trước cổng nhìn thật sinh động, ấm áp.

– Năm sau nhà mình cũng làm nha tỷ.

A Phúc nhìn đèn l*иg ao ước nói.

– Ừ, Tết mình treo luôn đi.

– Thật?

– Thật.

Thời gian này quá bận rộn lo kiếm tiền để dành mua lương thực nên Mai quên vụ đèn Trung thu. Đến Tết sẽ rãnh rỗi hơn, dùng nan tre làm đèn l*иg tròn như nhà Nguyễn bá không khó.

Cúng xong nương cắt bánh dẻo ra, mấy đứa nhỏ vừa ăn vừa cười đùa.

– Bánh này khác bánh năm rồi hả nương?

– Ừ, cái này làm theo kiểu nhà ngoại, nhân bánh có thêm dừa, bột cũng có nước cốt dừa.

– Mấy ngày nữa thất thúc mới vào đây sao?

– Chắc vậy, thất thúc phải ở nhà ngày Trung thu chứ.

Đến lúc sắp đi ngủ thì trời trong, mặt trăng hiện ra tròn vành vạnh giữa trời. Đêm nay mười bốn trăng vừa đủ tròn, tối mai đêm mười lăm thì trăng bắt đầu già rồi!

Lưu tam bá mẫu sai Ngọc tỷ qua xin rau hai lần. Cúc tỷ đều tự mình đi hái đầy rổ mang vào mà không cho a Ngọc ra vườn. Ngọc tỷ cũng không hỏi tại sao còn vui cười ngồi sạp tre ăn hai thanh mứt chuối chờ, lúc về còn cầm theo hai thanh nói là cho a Châu. Nghe tứ Mi nói qua nhà bên đó hái rau mấy lần, cũng quần nát vườn rau. Lưu bá mẫu đào mấy gốc rau mang qua vườn bên đó dạy Lưu tam bá mẫu và Ngọc tỷ, a Châu cách trồng, tưới nước, làm giàn cho dây mướp dây bầu leo. Mong là sẽ không qua hai nhà này xin nữa.

Thật ra nhà ai cũng có vườn rau, người nhà ăn không hết, cho hàng xóm hay dòng họ thì đâu có tiếc. Chỉ là người nông dân ghét nhất là kiểu hái non hoặc giẫm cây ngắt ngọn. Người làm vườn nhìn cảnh đó khóc không ra nước mắt luôn!

Vĩnh ca từ chỗ sư ông về lấy gói vải từ trong rổ ra nói với Mai:

– Đỗ lang y đến gặp sư ông, kêu ta vào hỏi chuyện hôm trước.

‘Chuyện hôm trước’ là ý chỉ chuyện trị thương cho Lý bá. Sư ông từ chùa lớn ở Nam Vang về trước Trung thu mấy ngày. A Vĩnh đến học và dọn dẹp tịnh xá để cúng rằm. Có nhiều nhà trong làng mang bánh mứt, trái cây đến cúng. Nhà Mai cũng cúng bánh dẻo, mứt gừng, còn có thêm hai cân gạo nếp.

– Ca kể lại chuyện hôm đó. Đỗ lang y nói muốn thu ca làm đồ đệ, theo ông ấy học. Sư ông nói y thuật ông có hạn nếu ca được lang y thu nhận rất tốt. Sư ông nói ta rất có ngộ tính.

A, thì ra là Đỗ lang y chờ sư ông về mới nói, vậy mới đúng lễ. A Vĩnh vẫn còn hưng phấn, chắc được sư ông và lang y khen hắn có ‘ngộ tính’ về y thuật.

– Ca trả lời sao?

– Ta nói sẽ hỏi ý kiến cha nương, a… Ta còn nói rất muốn học y thuật sau này trị thương cứu người.

Ha ha, cũng biết lấy lòng cả hai ông lão nha.

– Đỗ lang y nói Dương ông muốn nhờ dạy thêm hai đứa cháu của ông ấy. Sư ông đồng ý rồi, chỉ cần chịu học thì giống ta, cách ngày đến tịnh xá học chung.

– A, vậy ca là đại sư huynh rồi, đã nha.

– Đã gì chứ!

A Vĩnh nhíu mày nhăn mặt nhưng không giấu nổi vui vẻ trên mặt làm Mai phì cười. Hắn mới mười tuổi, làm đại sư huynh cũng oai lắm! Ha ha.

– A, lang y đưa cho ca cái này nói ca giữ cẩn thận.

Bây giờ hai đứa mới nhớ gói vải, mở ra xem là hai kim khâu và một ống gỗ quấn sợi chỉ mãnh màu trắng, là kim chỉ khâu của lang y. Là chê vết khâu của cô hôm trước quá xấu sao? Nhưng mà đây đúng là vật quý, hơn nữa có ý công nhận hai đứa đã làm tốt, sau này có thể trị thương rồi. Mai chạy lấy cái hộp gỗ nhỏ cô kêu Bình ca làm cho cô, đặt túi vải kim chi vào, cất trong phòng.

A Vĩnh không kể hết chi tiết buổi nói chuyện. Có thể hắn chưa hiểu ẩn ý trong ánh mắt của sư ông và Đỗ lang y chiều hôm đó. Hai người nghe a Vĩnh kể chuyện cách Mai dùng rượu hạ sốt, uống nước dừa, đặc biệt là lúc khâu vết thương cho Lý bá, Đỗ lang y đã hỏi:

– A Mai tự mình khâu sao? Lần đầu muội muội con làm việc này?

– Dạ phải, lúc con khâu cho Lý Sao, tay con run lắm. Muội ấy nói như vậy sẽ làm bệnh nhân đau đớn hơn. Chắc a Mai cũng sợ Lý thúc đau nên khâu rất nhanh, chỉ là muội ấy đổ mồ hôi rất nhiều.

– Bình thường a Mai cũng biết cây thuốc, trị bệnh?

A Vĩnh nhìn sư ông rồi lo lắng nói:

– Mỗi lần sư ông dạy con cái gì con đều nói muội ấy nghe. Vườn cây thuốc trong nhà là muội ấy chăm sóc với con.

Sư ông cười hiền lành nói:

– Con đừng sợ, con làm vậy rất tốt. Con có ngộ tính cao, chỉ cho muội muội biết càng tốt.

Ý ông là muội con chỉ mới nghe qua lời con nói mà đã biết trị thương như vậy cũng khiến người ta kinh ngạc, là con biết cách dạy hơn ta!

Đỗ lang y gật đầu, nhưng mà Mai là con gái, nam nữ hữu biệt. Sau này lớn lên càng khó – không thể ra ngoài trị bệnh, thôi thì bồi dưỡng a Vĩnh – hắn cũng thật sự có ngộ tính.

Tối hôm đó a Vĩnh nói cha nương biết ý của sư ông và Đỗ lang y. Hai người rất vui mừng, nghĩ một hồi cha nói:

– Cha đi gặp Đỗ lang y tạ ơn. Nửa chữ cũng là thầy, dù con không làm lễ sư đồ với sư ông cũng không thể quên ơn. Sau này vẫn phải đến giúp sư ông chăm sóc sân vườn, quét dọn tịnh xá. Việc nhà không cần lo.

– Con sẽ đến giúp sư ông và học ở nhà lang y, nhưng việc nhà con cũng làm được.

A Vĩnh hơi dỗi nói, hắn chỉ đi học y thuật thôi, giống như trước đây cách ngày đến gặp sư ông. Cha nói giống như bị đuổi khỏi nhà vậy?

– Học y thuật rất vất vả, con tưởng dễ dàng sao?

Cha có vẻ giận nên lớn giọng, không khí vui vẻ bỗng chốc trầm xuống. Mai ở hiện đại nên quên mất đạo sư đồ thời này rất trọng. Mấy đứa nhỏ thì chưa bao giờ được đi học hay ra bên ngoài, quanh quẩn sống trong nhà, làng chài nên không biết.

Thầy như cha, đạo sư đồ có khi còn nặng hơn đạo phụ tử. Một người khi thu đệ tử sẽ cân nhắc rất kỹ. Đệ tử giống như con, phải có trách nhiệm dạy dỗ. Sau này đệ tử ra ngoài lỡ gây chuyện thì người thầy cũng có trách nhiệm, đôi khi bị huỷ cả danh tiếng. Đối với đệ tử cũng vậy, nhận thầy là chuyện suốt đời, tuân thủ lời dạy của thầy. Nhiều khi đệ tử ở nhà thầy học tập, thỉnh thoảng mới về nhà.

– A Vĩnh, con phải cố gắng học, ngoài con trai trưởng của mình ra Đỗ lang y lần đầu thu nhận đồ đệ, con phải giữ lễ, biết không?

Nương nhẹ giọng nói.

– Dạ, con biết.

– A, vậy lang y có dạy ca học chữ không?

Sau khi giật mình, Mai nhớ ra chuyện quan trọng này. Cả nhà không ai biết chữ, mà hình như cũng không coi trọng. Trời ơi! Cần học chữ, Mai đã hơn tám tuổi rồi, nếu bây giờ không học sau này học càng khó, mà chữ Hán Nôm lại khó nhằn, phải thuộc lòng từng chữ nữa!

Mai nhăn nhăn mặt kéo tay áo cha:

– Cha xin Đỗ lang y dạy chữ cho Vĩnh ca, rồi ca ấy dạy lại tụi con được không? Biết chữ rất tốt, a… Sau này còn đọc được trên văn tự đất viết cái gì, có ghi sai ba mẫu thành hai mẫu hay không?

– Làm gì ghi sai chứ.

Nương phì cười gõ đầu cô.

– Con cũng muốn họ chữ, học tính như dượng năm.

A An lên tiếng, Mai nhìn đôi mắt hắn phát sáng, kiên nghị không khỏi tán thưởng. Hắn mới hơn mười hai tuổi đã có trực giác rất tốt. Nói là ‘trực giác’ vì hắn thật sự không biết rõ học chữ có lợi như thế nào, người lớn xung quanh hắn không ai nói cho hắn biết.

Mọi người đều nghĩ học chữ hay chữ viết chỉ dành cho những gia đình giàu có, quan lại. Họ cho con trai đi học chữ để thi đỗ trạng nguyên, tú tài. Tầng lớp quan lại, trí thức cách người nông dân rất xa. Họ nhận bổng lộc từ triều đình, có quyền thế, được miễn sưu thuế, trong làng luôn ngồi mâm trên, được cung kính. Nhà nông muốn cho con đi học phải tốn rất nhiều tiền mà đâu dễ đỗ công danh tú tài, trạng nguyên.

Thật ra học chữ để làm thơ, viết văn gì đó Mai cũng không nghĩ đến. Chỉ cần học chữ để biết đọc viết các văn tự đất đai, làm mua bán, quan trọng là ghi chép lại công việc hàng ngày để không nhớ sai hoặc bỏ quên là được.

Nghe Mai nói lợi ích của việc biết chữ trong công việc hàng ngày làm cả nhà ngẩn ra. Cô nói tiếp:

– Cha viết lại lời ông ngoại dặn sâu nào, làm sao diệt, cây lúa trồng bao lâu thì tháo nước, năm nay thu hoạch bao nhiêu giạ, được bao nhiêu cân gạo.

– Bình ca thì viết lại kệ gỗ dài, ngắn bao nhiêu, còn nữa lúc đóng ghe xuồng cũng ghi lại kích thước từng miếng gỗ, lần sau làm đúng như vậy, không sợ sai.

– An ca, Vĩnh ca thì mọi người biết rồi, phải ghi lại cây nào trị bệnh gì. Nương giao cho An ca tính mỗi con trăng nhà mình kiếm được bao nhiêu tiền, mua hết bao nhiêu. Rồi mỗi lần bán cho Tiêu Ân thúc, Lưu bá mà chưa thu tiền cũng ghi lại.

A Phúc mở to mắt nhìn Mai gấp gáp hỏi:

– Vậy đệ học chữ làm gì?

– A, đệ ghi lại xem mỗi lần nuôi bao nhiêu con gà, bán mỗi con bao nhiêu tiền, sau này nở con vịt con giao đệ nuôi, cũng phải ghi lại.

– Được, cha con muốn học chữ. Không sợ mất gà vịt của con.

Ôi trời, mỗi ngày đệ đều đếm lại mấy con gà, ai dám lấy mất chứ! Bà ngoại mua cho mười hai con gà con, nhưng do đi đường xa, đến nơi lạ chỗ bị chết hai con. A Phúc mếu máo, càng chú ý chăm sóc đàn gà. Thật ra hắn rất đắc ý việc hắn có đàn gà này. Mấy đứa trẻ trong làng ít nhà nuôi gà, chỉ nuồi năm sáu con là nhiều. Hắn có gần ba mươi con, nhiều nhất rồi, hí hí.

Nghe vợ con nói chuyện, Lê tứ nguôi giận, ông thấy a Vĩnh không coi trọng việc học y thuật với Đỗ lang y nên thật sự tức giận. Có lẽ lúc đầu được học cây thuốc với sư ông dễ dàng nên a Vĩnh chưa hiểu. Sư ông ở chùa là dạy ‘cho biết’, sau này a Vĩnh cũng không thể làm lang y được. Đỗ lang y dạy lại hoàn toàn khác, có ông là sư phụ thì a Vĩnh có thể theo ông học khám chữa bệnh, bốc thuốc. Hai ba mươi năm sau có thể tự mình làm lang y, cuộc sống không tính giàu có nhưng sẽ có ăn có mặc, không lo nghèo đói ( A Vĩnh: cha nghĩ tới hai ba mươi năm à?).

– Sáng mai cha mang rượu và một quan tiền đến nhà Đỗ lang y. Chuyện dạy chữ cha sẽ hỏi nhưng không chắc được.

Không ai dám nói thêm gì, nhìn cha vẫn còn uy! Lần sau nhờ ông ngoại nói, ha ha ha! Mai thầm nhủ trong bụng.Chương 54: Lễ trọngSáng hôm sau mặt trời vừa lên thì cha dẫn a Vĩnh mang rượu và túi vải có một quan tiền đi vào trong làng. Mọi người ở nhà tuy hơi trông nhưng ai cũng phải làm việc. Mai đếm số gạch trên thanh tre treo vách, hai mươi lăm ngày rồi, còn ba đến năm ngày nữa là vịt con nở, không biết vịt nước sớm hơn hay trễ hơn vịt nhà. Mai vẩy nước lên khay trứng, kiểm tra nhiệt độ lò rồi hỏi Cúc tỷ:

– Cái chậu nào để nuôi vịt con vậy tỷ?

– Cái này, tỷ để úp vách đó, cái rổ to rộng vành này làm ổ. A Phúc đã phơi khô rơm lót ổ rồi.

Mai mỉm cười gật đầu, tiếp tục vẩy nước ở lò thứ hai, lò này có sáu khay gần một trăm trứng, thanh tre thứ hai có tám vạch.

Giữa giờ tỵ thì cha về, cũng không nói gì mà ra ruộng luôn. Nương và An ca từ sớm đã đi nhổ cỏ lúa và xem sâu bệnh. Bình ca làm kệ và móc áo. Nhà Lưu tam bá gần xong, cuối tháng này sẽ cúng tân gia và Đòn đông. Mời nhiều khách ở làng chài và làng Đông Hồ. Lần này cha nương không cần nghĩ tặng quà gì, vì người ta đã ‘gợi ý’ rồi, đương nhiên là mấy món Bình ca đang làm.

Lúc Lưu bá mẫu biết chỉ lắc đầu nói:

– Ta cũng không cần nghĩ cho mệt, người ta cũng gợi ý rồi.

Tứ Mi và Mai đều phì cười, Mai huých tay ý hỏi là món gì.

– Giày, mỗi người một đôi.

– Cái gì?

Đùa sao? Tân gia tặng giày? Không phải giày chỉ do người trong nhà làm sao?

– Nói là tam bá mẫu lo dựng nhà không làm giày được, đất bùn nên đi giày mau hư, cả nhà ai cũng chỉ còn đôi cuối cùng. Còn nói người trong nhà, đâu có gì ngại.

– Không phải con dâu bá mẫu ở làng chài sao? Sao không làm?

– Nói con dâu không khéo như tam Mi.

Mai á khẩu, không biết nói gì, ‘bá đạo’ thứ thiệt! Bá mẫu tiếp lời hai đứa nhỏ:

– Còn nói ta qua nấu nướng, ta làm thức ăn ngon.

– Tẩu nhận lời à?

– Hôm đó cả nhà Lưu tam thúc vào, nhà họ đâu có thiếu người, ta chen vào làm gì? Ta nói hôm đó chợ phiên. Ta đi chợ với a Tương, không qua sớm được.

– Phải rồi, tẩu làm vậy đi. Nói tẩu không qua, chắc muốn kêu ta, ta chặn ngang xin lỗi hôm đó ta đi chợ Sông Lớn, xế mới về.

Ha ha, nương cũng có lúc nhanh miệng!

– Cười cái gì? Nấu xong ăn ngon ăn dở đều mang tiếng, ta không thèm!

Nương bình thường ít nói, không nghĩ lúc nói ra cũng chẹn người ta chết nghẹn.

Buổi trưa a Vĩnh về, lúc ăn cơm cha mới nói:

– Đỗ lang nhận lễ a Vĩnh rồi. Mấy năm đầu hắn còn nhỏ sẽ không dẫn hắn theo thăm bệnh mà ở nhà học sao thuốc. Lúc ông đi xa thì a Vĩnh vẫn có thể đến tịnh xá học với sư ông. Sư ông cũng đồng ý. Ta thấy nhà gần nên xin lang y cho hắn về nhà ăn trưa.

Còn việc học chữ? Sao ngưng nửa chừng? Thấy mấy đứa nhỏ vẫn nhìn mình không chịu ăn cơm, cha đằng hắng nói tiếp.

– Việc học chữ thì … ừ, được.

Haiz, có cần nói chậm vậy không?

– Nhưng Đỗ lang y nói ông cũng biết vài chữ trong đơn thuốc, ông sẽ dạy a Vĩnh từ từ.

Vậy là được rồi, cứ như vậy trước, mình học nét chữ cơ bản vài năm sau nơi này sẽ đầy ‘văn nhân’ không lo không có thầy dạy! Ở đây sẽ có Tao đàn Chiêu Anh Các nổi danh khắp nơi đó!

Học chữ vậy giấy viết thì sao? Phải nghĩ cách thay giấy viết, dùng tạm trước. Khi nhà có đủ tiền đi Trấn Giang hoặc Nam Vang mua giấy viết.

Nhà có thợ mộc thật thích, muốn đóng gì có đó. Mấy anh em tụm nhau lại rù rì trong chòi lá. Chòi làm kho sân trước được nới rộng thêm một gian làm chỗ đóng đồ gỗ, rất tiện dụng, không làm mạc cưa bay vào nhà. Hết một buổi chiều thì mỗi đứa có một cây bút gỗ, giống bút chì nhưng không có ruột than bên trong. Một cái bảng gỗ một thước (1) dày hai thốn tay. Cả đám nhỏ ùa ra bờ rạch đào bùn dẻo đắp vào bảng gỗ, khi nào đất khô thì tưới nước hoặc đổi đất khác.

Trời râm mát, có đám mây đen nặng nề trôi trên vũng Đông Hồ.

– Ca, nhìn kìa!

Đàn chim lớn vỗ cách bay lên từ bãi cây lát ven bờ. Tiếp đó là tiếng chim kêu vang xa và một mảng trắng loáng bay lên, là đàn cò trắng hay mò cá tôm ở bãi bùn trên cồn. Giống như hiệu ứng domino, bốn phía Đông Hồ mấy con cò vạc đang ăn rải rác từng nhóm cũng kêu quàng quạc vỗ cánh bay vυ't lên. Trên mặt sông là hai chiếc ghe nối đuôi nhau hướng vào trong làng. Mấy con chim cò này cũng làm quá đi! Cách xa như vậy mà.

Tiếng bìm bịp kêu nước lớn rộn lên. Bà ngoại nói nghe tiếng kêu sẽ biết chim bìm bịp trống mái kêu khác nhau, nhất là vào tháng chúng tìm nhau thành đôi. Chim bìm bịp bị mất bạn đời kêu càng thê lương hơn.

– Sao huynh nói hôm nay Trương nhị bá sẽ đến đón hai người về làng cũ ở Giá Khê, chắc họ đến đó.

Lý thúc đã chống nạng đi lại được, chỉ cần đắp thuốc để vết thương liền sẹo, ăn uống bồi bổ khí huyết là ổn.

Sáng hôm sau nhà Trương bá, Lý thúc đến nhà Mai cảm ơn và tạm biệt về Giá Khê. Tam đệ của Lý thúc rất gầy và thấp, da hơi đen. Ông ngồi nghe Trương bá và cha nói chuyện, không hề chen lời. Lý Sao đặt túi vải lên bàn, lấy ra hai miếng gỗ nhỏ cỡ bàn tay màu nâu, mùi hương nhàn nhạt từ từ lan toả: trầm hương!

Cha giật mình nhìn miếng gỗ rồi vội vàng đứng dậy chắp tay nói:

– Lý đệ, lễ này quá trọng, ta không thể nhận được.

– Lê huynh, không phải nhà huynh giúp thì mạng ta cũng không còn. Cái này là nhà ta tìm được trong rừng, không phải tốn tiền mua, không đáng giá lắm đâu.

Nhà Lý thúc còn có nghề đi tìm trầm. Trầm là vật quý hiếm đâu dễ tìm như thúc ấy nói. Hai miếng trầm này chắc là bảo vật trong nhà, giờ vì đền ơn nên mới mang ra. Nhà nàng không thể nhận được.

Mai nói nhỏ trong tai An ca để hắn chạy ra ngoài còn mình bước xuống bếp mang chén nước ấm mật ong pha gừng đặt lên bàn:

– Lý thúc khoẻ chưa ạ? Thúc uống nước mật ong này mau khoẻ.

Mai mời xong lui lại đứng sau lưng chỗ cha ngồi, nói nhỏ vào tai ông.

– Lê đệ có con trai con gái hiếu thuận, giỏi giang. Trương huynh ta thật hâm mộ.

Trương bá cười vui vẻ nói, hắn đúng là hâm mộ thật. Có con trai nhỏ là lang y thì không lo bệnh tật.

– Huynh quá khen rồi, mấy đứa nhỏ này còn ham chơi lắm. Làng huynh đi như thế nào, có dịp đệ đến cho biết.

Trương bá nói làng ông ở rạch lớn có nhiều cây giá (2). Làng chỉ hơn mười ngôi nhà, gần đó có hai ngôi làng nhỏ hơn. Hàng ngày họ chài lưới, đánh cá trên sông trên rạch, săn thú trong rừng. Họ đi chợ phiên mua lúa gạo từ thương lái. Ông kể có năm nước lên ngập đến nóc nhà không kịp dời đi phải ăn rau cỏ. Họ treo gạo lúa trên nhánh cây cao thì bị mấy con khỉ quen hơi người đến phá, có lúc bọn nó cũng hái trái rừng ném cho.

– Làng Đông Hồ này sẽ ngày càng thịnh vượng. Chiều qua ta gặp hai nhà theo vào đây sống.

Chưa hết câu chuyện thì Nguyễn bá đến. Là lúc nãy Mai nói An ca đi mời bá ấy. Chào hỏi nhau xong, Nguyễn bá ngồi xuống bàn hỏi thăm sức khoẻ Lý thúc. Đợi Nguyễn bá dứt lời cha nói:

– Lý đệ mang đến hai miếng gỗ trầm nói là đáp lễ tạ ơn. Nói thật Nguyễn huynh là nhà đệ chỉ giúp một chút nên không dám nhận lễ trọng. Hôm đó nhờ có nhân sâm Nguyễn huynh nên Lý đệ mới qua khỏi. Đệ mời huynh đến cốt để nhận lễ cho Lý đệ an lòng.

– Mong Nguyễn huynh nhận thì tiểu đệ mới an lòng. Nghĩa tình đệ vẫn ghi trong lòng, không dám quên.

Lý thúc khó khăn đứng dậy trên cây nạng nói. Trương bá cũng gật đầu nói phải. Từ Giá Khê đến đây một ngày đường, không xa, sau này còn qua lại thăm hỏi. Nguyễn bá nhận lễ nói gặp là duyên, sau này còn tương trợ nhau.

– Lý đệ, miếng trầm còn lại lưu để phòng thân. Cuộc sống sau này còn nhiều khó khăn.

Cha không nói tiếp nhưng ai cũng hiểu, ai cũng trầm mặc không tiếp lời.

– Ông bà nội thích uống mật ong pha gừng, uống vào khoẻ người. Sao huynh biết lấy tổ ong không?

Mai đành chen ngang giải quyết cho xong, dằng co hoài Lý thúc về nhà không kịp trước khi trời tối. Mai quay sang chỗ Lý Sao đứng như đang hỏi hắn. Hắn hơi giật mình, hiểu ra thì gật đầu. Đương nhiên Mai biết hắn biết, bé trai ở tuổi hắn ở gần rừng tràm mà không biết lấy tổ ong thì cũng quá tệ!

Cha giống như hiểu ý cô, vui cười nói:

– Đúng là cha nương đệ nói uống mật ong thấy người khoẻ ra. Nhà ta xin Lý đệ mấy tổ ong ngon hiếu thảo ông bà là được.

Mai nhanh tay gói miếng trầm còn lại giao cho Lý Sao.

‘Đứa nhỏ này lanh lợi hiểu chuyện, biết y thuật lại can đảm quyết đoán, hiếm thấy’ Nguyễn San thầm nghĩ. Hắn nhìn kỹ gương mặt nhỏ nhắn tròn tròn mà cảm thán hậu vận nhà Lê tứ sẽ rất tốt.

– Được, huynh yên tâm ta sẽ tìm tổ ong ngon gửi biếu bá phụ, bá mẫu.

– Đa tạ đệ.

Nói thêm vài câu dặn dò rồi tiễn khách, Nguyễn bá cũng về. Trên ghe Lý Trám nhìn con trai dặn:

– Ơn nghĩa nhà Lê bá, con ghi nhớ trong lòng ngày sau có dịp phải đáp tạ.

– Con biết.

Tối qua mưa rải rác làm buổi sáng càng trong lành. Mặt trời vừa lên ấm áp nhưng nghĩ đến việc cha và mình đến ở nhà tam thúc. Lý Sao thật khó chịu. Hắn chưa đủ sức một mình đi rừng hay đánh cá, phải nhờ cậy thúc ấy một hai năm.

Xoay đầu nhìn lại ngôi nhà nằm ẩn dưới rặng cây. Nơi đó có ấm áp, có tiếng cười làm hắn càng nhớ những ngày còn nương, còn a Sóc. Hắn cố ngăn giọt nước đang muốn tràn ra trong mắt.

Lý Sao năm nay mười hai tuổi, hắn chưa biết sự kỳ diệu của duyên phận. Có những cuộc hội ngộ rồi phân ly mãi mãi, cũng có những cuộc hội ngộ là khởi đầu của những con người sẽ trở thành thân thuộc. đọc chương mới tại dienvan.space

Mấy năm phân ly tưởng như dài, thật ra chỉ rất ngắn ngủi, là thử thách của duyên phận.

--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ---

(1): 1 thước = 0.47m

(2): một họ với cây đước, mắm

Tác giả: VRSSChương 55: Vịt con nở rồi!Cha cầm rổ khoai lang từ ruộng vào bếp, mấy củ khoai hơi nhỏ, củ thuôn dài, hơn mười ngày nửa mới thu hoạch được. Đất trồng khoai cao không được phù sa bồi đắp nên không phì nhiều màu mỡ. Nương nói dù có trồng thêm cây gì cũng thu hoạch kém, đợi qua mấy tháng nữa cho đất nghỉ mới trồng tiếp.

Đất cần phân bón mới giữ được độ phì nhiêu nhưng tìm đâu ra phân? Hôm trước ông ngoại chỉ cách ủ phân bằng lá cây, rơm rạ, nếu thêm phân gà phân heo càng tốt. Nhưng nhà cô chỉ có mấy con gà sao đủ cho ba mẫu đất. Phải nuôi thêm gà heo thì mới có phân bón. Trồng cây cỏ mới có thức ăn cho heo gà, đúng là vòng luẩn quẩn nhức đầu ghê!

Từ ngày Tương huynh làm lái đò đưa khách đi chợ Sông Lớn, hai nhà càng thêm thân thiết. Nương và An ca cũng không vất vả đi bộ khoảng đường dài, ở trên ghe còn có thể chợp mắt nghỉ ngơi. Lưu bá và Tương huynh còn dựng hẳn cái sạp nhỏ, lợp mái lá ven chợ Sông Lớn để có chỗ bày bán giỏ, đệm tre, móc gỗ, kệ mỗi lần chợ phiên. Sau khi đi chành Long Hồ về, Tương huynh học cách buôn bán, xem con nước, hiểu biết hơn trước nhiều.

– Trên đó có nhiều loại trái cây lạ, ăn ngon. Cháu định lần sau đi chành sẽ mua về bán ở chợ. Mang cá, mực khô ông nội đánh bắt được đến đó bán, giá cao hơn ở đây.

Trước ngày đi chợ phiên Tương huynh nói với cha Mai.

– Thúc muốn bán đường và mỡ thực vật ở đó không? Giá cao hơn ở đây nhiều, trong đó không thấy có cây thốt nốt như ở mình.

Ý tưởng rất tốt, chỉ là đường đi xa quá, giống như lúc bàn chuyện với dì dượng năm. Không thể đem hàng đi bán thường xuyên như chợ phiên thì tiền kiếm được rất ít, chỉ làm lúc nông nhàn. Hai nhà tính xong thì quả thật không ổn, đành phải bỏ qua, bán ở chợ Sông Lớn trước.

Khi mặt trời gần lặn sau dãy núi thì nhà Lưu tam ông từ làng chài đến, thất thúc cũng theo vào. Mấy đứa nhỏ lâu ngày gặp lại nói cười ríu rít. A Phúc kéo thúc ấy đến xem đàn gà trong sân. Còn tỉ tê kể chuyện hai con gà rừng đem đi hầm hạt sen và hai con gà con nhỏ đã chết. An ca trêu nó:

– Hôm đó đệ cũng ăn hết chén cháo gà hầm rồi, ngon không?

A Phúc phụng phịu liếc a An không thèm trả lời. Cha nương hỏi thăm nhà ông nội, cả nhà đều khoẻ. Tam bá và tam bá mẫu đang tìm mối cho Hân ca, nhưng hắn không chịu, nói là chưa muốn. Hân ca xin vô đây, ông nội nói để lúc thu hoạch lúa cả nhà nội vào giúp.

Bây giờ đang mùa đánh cá làm khô, nước mắm cho dịp cuối năm.

– Sao đệ không ở nhà làm phụ cha, cha cũng lớn tuổi rồi.

– Thiếu đệ cũng không sao, cha nói nếu ca biết đóng ghe xuồng thì tốt quá. Hôm nào không ra biển được cha cũng vào xem sao.

Ông nội đúng là biết phân nặng nhẹ, nhà mình đóng được ghe xuồng sẽ không lo cơm áo nữa. Giờ đến mùa lúa còn gần hai tháng, mấy cây gỗ ngâm dưới rạch chắc cũng dùng được rồi. Ngày mai đi tân gia nhà Lưu tam bá hết cả buổi, đi xong về bắt đầu xẻ gỗ.

Sáng nay nhà Lưu tam bá thật náo nhiệt, có rất nhiều người trong làng đến tham dự. Tam bá mẫu hay thật, chưa tròn tháng đã giao du rộng rãi như vậy, Người ở đây rất thân thiện, cởi mở. Nhưng ai cũng lo việc bếp núc, may vá, ruộng vườn nên ít đến nhà nhau, đặc biệt sắp vào vụ lúa như bây giờ. Trong nhà chỉ còn Cúc tỷ và Mai, hai chị em bận rộn trong bếp. Mai luôn ở cạnh lò bếp, theo cô đoán mấy ngày này vịt con đợt một sẽ nở. Không chỉ Mai mà cả nhà đều hồi hộp chờ đợi.

Cha đi tân gia vừa về thì nương và An ca đi chợ cũng về tới. Sau đó nương cùng Lưu bá mẫu sang nhà bên kia giúp dọn dẹp. Cha nói khách còn chưa về đâu, cha giả vờ say về trước. Mai mỉm cười, cha đúng là tham công tiếc việc, biết ông nội ủng hộ đóng ghe nên ông muốn bắt tay làm sớm.

Nếu đóng ghe thì cái chòi lá sân trước không đủ chỗ nên mọi người cùng nhau dọn xung quanh đủ chỗ cho khung uốn gỗ, đặt hai chiếc ghe và chỗ cắt xẻ nữa. Cúc tỷ và nương quét dọn sạch sẽ, mấy người còn lại kéo mấy cây gỗ lớn vào. Trong chòi có bảng gỗ đắp đất lớn vẽ hình ba tấm gỗ, hai mũi ghe và sườn ghe (sau này gọi là cong).

Bình ca lấy thước ra đo, làm dấu rồi bắt đầu cưa. Cha và thất thúc thay phiên nhau cưa cây gỗ lớn. Công việc thật vất vả, bụi gỗ bay khắp mặt mũi. Người cưa đứng khom lưng hai tay dùng sức mồ hôi nhỏ giọt theo mỗi đường cưa. Cái cưa dài gần hai thước hình chữ nhật, có một cạnh là lưỡi bằng sắt. Một người làm mất sức quá, nhưng lưỡi cưa này không đủ cho hai người cầm hai đầu.

– Tỷ ơi, tỷ, vịt con nở, nhanh lên.

A Phúc vừa chạy ra vừa gấp gáp nói.

– Thật?

Không kịp đợi a Phúc trả lời Mai chạy nhanh vào bếp. Mọi người cũng bỏ việc đang làm đi vào. Trong ngăn trên lò ấp vẫn được giữ ấm áp, khay giữa có hai trứng đã vỡ một đầu, mỏ vịt hồng hồng đã lộ ra. Con vịt con loay hoay phá vỏ làm quả trứng xoay một vòng. Hai trứng đặt gần nhau nên đυ.ng nhau bộp bộp. Mai hơi lo lắng nhìn mấy cái trứng còn lại trong khay, hơi chật rồi. Nếu mang chúng ra khỏi khay không đủ độ ấm chúng không nở được, hoặc vịt con sẽ chết mất.

Mai kéo Cúc tỷ nhóm bếp hai nấu cơm hàng ngày, nói ý cô đang lo. Tỷ gật đầu hiểu ý, mang cái rổ to chuẩn bị cho đám vịt con đặt gần bếp ‘hâm nóng’ nó.

Mai nhìn qua lò ấp, a Phúc cười tươi rói đưa ba ngón tay cho cô, ba con nở rồi sau.

– Cha. Tỷ, con và a Phúc trông chừng được rồi, cha không đi xẻ gỗ sao.

– Đi, đi chứ.

Cha nói thật nhỏ. Cả đám nhẹ bước ra ngoài, gương mặt đều vui vẻ, những giọt mồ hôi đã khô từ lúc nào.

Khay giữa đặt mười hai trứng đã nở hết, Cúc tỷ nhẹ nhàng nhấc khay ra, lấy vỏ trứng bỏ đi, nâng từng con vịt nhỏ vào rổ lớn đã hâm nóng sẵn cho chúng. A Phúc vội vàng mang chén múc nước cho chúng. Đám vịt này có bộ lông ướt nhẹp, màu vàng pha xám. Chúng lớn lên sẽ có màu trắng xám như cha mẹ hoang dã của chúng.

Mai chỉ a Phúc lấy cơm nguội, bóp nhỏ ngâm vào trong chén nước. Hai đứa bé chạy qua lại xem hai khay trên lò rồi xem vịt trong rổ. An ca thỉnh thoảng chạy vào xem. Lúc ca ấy đi lấy nước thốt nốt về còn mang theo năm trứng vịt nhặt được ở góc bờ lúa nếp. Thấy đám vịt nở gần hết Mai rủ An ca chống ghe lườn ra bãi lát tìm thêm ổ vịt nước, ấp lò thứ ba nữa, ha ha.

A Phúc không dời mắt khỏi đám vịt con, lâu lâu rờ vào rổ xem độ nóng. Mai dặn nhóc không được để vịt con lạnh, nước trong chén không đổ nhiều, không để nước văng ra ngoài rổ.

Trời chiều râm mát, con rạch ngoằn ngèo uốn lượn, dòng nước lững lờ. Hai bờ rạch là từng rặng dừa nước chen chúc nhau, quài dừa cũng chen giữa những thân cây, nhánh lá. Cha hay chặt quài dừa để góc sân, đứa nào thèm thì chẻ trái ra ăn. Mấy cây dừa cạn và thốt nốt vươn cao, ngọn hùa theo chiều gió.

Gần đến vũng Đông Hồ thì con rạch rộng hơn, nước sâu hơn và đất mềm hơn. Bãi lát xâm xấp nước là chỗ đám vịt nước khoái nhất, ở đây có ốc, tôm và cá nhỏ cho chúng ăn. Vịt nước đi ăn theo đàn, nhưng đàn không nhiều con như chim hay cò. Mỗi đàn khoảng hai mươi con, có lớn có nhỏ. Bọn chúng xuất hiện nhiều vào mùa mưa, nước ít bị nhiễm mặn. Nghe nói chúng sống chủ yếu ở rừng tràm phía trong, có người còn kể đã từng thấy đàn vịt lớn kêu quạt quạt vang cả góc rừng.

Đến bãi lát An ca chống ghe dừng lại, nói:

– Ở đây đất lún sâu, muội đừng xuống.

– Dạ.

Đất ven sông mềm, lún đến đùi An ca nhưng hắn vẫn nhanh nhẹn đi vào phía trong. Có mấy gò đất nhỏ nổi lên khô ráo, mấy con vịt nước rất thích đẻ trứng ở đây. Chúng dùng mỏ gom cỏ lát quây vòng tròn lót bên dưới trước khi đẻ trứng. Trứng vịt nước chỉ lớn hơn trứng gà một chút, có màu xanh nhạt.

An ca nhẹ nhàng nhặt từng quả bỏ vào rổ nhỏ đã lót rơm, ở trên ghe lườn là rổ tre lớn. Vòng quanh bãi lát gần nửa canh giờ hai đứa nhỏ nhặt được hơn ba mươi trứng. Mặt trời đã xuống biển, mặt nước dát ánh đỏ, nước lớn ngang hông An ca thì hai đứa về nhà.

Nhóm xẻ gỗ vẫn đang làm, Vĩnh ca đã về nhà đang giúp việc lặt vặt. Mai ôm rổ trứng vào bếp. Nương đã về đang nấu cơm cùng Cúc tỷ. Thấy hai đứa thì vội đến đón lấy rổ nói:

– Nhanh đi tắm, coi chừng lạnh.

Mai đến nhìn đàn vịt con trong rổ một lúc mới chuẩn bị đi tắm. Cả nhà ăn cơm và vui vẻ nói chuyện nuôi vịt, làm chuồng, kiếm thức ăn. Đám vịt cũng chíp chíp góp vui.Chương 56: Lại là chuyện làng xómMấy hôm sau có người trong làng đến xem kệ, móc áo gỗ hỏi giá muốn mua. Nguyễn bá mẫu là nương của Tùng huynh kể. Hôm tân gia nhà a Ngọc, thấy kệ trong nhà tiện dụng biết là do cha Mai làm nên đến mua. Tính ra miệng rộng của Lưu tam bá mẫu cũng giúp đươc việc này.

Vừa tiễn khách về thì Tiêu Ân thúc đến lấy đường và dầu. Hôm nay thúc ấy có vẻ rất vui. Ngày thường thúc ấy luôn cười nói, giờ thì càng không dấu được tâm trạng. Cha mời thúc ấy vào bàn ngồi, rót chén nước, hỏi:

- Có tin tốt gì nói huynh nghe được không? Thấy đệ vui như vậy ta cũng muốn biết để chúc mừng đệ.

- Ha ha ha, không dấu được huynh.

Thúc ấy uống hớp nước, vui vẻ nói:

- Đệ gặp được bá phụ rồi.

- Thật? Khi nào?

- Đệ có kể huynh nghe chuyện ở Lũng Kỳ, sau đó đệ thu xếp đi theo thương lái đến Lũng Kỳ, gặp được một nhóm người đồng hương với cha và bá phụ. Đệ nhờ họ tìm giúp, có tin thì nhắn tin về đây. Không ngờ hai hôm trước bá phụ đi ghe đến tìm, còn có hai đường đệ theo cùng.

Tiêu Ân không nén được niềm vui trong lòng. Chuyện nhà thúc ấy có kể cho nhà Mai nghe lúc trước. Cha thúc ấy là người Tàu, theo bá phụ vượt biển đến Trấn Biên lúc mới mười mấy tuổi. Hai người cùng đồng hương lập nghiệp, tìm kế sinh nhai. Theo thời cuộc đi dần xuống vùng Phương Thành thì cưới nương thúc ấy là Đoàn thị. Hai người ở lại cửa biển Phương Thành, làm ruộng, đánh cá sinh sống. Bá phụ thúc thì theo nghề thương lái rày đây mai đó.

Mấy năm trước loạn lạc, cha thúc ấy mất, từ đó không còn gặp bá phụ. Đoàn thị một mình nuôi con, cưới vợ cho thúc ấy xong thì cũng bệnh mất. Nhà ngoại còn hai người cậu ở phía trong làng Thạch. Vợ chồng thúc ấy chuyển đến ở nhà ven cửa biển trên đường đất từ làng chài về đây được hai năm.

Tiêu Ân thúc vẫn nhớ lời cha dặn tìm kiếm bá phụ. Cuối tháng bảy, Tiêu Ân được tin có nhóm người hoa Quảng Đông đến Lũng Kỳ sinh sống, vội vã đến tìm, không ngờ chưa đầy hai tháng đã tìm được người nhà.

- Bá phụ muốn dựng nhà ở Lũng Kỳ để nhị đệ ở nhà, bá ấy và tam đệ tiếp tục làm thương lái các vùng lân cận, không đi xa nữa.

- Vậy tốt rồi, từ đây đi Lũng Kỳ hai ngày, đệ có thể thường xuyên qua lại. Ta nghe nói đường đi Lũng Kỳ không khó.

- Phải, lần trước đệ đi không nguy hiểm, ở trọ một đêm. Nếu đi ngược lên sông Giang Thành không phải nghỉ trọ, theo con nước đến tối neo tại bến ngủ luôn.

Nương mang lên dĩa mứt khoai lang non vừa làm, hỏi Tiêu Ân thúc:

- Thím Vanh Na khi nào sinh?

- Hai tháng nửa, đệ lo gần ngày gặt lúa đây.

- Gần ngày sinh đừng để thím ấy làm việc nặng.

- Đệ biết, tháng sau nương nàng ấy đón về rồi. Có bà đệ đỡ lo.

Vanh Na là tên của vợ Tiêu Ân thúc, thím là người Chân Lạp, nhà ở làng Thạch.

- Mình đệ gặt lúa kịp không? Lúc đó báo ta biết, ta đến giúp đệ một tay.

- Đệ có gần hai mẫu, đệ làm dần công với người trong sóc, huynh đừng lo.

Sóc là cách gọi làng của người Chân Lạp, Tiêu Ân thúc biết nói một ít tiếng Chân Lạp và tiếng Hoa Quảng Đông, Tiều Châu nữa.

Nói thêm vài câu Tiêu Ân thúc lấy đường dầu rồi đi nhanh về nhà. Cha ra xem mấy miếng gỗ đang được uốn trong ‘xưởng’. Dù sao cũng dùng lửa đốt cho gỗ ‘mềm’ từ từ uốn theo độ cong cần thiết nên cha xây vách lá, lợp mái xung quanh như cái chòi cũ. Mai nói cha mở rộng sân trước, dựng thành nhà xưởng cưa xẻ, gia công luôn.

Bí quyết đóng ghe là ở uốn, gia công mấy tấm be. Tính toán độ cong phù hợp và các miếng gỗ phải khớp nhau. Mai không phải thợ mộc, cô chỉ biết nguyên lý và trình tự đóng ghe nên trong lúc chờ gỗ được ngọn lửa hun nóng và có độ cong cần thiết.

Cô cùng Bình ca làm thử rất nhiều lần. Dùng gỗ nhỏ, mỏng dễ uốn đo, cắt và ráp chúng lại với nhau, cái thứ nhất, cái thứ hai,... Cái sau lớn hơn chút, cứ như vậy a Bình cũng từ từ biết làm sao cắt ván đáy, ván be, cái gì là tỷ lệ ghe mẫu – ghe thật.

Sáu ngày sau ba ván đầu tiên uốn xong, chín thanh cong cũng được tiện thành thì bắt đầu ráp thử cái ghe đầu tiên. Cha theo lệ đốt nhang, gạo, muối, hột vịt và tôm cua cúng trước khi làm. Suốt cả ngày hôm đó tiếng đυ.c, cưa không nghỉ. Ba miếng gỗ dày gần hai thốn, rất nặng, được ghép lại, kéo ra, đυ.c bớt, chỉnh mộng đến tối vẫn chưa xong.

Cha, thất thúc và Bình ca còn muốn đốt lửa làm tiếp, nhưng nương không cho. Cũng không phải gấp đến như thế, chỉ là nhìn thấy chiếc ghe sắp thành hình cha không dằn lòng được. Sáng hôm sau cả nhà đều dậy sớm hơn, lo vài việc hàng ngày xong thì đều ra xưởng tiếp tục việc dang dở. Vĩnh ca xin Đỗ lang y ở nhà hai ba hôm để phụ giúp.

Tỉ mỉ đóng ráp cũng xong vào ngày thứ năm, nhìn chiếc ghe đầu tiên nằm giữa xưởng, mùi gỗ còn thơm, mạt cưa rải rác khắp nơi, ai cũng vui mừng. Tay cha sưng lên vì cầm cưa đυ.c liên tục, mấy đứa con trai đều có vết bầm tím trên cánh tay, vết đỏ ửng trên bàn tay.

Mai xem các vạch đánh dấu trên vách, mất hai mươi hai ngày từ lúc bắt đầu cưa ván. Tuy là chiếc ghe đã xong nhưng phần mũi vẫn chưa được đẽo gọt kỹ, mấy thanh cong cũng vậy, còn vẽ mắt ghe nữa. Ở đây người ta dùng một loại nhựa cây màu vàng nhạt để trám đáy và một loại màu đen để vẽ, sơn lên thành ghe. Hôm trước cha đã mua để sẵn, vấn đề là không được lật úp ghe để trám nên cả nhà lại hì hục nâng chiếc ghe lên mấy khung đỡ, Bình ca chui xuống dưới tỉ mỉ trám các khe hở nhỏ giữa ba tấm ván.

Mấy hôm nay chỉ lo đóng ghe nên không chú ý, Cúc tỷ nói đàn vịt con đã lớn hơn. Lông khô ráo không còn thấm nước, bọn chúng chen nhau kêu chíp chíp đòi ra khỏi cái rổ tre. Chuồng gà lúc trước cũng không đủ cho đàn gà nên lại nới rộng vườn sau làm chỗ cho gà vịt. Hàng rào nuôi vịt kéo dài xuống khoảng rạch cạn sau nhà. Mai trồng một ít cây lát vào trong mép rạch giống như môi trường sống của đàn vịt.

Hôm nay là chợ phiên nhưng nhà Mai không ai đi bán được, xế chiều Lưu bá mẫu đi chợ về sang chơi. Nhìn mấy con vịt kêu chíp chíp theo Cúc tỷ đòi ăn, bá mẫu cũng muốn nuôi nên nương bắt mười con bỏ vô rổ, chỉ cách cho ăn. Nương cũng nói là vịt nước hoang nên bọn chúng thích nước, phải trông coi cẩn thận nếu không chúng sẽ theo đàn vịt hoang ở sông rạch đi mất.

A Phúc sợ vịt đi mất nên chạy ra trông chừng bọn chúng, còn lội xuống rạch xem hàng rào có chắc không. Lưu bá mẫu thấy hắn như vậy không khỏi khen.

- Coi a Phúc thật giỏi.

Bá mẫu còn đưa tay vuốt bụng, thở dài:

- Ngũ Mi cũng gần bốn tuổi mụ rồi, a Hà trông có thêm con trai mà chắc không được.

- Tẩu còn trẻ mà, mấy năm nay vất vả quá. Bây giờ đã tốt hơn, tẩu phải nghỉ ngơi nhiều, sẽ có thôi.

Nhà Lưu bá chỉ có Tương huynh là con trai nên bá mẫu luôn muốn có thêm, chỉ là sau khi sinh ngũ Mi thì sức khoẻ yếu. Lại cộng thêm sinh ba con gái liên tục không khỏi bị mọi người cười chê nên sợ lại có thêm con gái mà không phải con trai.

- Có con trai mà như...

Đang nói dỡ giữa chừng thì có tiếng Lưu tam bá mẫu đi vào. Lưu bá mẫu liếc nương cười mỉm như có ý ‘nhắc Tào Tháo có Tào Tháo’.

- Tẩu ở đây sao, ta qua nhà không thấy tẩu nên đến đây.

Tam bá mẫu liếc nhìn mấy con vịt con trong rổ nói:

- Vịt hoang này nuôi bọn chúng cho trời hưởng, chúng bay theo bầy mất, chỉ tốn công. A Ngư nhà ta ra ruộng đặt bẫy là có mấy con ăn rồi.

Việc nhà Mai nuôi gà rừng cũng bị nói là phí công. Lưu bá mẫu hơi nhướn mi, chuyện a Ngư vào ruộng nhà người đặt bẫy chim cò còn giẫm nát lúa mấy nhà trong làng. Người ta gặp bá mẫu nói xa nói gần làm bà khó chịu mấy hôm nay. Nhà Lưu tam bá có xin hai mẫu đất làm ruộng, định khẩn hoang thêm ba bốn mẫu kéo dài ráp với Nguyễn gia bên phía ao sen. Nhưng bây giờ đã qua mùa trồng lúa, nên chỉ lo nhổ cỏ, làm đất chuẩn bị cho mùa sau.

‘Chim trời cá nước’ là chỉ chim cò hoang, cá tôm sống trong sông rạch hoang dã. Ai muốn cứ bắt ăn, thậm chí vào đất ruộng nhà người ta đặt bẫy cũng không sao. Hàng xóm láng giềng sẽ không nói nhiều, nhưng Lưu Ngư giẫm lên lúa người ta thì không được.

Mỗi gốc lúa là kết quả công sức mấy tháng trời chăm sóc. Lúa là lương thực chính cho người nhà có cơm ăn no bụng. Lưu tam bá mới vào đây ở, còn xa lạ nên người trong làng chưa nói vì họ cũng nghĩ tình. Họ nói với Lưu bá mẫu vì họ quen bá mẫu đã lâu.

- Thím ba dặn a Ngư đặt bẫy trong ruộng đừng giẫm lúa,

Lưu bá mẫu đúng dịp này nhắc luôn.

- Ai nói a Ngư giẫm lúa? Làm gì có chứ!

- Ta nghe hai nhà trong làng nói đó.

- Nhà nào? Thấy a Ngư đặt bẫy nhiều nên muốn chia phần hay sao? Nói gì đâu!

Xem ra không dễ nói chuyện này với Lưu tam bá mẫu. Nương và bá mẫu đều bận rộn việc nhà nên đứng dậy đi làm việc, Lưu tam bá mẫu kéo hai người lại:

- Tẩu với thím nghe tin gì chưa? Sáng nay ta đi chợ làng nghe nói phú hộ Từ vừa cưới một người thϊếp nữa, trẻ đẹp lắm, từ Cù Lao Phố lận đó.

À, thì ra đây mới là chủ đề chính tam bá mẫu muốn nói. Tin này đủ hấp dẫn kéo nương và bá mẫu ngồi lại nghe.

- Chuyện là sao?

Lưu tam bá mẫu thành công lôi kéo người nghe, lập tức thẳng lưng lên, mắt nhìn qua lại rồi mới nói:

- Nghe nói tháng trước phú hộ cùng con trai trưởng Từ công tử đi Cù Lao Phố buôn bán, thăm người thân mà cũng có ý tìm vợ cho công tử. Không biết sao mấy hôm trước trở về mang theo một cô nương trẻ, tưởng là vợ của công tử, ai ngờ là thϊếp thứ ba của phú hộ.

- Thật?

- Sao vậy?

Thấy người nghe phản ứng kinh ngạc giống như mình dự đoán, tam bá mẫu hào hứng nói tiếp:

- A Linh làm việc trong nhà phú hộ kể. Bà phú hộ nhất định không đồng ý, đuổi cô ta ra khỏi nhà, cãi vả rất lớn. Nhưng ông phú hộ nhất định muốn giữ lại. Hai hôm nay cô nương đó ngủ ở khu nhà người làm. A Linh nói rất trắng trẻo, mắt mũi rất đẹp.

Tam bá mẫu còn nói chi tiết cô nương đó tóc dài đen mượt ra sao. Cô nương đó mặc quần áo màu kiểu cọ, thêu hoa văn muốn đẹp hơn tiểu thư nhà phú hộ,.... Giống như bà tận mắt thấy vậy. Xem chương mới tại dienvan.space

- À, phú hộ sẽ dựng khu nhà phụ cho cô nương này, sáng nay đến nhà Bùi thúc nhờ cậy đó. Ta nói cha a Ngọc đi theo làm, nhà người ta giàu có chắc tiền công cao. Mà nếu quen được nhà phú hộ sau này cũng có lợi lắm.

Bà còn hỏi cha Mai và Lưu bá có muốn đi làm ở nhà phú hộ không, hai người đều nói chờ Bùi thúc gọi mới được. Trời đã ngã về chiều, có muốn ‘tám’ nữa cũng không được. Ba người dứng dậy về lo cơm nước, dọn dẹp.Chương 57: Chiếc ghe đầu tiênMai ra vườn hái rau, xem cây thuốc, ngắt bỏ lá sâu. Ở đây không dùng thuốc diệt trừ sâu nên cây lớn sâu cũng lớn theo. Không để ý có khi sâu đυ.c rỗng hết thân cây mà không biết.

Chuyện phú hộ dựng nhà phụ cho thϊếp làm Mai nhớ chuyện nhà Nguyễn bá bên kia ao sen. Nguyễn bá mẫu đến đặt làm kệ quần áo vừa về thì Lưu tam bá mẫu đến. Giống như hôm nay, kéo nương nói chuyện ‘người ta’. Thì ra vị đó là vợ hai của Nguyễn bá, người vợ đầu tiên chỉ sanh được một con gái. Lúc sanh nở rất nguy hiểm tưởng là không vượt qua được. Cuối cùng hai mẹ con sống sót vượt qua nhưng đứa bé yếu ớt, còn người mẹ thì không thể hoài thai được nữa. Sau ba năm chạy chữa không được, Nguyễn bá cưới người vợ hai, sinh được hai con trai hai con gái nữa.

Thời này, những gia đình quan lại, giàu có đều có thϊếp. Nhà nghèo thì ít có thϊếp nhưng tất cả đều muốn sanh nhiều con, con trai càng tốt. Công việc làm ruộng, đánh bắt cá hay lên rừng săn thú đều cần sức lực. Có nhiều sức làm việc người ta mới đủ ăn đủ mặc. Quan trọng hơn là con trai nối dõi tông đường, dòng họ mới truyền thừa mãi mãi.

“Mãi mãi”, haiz, làm gì có mãi mãi chứ!

Tuy nhiên, trong gia đình người người Chân Lạp thì đàn bà con gái được coi trọng hơn ở gia đình người Việt hay người Tàu. Có nhiều vùng phía trong gần Nam Vang vẫn còn Mẫu hệ, ngược với người Kinh, người Tàu là Phụ hệ.

Chuyện người thϊếp mới nhà phú hộ không ảnh hưởng gì đến mọi người trong nhà, mà cũng là chuyện thường nghe nói ở những nhà giàu. Nhưng với Mai là ‘chuyện lớn’, nghĩ xa xôi mười năm nữa khi cô lập gia đình thì sao đây? Đương nhiên là Mai không chịu chuyện chồng có thϊếp, nàng hầu, như vậy là nhà chồng phải nghèo để không nuôi nổi thϊếp? Hay là nhà chồng phải thề không cưới thϊếp, ai mà chịu bỏ ‘quyền lợi’ này chứ? Càng nghĩ càng lo lắng!

Nhựa cây trám kẽ hở khô dần, ba ngày sau cha quyết định ‘hạ thuỷ’ cái ghe đầu tiên. Kê ván lót đáy ghe, cả nhà dùng sức vừa kéo vừa đẩy nó ra rạch. Nước lớn gần đầy, chiếc ghe từ từ tiếp nước. ‘Oạp oạp’ nằm ngang rồi bị dòng nước đẩy xoay xuôi dòng nằm dọc theo bờ rạch, chiếc ghe chòng chành rồi nằm yên.

– Bình ca, chèo đi. Cho đệ lên với.

A Phúc la hét trên cầu ván. Thất thúc và Bình ca đứng trên hai mũi, thuần thục chèo xuôi dòng.

– Sao?

Cha lội dưới con rạch theo ghe hỏi:

– Nặng hơn bình thường.

– Nghiêng một bên phải không? Ca lên thử đi.

Thất thúc và Bình ca trả lời xong thì nhảy xuống nước. Cha vịn be trèo lên, ngược dòng trở về hướng cầu ván. Người trên ghe vừa chèo vừa ngắm nghía, người đứng trên cầu ván thì háo hức muốn lên ghe chèo thử. Nương cười cười nắm tay a Phúc không cho nhóc nhảy xuống nước giống mấy anh.

Cuối cùng cha buộc ghe vào cầu ván để xem có bị rò nước hay không rồi vào nhà ăn cơm chiều.

– Ngày mai ta đốn thêm cây gỗ về ngâm, đệ và a Bình đẽo thêm cong trước, đệ xẻ gỗ không nổi đâu.

– Ca, nhờ cha giúp không?

– Cha còn nhiều việc, tháng sau vô gặt lúa nữa.

Nhà ông nội cũng nhiều việc, mà nhà mình không thể chờ đợi, phải nghĩ cách.

– Nương, nhà mình còn tiền đặt thêm cái cưa nữa không?

Mai hỏi làm cả nhà quay nhìn,

– Mình đặt làm cái cưa dài hơn cho hai người xẻ gỗ, nhanh hơn, đỡ tốn sức.

Mai còn nghĩ cách làm chỗ đứng cho thợ để lúc cưa không phải khom lưng, rất mỏi mà không đủ lực. Nương vào buồng trong lấy túi tiền, mua lưỡi liềm gặt lúa. Tính ra thì cũng đủ đặt làm cưa lớn, nhưng trong nhà giống như trước không còn tiền dự phòng.

– Cha nương, mình bán cái ghe đi.

– Hả?

Ghe làm để bán mà, sao mọi người ngạc nhiên vậy? Đúng là chưa ai nghĩ đến việc bán cái ghe, bán có người mua không? Bán ai bây giờ?

– Bình ca, thất thúc ngày mai xem ghe có bị rò nước không. Mình phải sửa lại nữa để nó nhẹ hơn, không lệch một bên. Rồi mình chèo đi chợ làng, chợ Sông Lớn thử xem sao. Nếu dùng tốt thì bán lấy tiền đặt làm cái cưa. Dù sao nhà mình vẫn dùng ghe lườn, tháng sau mình đóng ghe mới rồi.

– Cha nghĩ lần sau làm nhanh hơn chút, chiều con nói là hai mươi lăm ngày, chưa tính phải ngâm gỗ hai tháng.

Ừ, lần đầu làm ghe đương nhiên là lâu hơn rồi. Gần một tháng a Bình cặm cụi làm ghe mẫu, sai, sửa, thử cũng học ra kinh nghiệm. Có Mai bên cạnh nói “lý thuyết” chuyện hình dáng ghe ảnh hưởng đến lực cản của nước. Rồi Mai còn thử trọng lượng của từng loại gỗ nữa. Cô hỏi cha chuyện mấy nhà khác xài gỗ nào đóng ghe. Gỗ nào đóng ghe đi biển, gỗ nào đóng ghe đi sông rạch. Nghe Mai hỏi kỹ vậy, người trong nhà dần hiểu ra, bắt đầu chú ý ghi nhớ. Cha đi nhiều nơi nhất, biết nhiều cây gỗ nhất nên kinh nghiệm nhiều. Mai nói hai ba câu là cha hiểu ra ý liền.

A An không quan tâm kỹ thuật đóng ghe, ca ấy chen lời hỏi:

– Mình bán cái ghe được bao nhiêu cha?

– Lưu bá mua hơn hai mươi quan, có mui, lớn hơn ghe mình đóng. Cha tính nhà mình bán mười lăm quan chắc có người mua.

Hai mắt a An sáng lên, vui vẻ nói:

– Lúc trước nhà mình dành dụm mấy tháng mới được mười quan, đóng ghe một tháng được mười lăm quan rồi!

Câu nói của a An như thức tỉnh, làm ai nấy đều hăng hái, đúng rồi! Vậy mới biết mấy nhà ghe giàu có sung túc thế nào!

– Ca, mình làm mui ghe luôn đi, rồi chèo đi chợ thử xem sao.

– Phải, mai cha và a Tấn đi đốn gỗ. Con và a An ở nhà làm mui là được. Mình đợi vài ngày nữa đặt làm cưa lớn.

Mọi người nhìn Mai như hỏi ý chuyện hoãn đặt cưa lớn.

– Nương đi bán hai chợ phiên nữa, lúc đó đặt làm cưa, còn giữ lại một quan trong nhà, được không?

Không biết từ lúc nào người trong nhà cảm thấy Mai biết tính toán hơn. Cả nhà chỉ thấy Mai suốt ngày như con thoi, làm cái này, làm cái kia. Mặc dù cô sức yếu luôn nhờ mọi người làm thay nhưng những việc ‘làm thử’ luôn được việc, còn kiếm được tiền như chuyện đóng thử ghe này.

– Dạ, con cũng đi bán hai chợ phiên trong làng. Mình mua mấy cái lưỡi liềm?

– Mua thêm bốn cái, nàng thấy được không?

Cha nói nhưng quay sang hỏi ý nương.

– Được, chàng cũng đóng cộ (1) trước, hai cái đi. Còn dựng bồ (2) nữa.

Bàn vừa xong thì a Phúc ngáp lớn, nhóc mệt mỏi lắm rồi. Niềm vui đóng được ghe cũng không thể thắng nổi cơn buồn ngủ.

Mai bước ra sân trước nhà, trăng thượng tuần tháng chín toả ra ánh sáng xanh dịu dàng. Mấy đống lửa nhỏ lập loè phía làng trong. Bên kia Đông Hồ là làng Tô Châu cũng ẩn hiện ánh lửa. Tương huynh nói làng bên đó cũng có thêm nhiều nhà mới.

Chợ Sông Lớn lúc này rất náo nhiệt. Cũng may huynh ấy đã ‘xí phần’ dựng sạp trước. Nếu không người đến sau phải dựng sạp phía trong bán không tốt như cập mé sông. Nhà Lưu bá giống nhà Mai chí thú làm ăn. Sáng sáng chiều chiều người hai nhà không ở trên ruộng thì ở trên sông.

Cuộc sống cứ bình yên trôi qua như vầy, cũng tốt phải không?

_______________________________________________

(1): Cộ là dụng cụ đập lúa được đóng bằng gỗ.

(2): Bồ là chỗ chứa lúa khô sau khi phơi, quây bằng tấm đan tre, có lót đan ở dưới cách đất không bi ẩm mốc vào mùa mưa.Chương 58: Từ lang y thành thú yHôm sau mặt trời vừa ló dạng thì mây đen kéo đến, gió thổi ào ào rồi mưa lộp bộp rơi. Nương và Cúc tỷ lùa đám vịt con vào chòi lá, Mai và nhóc Phúc cũng xua bầy gà cưng vào chuồng. Bầy gà đã lớn trọng, bọn chúng cũng quen chỗ nên tự biết tìm nhánh cây trong chuồng mà đậu. Phía bìa rừng cha và thất thúc chắc không nghỉ mà vẫn tiếp tục đốn cây. Lúa bắt đầu làm đồng, bông lúa non xanh nõn dập dờn như sóng nước.

– Mưa xong nhổ khoai dễ hơn, mình đi nhổ luôn nha nương?

Cúc tỷ thành thục đổ khuôn đường, ngẩng đầu hỏi nương.

– Ừ, tạnh mưa đi nhổ khoai.

Chỉ là mưa gần như cả ngày, khi tạnh thì trời đã chiều. Lúc trưa có sấm đùng đùng, sét loé sáng loè. Cha và thất thúc đốn ngả cây để ở bìa rừng, kéo xuống ngâm ở con rạch nhỏ gần đó. Tháng này nước lớn hơn nửa con rạch, đợi nước dong sẽ kéo gỗ theo con nước về đây sẽ nhẹ nhàng hơn.

– Cha, Bùi ông dặn cha sáng mai đi nhà phú hộ dựng nhà.

Bình ca nói lúc ăn cơm chiều.

– Bùi ông đến lúc nào?

– Không, Lưu bá gặp ở trong làng, có Lưu tam bá và Kình huynh đi nữa.

Vậy là Lưu tam bá mẫu được như ý rồi, sau này bá mẫu có thêm mấy chuyện kể về nhà phú hộ.

– Cha định làm xong nhà phú hộ sẽ không theo Bùi ông nữa. Ở nhà chuyên tâm đóng ghe xuồng, thêm mấy món đồ dùng nữa là được.

Đương nhiên là cả nhà đồng ý. Có cha ở nhà thì mọi việc dễ sắp xếp hơn.

Đêm đó trời lại mưa tiếp, không khí ẩm ướt lạnh lẽo. Trời gần sáng bỗng sấm đùng đùng làm ai nấy đều giật mình tỉnh giấc. Nhóc Phúc hét lên chạy ào vào buồng của cha nương. Đám vịt nhỏ được Cúc tỷ ủ trong bếp cũng kêu loạn lên, không phải người ta nói ‘vịt nghe sấm’ ý chỉ là chúng ‘điếc’ không nghe được sao? Hay chúng giật mình vì mấy tia sét ngoằn ngoèo sáng rực trong nháy mắt.

Hôm sau Vĩnh ca đi nhà Đỗ lang y một lát thì quay về.

– Sư phụ đi trị bệnh, hôm nay trời mưa con không cần phơi thuốc.

– Bệnh làng khác à?

– Dạ, ở Long Hồ lận, tối nay không chắc về kịp. Là tỷ tỷ của Tùng ca đó.

Nương hơi nhăn mày, là con gái của vợ lớn Nguyễn bá. Nghe nói tỷ ấy từ nhỏ ốm yếu, giờ đang mang thai, mong là bệnh nhẹ.

Mới sáng sớm ánh nắng đã gay gắt, nương dẫn mấy đứa đi ra ruộng khoai. Cơn mưa hôm qua làm cây cối thêm xanh, tràn đầy sức sống. Mai hít sâu mùi hương ngọt ngào của những bông lúa vừa trổ đồng. Mấy đứa nhỏ thích ăn ăn đòng đòng lắm, hạt lúa chưa mới ngậm sữa rất ngọt, rất thơm. Nhưng cũng chỉ dám lấy mấy bông ở góc bờ ngả ra đường đi. Mấy cây lúa này khi bông lớn dễ bị rụng do người đi qua lại. Nhà nào nhiều ruộng lúa sẽ đợi thêm vài ngày hái bông ngậm đòng về rang hoặc nấu với cơm dừa ăn rất ngon.

Ruộng khoai ở đất cao, không ngập nước nhưng cơn mưa hôm qua làm mấy khe trũng lầy lội, đất nhão nhọet. Vừa đi tới góc ruộng bỗng thấy trong luống khoai gần đó lao xao như có con gì đang chui bên dưới. Qua những khoảng lá trống thấp thoáng con gì da nâu đen như đất đang bò rất nhanh hướng ruộng lúa nếp.

– Kỳ đà,

Sau một lúc giật mình Bình ca cũng kêu lên. Con kỳ đà bò nhanh hơn trên bốn chân, còn ngoảnh đầu về phía này như canh chừng.

Ùm, nó nhảy ào xuống nước. Mấy đứa con trai chạy theo tìm, nó mất dạng trong ruộng lúa nếp xanh ngắt.

– Ca, nó sợ mình hả?

– Ừ, con này lớn, chắc nó có trứng rồi, nhổ khoai xong mình đi tìm ổ trứng nó.

Mấy đứa con trai hưng phấn bàn bạc chuyện đi săn kỳ đà. Mai hơi sợ, kỳ đà không có nọc độc như rắn, không ăn thịt người như cá sấu. Nhưng mà không đến gần vẫn tốt hơn, cô sẽ không chủ động tìm nó. Cô cảnh giác nhặt cành cây dài khua khua xung quanh. Nương nhìn cô hơi cười, lúc trước khâu vết thương máu me không thấy sợ, giờ mới thấy con kỳ đà đã sợ như vậy!

Đất trên luống khô ráo nên nhổ khoai cũng dễ. Nhổ được một luống thì bốn đứa con trai vác khoai trong rổ mang về sân, nhóm còn lại vẫn nhổ tiếp. Nương tranh thủ ngắt mấy ngọn rau xanh luộc ăn. A Phúc lăng xăng bắt ốc, sên và mấy con trùn to mập ú cho gà vịt ăn.

À, con kỳ đà chắc bò lên đây kiếm thức ăn. Nói theo từ ngữ hiện đại thì hệ sinh thái ở đây rất phong phú. Mai thấy đủ các loại cây lạ, con vật lạ không biết tên, nhìn chúng vừa quen vừa lạ đành phải gọi theo cách đơn giản nhất. Bay trên trời là chim, đi trên đất là thú, ở dưới nước là cá.

– Khoai này củ nhỏ hơn lúc trước nhà tam Mi trồng.

Mai cầm khoai rửa bớt bùn dính ở vũng nước giữa luống nói Cúc tỷ.

– Lúc đó là khoai trồng qua năm rồi, củ to hơn nhưng xơ nhiều. Ăn không ngọt bằng khoai mới này.

Nương cũng gật đầu nói tiếp:

– Trồng liên tục không cho đất nghỉ sẽ mau bạc màu. Vụ sau không cho củ ngon nữa, mỗi năm chỉ trồng được mấy tháng.

– Nương, mình không trồng, cỏ dại mọc lên cũng làm đất bạc màu.

– Đến mùa nắng mình đốt cỏ, tro sẽ làm đất tốt hơn.

Nửa mẫu đất này cuốc thành luống, mười mấy luống khoai lang thu hoạch xong. Còn lại là luống đậu xanh, đậu đen cao ngang hông đang ra trái. Cây đậu xanh có nhiều sâu, lúc cha nương ra ruộng luôn ghé qua bắt về cho đàn gà. Trong lúc chờ Bình ca quay lại mang khoai đi, Mai và a Phúc lom khom vạch lá đậu tìm sâu.

– Mình thả đàn gà vào đây cho chúng tự tìm sâu ăn đi tỷ,

– Tụi nó chạy đi mất làm sao.

A Phúc cười hinh hích nói hắn quên mất. Đám gà rừng không bay cao nhưng cũng quá đầu hai đứa, nó bay mấy lượt là tới bìa rừng đằng kia rồi.

– Mai, muội về nhà mau!

Tiếng An ca từ xa đã kêu lên, Mai hơi giật mình quay lại. Nương cũng lo lắng hỏi lớn:

– A An, chuyện gì vậy? A Bình, A Vĩnh đâu?

– Nương, không có gì.

Không có gì mà la lớn vậy, còn chạy hụt hơi. Lúc a An chạy tới thì trên mặt không có hoảng hốt chỉ ướt mồ hôi.

– Là Hùng huynh, con chó nhà huynh ấy bị thương. A Vĩnh kêu muội nhanh về.

– Nương, con về trước xem được không?

– Đi đi.

A Phúc chân ngắn chạy vượt lên, ống tre đựng sâu lúc lắc trên tay. Mai không hỏi a An về vết thương chỉ nhanh chân chạy theo.

Lúc vào nhà thấy Hùng huynh đang ôm đầu con cho màu vàng sậm lớn ngồi trên đệm ở mái hiên. Một bên hông sau của con chó loang lổ vết máu.

– Ca ra làm tiếp với nương đi.

Mai nói với Bình ca rồi ngồi xuống kế a Vĩnh đang giã thuốc trong cối gỗ. Bên cạnh hắn đã để sẵn khăn nhỏ, chậu, bình rượu.

– Muội muốn lật ra xem vết thương. Huynh nói cho nó biết, trấn an nó, đừng cho nó giãy.

Hùng huynh gật đầu, một tay vừa vuốt từ đầu xuống cổ, một tay nhẹ khép mõm con chó đang nhe răng

– Vện, nằm yên, nằm yên.

A Báo mang nồi nước trong bếp ra. Mai nói nó giúp Hùng huynh trấn an con chó. Cô còn đưa thanh gỗ đệm vải vào miệng tránh nó cắn lưỡi hoặc đau quá cắn lung tung. Vĩnh ca giã thuốc xong vắt nước để riêng. Cũng may con chó này lông ngắn nên đắp thuốc được.

– Muội sợ đắp thuốc xong nó không nằm yên, thuốc rơi hết. Ca làm băng cho nó đi. Muội rửa vết thương, nó sẽ rất đau, hai người phải kềm không cho nó giẫy.

Nói với a An xong, Mai quay sang hai anh em nhà Hùng huynh báo trước. Vết thương có mấy vết sâu, thịt bị cắt nát, phần lưng gần hông có hai vết nhẹ hơn. Con Vện rùng mình vặn vẹo khi Mai chạm vào.

– Vện, nằm yên, đang chữa thương cho mày, nằm yên.

Khăn thấm rượu vừa đυ.ng vào nó lại giãy mạnh, gầm gừ, siết chặt hàm răng săc nhọn. Mai nhanh tay rửa qua các vết thương, lấy máu bầm.

– Huynh nắn xem nó có bị gãy xương bên trong không.

– Được.

Hùng huynh nắn khớp xương chân làm con vện nhếch răng, nước giải chảy ròng ròng, chắc nó đau lắm.

– Một chút là hết, ngoan, ngoan.

Mai nhỏ giọng như thì thầm với nó. Mong là cây thuốc có công hiệu với người cũng dùng được cho nó.

– Ta không thấy chỗ nào khác thường.

– May là không bị tát trên chỗ eo, nếu không bị nội thương là muội không biết làm sao chữa.

Lúc băng xong vết thương con Vện như hết sức, không gầm gừ, thở dốc nữa mà nằm im. A Báo phải vừa nâng đầu vừa rót nước thuốc vào miệng nó. Vĩnh ca nhổ một nắm lá thuốc chỉ cách dùng.

– Hai ba canh giờ thay thuốc một lần, uống thì một ngày hai lần. Nếu huynh có cách không cho nó đứng lên sẽ mau lành hơn. Cho nó ăn nhiều hơn ngày thường để nó mau lại sức.

Vĩnh ca dặn thêm lúc hai anh em ôm con Vện đứng dậy, thất thúc nói:

– Ta chèo ghe chở ngươi một đoạn, ôm nó xa như vậy sao được.

– Cảm ơn.

Lần này Hùng huynh và a Báo không nấn ná ở lại mà muốn về nhà cho con Vện nghỉ ngơi. Hai anh em thật sự rất quý con Vện. Vết thương là do vuốt thú dữ cào, không biết là con gì? Chắc là ở trong núi.

Mai thấy trên cánh tay và mặt của a Báo có vết cào, không sâu lắm. Mà a Báo đã được đắp lá thuốc màu xanh rồi nên cô không cần đắp cho hắn nữa. La gia làm thợ săn chắc biết rành các loại thuốc trị thương.Chương 59: Nghĩ đến chuyện đặt thương hiệuTừ đây vô Bình San có một đoạn đi theo con rạch ngã ba cồn. Sau đó thì hai anh em phải đi bộ, dù sao cũng đỡ một đoạn. An ca, Vĩnh ca và a Phúc đều nhảy lên chiếc ghe mới đi theo. Con Vện được cả đám hộ tống về nhà. Mai không cản, mấy đứa nhóc nên có lúc thảnh thơi, dạo chơi xung quanh.

– Báo huynh, con Vện mấy tuổi? Nhà huynh nuôi nó từ nhỏ sao?

A Phúc chờ nãy giờ mới được hỏi ra, xem ra trên ghe sẽ rất náo nhiệt. Mai cười nhìn chiếc ghe khuất sau rặng dừa nước.

Đến lúc ăn cơm trưa mới nghe rõ chuyện con Vện. Sáng nay cha Hùng huynh là La Bình bá vào núi đi săn, ông dặn a Báo đi theo sau. Nhưng hắn chạy theo con thỏ không cảnh giác xung quanh. Lúc hắn giương cung bắn được con thỏ xách về thì một con gấu chó lù lù xuất hiện. Gấu chó nhỏ hơn gấu xám trong núi nhiều, nó thích ăn động vật nhỏ, rất ít tấn công người.

Lần này là nó muốn con thỏ trong tay a Báo. Nhưng hắn không biết, lại nghĩ cha hắn ở gần đó nên vừa hét gọi cha vừa giương cung bắn tên. Con gấu chó giật mình cộng thêm trúng tên trên tay đau nổi giận thực sự tấn công. Con Vện sủa to trợ giúp, cùng a Báo lùi dần ra bìa rừng. Gấu chó rất nhanh ào tới. Một người, một chó và một gấu chó cận chiến loạn xạ.

La bá chạy đến không dám bắn tên mà dùng dao lựa thế chém trên lưng, chân, hạ gục con gấu chó. Con Vện bị vuốt trước cào bị thương đầy máu. La bá ôm nó về nhà cầm máu. Hùng huynh nhớ tới lúc trước a Vĩnh và a Mai trị được thương nên vội vã ôm nó tới đây.

A Báo tuy là tay chân chắc nịch, khoẻ mạnh hơn An ca nhiều nhưng dù sao cũng còn nhỏ. Qua trận này hắn cũng bị một lần hoảng sợ. Lúc sáng nhìn hắn rất căng thẳng, vuốt ve con Vện muốn khóc.

– Con Vện săn thú rất giỏi, La bá và Hùng huynh dạy nó.

A Phúc hâm mộ nói, xem ra nhóc mê mẩn con Vện rồi. Nhóc này thích mấy con gà, vịt, suốt ngày quanh quẩn cho chúng ăn. Nhiều khi mấy đứa bé trai trong làng chạy ra rủ nhóc đi chơi. Hắn cũng đi nhưng rất nhanh là chạy về nhìn xem đàn gà, đàn vịt. Nếu có con chó nhỏ trong nhà cũng tốt, Mai nghĩ.

Lúc ăn cơm chiều cha nghe mấy đứa nhỏ kể chuyện con Vện, rồi con kỳ đà trong ruộng khoai, cũng góp chuyện:

– Hôm qua nhà phú hộ bắt được một con kỳ đà lớn, đang nuôi trong lu.

– Thịt nó ăn được không cha?

– Được, có nhiều người thích ăn làm thuốc. Bán cũng có tiền. Chỉ nhà giàu mới mua, người ta còn lấy mật nó làm thuốc.

– Thịt ếch còn ngon hơn.

Cha vuốt đầu a Phúc cười. A Phúc rất thích ăn thịt ếch, mỗi lần nương xào thịt ếch với xả, thêm chút ớt hơi cay cay, hắn vừa ăn vừa hít hà nhưng ăn cơm nhiều hơn. Mấy tháng nay vào đây, người thay đổi nhiều nhất là a Phúc, hắn tròn trịa hơn nhiều. Tiếp theo là Bình ca và thất thúc, cả hai vượt cao lên, gần bằng cha rồi.

Hôm sau là chợ phiên, thất thúc sẽ chèo ghe mới đi chợ Sông Lớn thử. Ghe chưa có mui, mong là ngày mai trời không mưa. An ca sẽ đi chợ làng với Mai bằng ghe lườn. Lúc đầu mấy đứa nhỏ trong làng thấy Mai chèo ghe này đều cười nói ghe gì nhỏ xíu, chở được cái gì? Còn không ra được sông lớn?

Nhưng mà bây giờ tụi nó thích ghe thốt nốt này lắm, có dịp là mượn dùng. Nó nhỏ nên rất tiện luồn trong rạch nhỏ. Ở đây đi từ nhà này qua nhà kia không muốn lội bùn thì dùng nó là tốt nhất.

Hai anh em đến chợ bán một lát thì Hùng huynh cũng đến. Huynh ấy bày bốn con gà rừng, hai con thỏ trên đất.

– Con Vện khoẻ chưa?

An ca không chờ huynh ấy bày xong đã hỏi, qua mấy lần gặp mặt xem ra đã thân thiết.

– Tối qua nó rên ư ử suốt đêm, chắc đau quá. Ta cho nó uống thuốc an thần a Vĩnh đưa, nó ngủ được một giấc. Sáng nay đã ăn được nhiều rồi. A Báo đang chăm nó.

Vậy là thuốc cũng có hiệu dụng.

– Huynh không bán thịt gấu chó sao?

– Sáng nay cha ta đi chợ Sông Lớn bán, ở đó mới có người mua.

Cũng đúng, thịt, lông và mật gấu chó giá cao, chợ làng rất hiếm người mua.

Mặt trời lên, chợ rất náo nhiệt, Mai thấy Lưu tam bá mẫu đi đến, cô cất tiếng chào bà. Xem ra bà rất hay đi chợ, bà vui vẻ chào hỏi hầu hết mấy người đàn bà. Tam bá mẫu bày rổ tre có hơn chục trứng vịt, ba con vịt trời, mực khô. Trong này thỉnh thoảng có bắt được mực trên vũng nhưng không to và ngon như đánh bắt ở biển. Tam bá mẫu quả là biết buôn bán.

– Gần nhà ta có ổ chó mới đẻ mấy ngày, chiều qua ta đến xin họ một con. Nhà đệ muốn nuôi không?

– Thật? Huynh không muốn nuôi sao?

A An mừng rỡ hỏi. Nghe chuyện con Vện ai mà chẳng thích có một con chứ, đặc biệt mấy đứa con trai.

– Nhà ta có con Vện được rồi, con chó nhỏ này là con của con Vện đó. Vài ngày nữa chó con lẻ mẹ ta mang đến nhà đệ.

– Cảm ơn huynh.

Hùng huynh cười nói không có gì. Lần này hắn bắt ‘đúng mạch’ rồi.

Nghĩ ra được món quà này hắn đã phải suy nghĩ tới lui mấy lượt. Hắn và a Báo rất biết ơn nhà Mai băng bó vết thương cứu con Vện, trả tiền thì chắc mấy đứa nhỏ không nhận. Nhà hắn chỉ có gà thỏ săn được. Cha hắn nói tặng một nửa con gấu chó, hắn biết chắc là Lê thúc sẽ từ chối. Hắn đang rầu rĩ thì con Vện xoay mình đau rêи ɾỉ. A Báo buông chén cơm ăn dở đến vuốt cổ, vuốt lưng cho nó. A, có rồi, mấy đứa nhỏ thích con Vện lắm. Nhóc Phúc cứ liếc mắt nhìn nó. Nhóc cũng muốn ôm nhưng con chó đang đau, người lạ tới gần nó có thể cắn.

– A Báo, xin chó con nhà thím Dậu cho a Phúc được không?

– Được, chắc nó thích lắm.

A Báo vui vẻ nói nó sẽ đi nhà thím Dậu xin. Chuyện sáng nay làm nó vừa sợ vừa hối hận. Con Vện đỡ một cái tát này, nếu không bị thương là nó rồi.

Về đến nhà An ca vội nói cho a Phúc biết. Nhóc nhảy lưng tưng vui mừng. Hắn hỏi cặn kẽ Hùng huynh nói khi nào thì mang con chó con đến. Hai đứa rủ nhau chạy lại chỗ Cúc tỷ nhờ đương cái rổ làm chỗ ngủ cho con chó.

Cúc tỷ và Bình ca đang làm mui ghe. Mui ghe làm bằng khung gỗ và phên tre, vừa nhẹ vừa uốn cong làm mái, qua một năm lại đổi mui mới cũng tiện lợi. Mai đi lại xem hai lò ấp trứng, còn vài ngày nữa là lò thứ hai sẽ nở con.

Cũng may là đàn vịt con tự đi kiếm ăn dưới con rạch cạn. Nhà Mai chỉ cho bọn chúng ít cơm dư, rau chuối hoặc ốc sên băm nhỏ, nếu không nuôi hơn trăm con vịt này hết gạo hết lúa. Vịt mau lớn hơn gà, hơn mười ngày mà bọn chúng đã lớn bằng nắm tay, chạy lạch bạch trong vũng bùn, lặn hụp dưới rạch rất vui vẻ.

Chưa đến giờ ăn trưa nên Mai đem bảng gỗ học chữ ra học lại. Đỗ lang y dạy cho a Vĩnh được mấy chữ đơn giản, số đếm. Mai đều đặn học viết mỗi ngày. Hôm trước thấy cha vẽ mắt ghe Mai nghĩ ra cách làm chữ mẫu bằng miếng gỗ vuông. Thất thúc và Bình ca tốn thêm một buổi làm được ba mươi miếng gỗ nhưng hiệu quả thì khỏi nói rồi. Đỗ lang y còn rất ngạc nhiên lúc a Vĩnh nhờ viết chữ mẫu lên miếng gỗ. Ông cười vui vẻ khen a Vĩnh nhanh trí.

Mấy đứa nhỏ tranh thủ lúc rảnh rỗi sẽ nhìn chữ mẫu học viết, học nghĩa. Hôm nay Đỗ lang y chưa về nhưng trời nắng nên Vĩnh ca vẫn đến phơi thuốc, để lâu thuốc bị ẩm không dùng được.

Xế chiều nương và thất thúc về, trễ hơn thường lệ nhưng hai người rất vui vẻ. Thất thúc kéo Bình ca nói nhỏ. Mai và a An liếc hai người nghĩ ‘không nói thì thôi, chiều cha về thế nào cũng biết’.

Thất thúc vừa ăn cơm xong đã cùng Bình ca ra xưởng cưa gỗ. Cả hai đổ mồ hôi cả buổi cũng chỉ được một bên ván be. Mai nhìn hai người gắng sức nói:

– Muốn con chỉ thúc cách cưa nhanh, đỡ tốn sức hơn không?

A An đứng bên cạnh cười ha ha.

– Được rồi, ta nói.

Thất thúc cũng biết điều kể ra. Lúc sáng khi đến chợ Sông Lớn, nương ngồi bán hàng trong sạp cùng Lưu bá mẫu. Thúc ấy ở dưới ghe làm quen mấy người đàn ông, hỏi xem có ai muốn mua ghe giá rẻ không. Ai nghe rẻ mà không ham, hỏi tới, xem ghe, chèo thử. Sau một hồi thì có người muốn mua cái ghe mới này giá mười lăm quan, chờ nhà Mai gắn mui lên, hẹn phiên chợ sau giao tiền giao ghe.

Đúng là tin vui, có mười lăm quan này có thể đặt làm cưa lớn rồi. Mai ngồi xổm xuống đất dùng nhành cây vừa vẽ vừa giải thích cách làm khung nâng cây gỗ, người cưa đứng hai bên kéo, đỡ tốn lực mà không phải khom lưng. Đọc chương mới tại dienvan.space

Để cho ba đứa con trai làm tiếp. Mai nghĩ chuyện bán ghe lâu dài cần có ‘bảng hiệu’ để quảng cáo. Thời này chủ yếu là truyền miệng, cách này hiệu quả nhưng dễ bị tam sao thất bản.Chương 60: Xưởng đóng ghe Đông HồChiều nay ăn cơm là chung hai nhà, lúc xế nương đã mời nhà Lưu bá qua. Dù sao Lưu bá đã biết chuyện nhà Mai đóng được ghe. Cả nhà Lưu bá đi xem một vòng xưởng đóng, vô nhà trên Lưu bá cười hớn hở, vỗ vai cha nói:

– Nhà đệ sau này được rồi, có nghề này không lo đói. Ta mà biết đã không mua ghe trên Trấn Giang, chờ đệ đóng mua giá rẻ hơn.

– Bá mua thêm chiếc nữa đi.

Ha ha ha, Lưu bá cười sảng khoái. Mai rất thích Lưu bá, ông hay nói cười, làm việc chăm chỉ, bình thường không so bì hơn thua.

– Một tuần trăng một cái ghe là hơi chậm hơn mấy nhà khác, nhưng nhà đệ ít người. Đừng để a Tấn, a Bình mất sức, tụi nó còn nhỏ quá.

– Đệ biết.

Lưu bá biết nghề đóng ghe vất vả như thế nào. Đây là chỗ Mai quý ông, ông thật lòng quan tâm. Người khác sẽ chỉ nhìn thấy số tiền kiếm được mà không thấy nhà Mai vất vả như thế nào. Công cụ thô sơ mà lại thiếu, phải dùng sức rất nhiều còn tranh thủ chia việc cho nhau. Chiếc ghe này là biết bao nhiêu công sức đã bỏ ra.

– Mấy lúc rãnh rỗi ta và a Tương qua phụ một tay.

Tương huynh cũng gật đầu. Huynh ấy đương nhiên nhìn thấy vết chai và vết thương trên tay của thất thúc và Bình ca. Hai người còn nhỏ hơn huynh ấy mấy tuổi mà đã chịu khó như vậy. Nghĩ lại mình nên hỗ trợ chút đỉnh.

Mọi người vui vẻ dọn bàn ra sân, đốt đống lửa lớn giữa sân. Mấy đứa nhỏ bu xung quanh nướng cá, nướng mực, vùi mấy củ khoai lang lớn phía dưới. Lát sau mùi thơm toả ra bốn phía, lại vội vàng trải lá chuối, đặt từng món lên. Món ăn dưới bếp cũng xong, không phân biệt đàn ông đàn bà, con nít chia nhau ngồi xuống hai bàn ăn.

– Nhà ta năm nay có trồng mấy luống khoai môn, gặt lúa xong thì nhổ được rồi. Nghe nói nấu chè khoai môn gạo nếp rất ngon, lúc đó ta mang sang nhà thím ăn thử.

Lưu bá mẫu vừa bới cơm ra chén cho mọi người vừa khơi đầu câu chuyện.

Chè khoai môn nấu với đường thốt nốt tuy màu chè hơi vàng so với đường mía nhưng mùi vị lại rất ngon. Đường thốt nốt hương nhẹ hòa với mùi khoai và nếp chín rất thanh. A, mới nghĩ đến đã thèm rồi!

– Gần đất phú hộ có thêm mấy nhà mới dựng,

– Mùa nước năm nay không cao như năm rồi, miệt trong bắt đầu gặt lúa rồi.

Mấy người lớn vừa ăn vừa nói chuyện đông tây. Mấy đứa nhỏ thì nghe, thỉnh thoảng chụm đầu to nhỏ chuyện riêng. Tam Mi đã lớn thành thiếu nữ rồi, không biết to nhỏ chuyện gì với Cúc tỷ mà vừa thẹn vừa nhìn ngó xung quanh sợ bị nghe lén.

– Xong mùa gặt có mấy nhà đến gần đây dựng nhà đó. Hôm trước Dương trưởng làng dẫn đi xem đất rồi. Đệ ở nhà lo đóng ghe đi, làm cái này lợi hơn.

Lưu bá nói với cha, cha gật đầu trả lời rồi nói chuyện đã tính toán trong nhà.

Đợi mọi người ăn lưng bụng, Mai nói chuyện đặt tên xưởng đóng ghe.

– Con nghĩ mình nên đặt tên cho xưởng ghe của mình.

– Phải đó, nên đặt. Giống như xưởng ghe ta mua ở Trấn Giang đó. tên là Huỳnh Gia xưởng, nghe cũng oai phong lắm.

Tất cả thích thú nghe, gật đầu.

– Vậy xưởng mình đặt tên gì?

Nghe Mai hỏi ý kiến, ai nấy vui vẻ góp ý kiến. Đây là lần đầu tiên được tham gia chuyện đặt tên xưởng mà.

– Tên Lê Tứ đi, cháu thấy người ta hay dùng họ tên đặt lắm.

Tương huynh nhanh nhảu góp ý. Cha vội xua tay làm ai cũng bật cười. Sau đó là cơn mưa tên, nào là Tâm Bình (sến muốn chết!), Ngã ba rạch nhỏ (quê quá!), …. Cái tên nào cũng bị trêu chọc làm người đặt tên không khó chịu mà còn cười ha ha.

Bình ca liếc mắt nhìn Mai đang bình thản cắn đầu con tôm nướng to đùng đầy gạch, nói:

– A Mai, muội thấy tên gì được?

Mai nháy mắt với a An, hắn đứng dậy vào xưởng mang ra bảng gỗ vuông vuông. Trên đó có vẽ hình thuôn dài giống Vũng Đông Hồ và chiếc ghe nhỏ đang đậu ven bờ. A An giải thích hình vẽ rồi nói:

– Tên là Xưởng ghe Đông Hồ, con chưa biết mấy chữ này, định nhờ Đỗ ông viết giúp. Có hình vẽ này người không biết chữ cũng biết là mình đóng ghe, phải không?

– Được, hay hay.

Lưu bá vỗ đùi khen hay, không những có tên gọi còn có hình vẽ nữa. Hình này cũng thiệt dễ hiểu, vũng Đông Hồ với cái ghe, ai cũng hiểu, phải không?

Rốt cuộc có tên rồi. Cha và Lưu bá hào hứng uống mấy ly rượu. Tương huynh cũng uống một chén. Mấy đứa nhỏ thì chạy lại coi bảng tên, hỏi tới lui cái nào hình vũng Đông Hồ, còn cái cồn đất ở giữa sao có?

Trời, cũng nhiều ý kiến dữ? hình dạng vũng Đông Hồ là cô nhớ mang máng lúc trước xem trên bản đồ, là chụp từ trên cao xuống. Còn thời này thì đứng ở dưới đất đâu có thấy được, ai lên núi đằng kia họa may mới nhìn thấy được hết mặt vũng.

Cái tên này là Mai suy nghĩ cả buổi mới có được. Nếu khách tới mua ghe mà không biết xưởng tên gì thì rất khó “truyền miệng” cho nhà mình. Phải tranh thủ làm bảng tên trước khi người khách đầu tiên đến. Tên Đông Hồ này là phù hợp nhất, mấy trăm năm sau vẫn không thay đổi.

Trăng trung tuần đã treo trên đầu ngọn dừa phía vũng Đông hồ, gió nhẹ làm ánh lửa dao động. Ngũ Mi ăn no ngồi bên đống lửa nghịch miếng gỗ cùng a Phúc.

Chợ phiên tiếp theo cha, nương và thất thúc đi chợ Sông Lớn. Theo như bàn bạc, sẽ dẫn người khách mua ghe đến nhà, xem xưởng đóng. Thất thúc nói ông khách làm thương lái mua bán lúa gạo mấy vùng gần đây. Giống như Trần bá bán gạo ở chợ làng.

Ở nhà Bình ca đóng ‘bảng hiệu’ đã nhờ Đỗ lang y vẽ lên chỗ gần cầu ván đậu ghe. Mai còn mang tim sen khô ra chuẩn bị nấu nước trà đãi khách.

Hơn giờ tỵ một chút có chiếc ghe cập bờ, là ông nội, Hân ca và Bảo ca đến. Mấy đứa chạy ra chào ông. Mai nghĩ thật hên. Có ông nội ở đây thì khách đến nhà sẽ tin tưởng hơn. Ông nội lớn tuổi, là người quanh năm làm việc, dáng người vững chắc lại thêm kinh nghiệm ứng xử, đứng ra nói chuyện thì còn gì bằng.

Nghe Bình ca kể chuyện bán ghe, ông rất vui mừng, dẫn hai đường ca xem xưởng. Ông không nghỉ ngơi còn bắt tay phụ xẻ gỗ đang làm dỡ. Hân ca cũng theo ông làm.

Đúng như Mai nghĩ, người khách mua ghe đối với ông nội rất có lễ. Ông nội nói chuyện chừng mực, còn dặn nếu ghe có cần sửa thì đến đây, sẽ không trả thêm tiền. Người mua ghe ai lại không muốn cái này, là một dạng ‘bảo hành’ sản phẩm như thời hiện đại.

Lúc tiễn người khách ra về cả nhà vui vẻ, thở phào nhẹ nhõm. Người ta nói “đầu xuôi đuôi lọt”, mong là vậy. Mấy hôm nay cả nhà lo cho cái ghe này. Ai lo làm mui thì làm, ai lo bào nhẵn, trơn láng thì làm. Bây giờ nó có chủ mới rồi, nhà mình kiếm mười lăm quan này thật đáng công.

Lần này ông vào định xem khi nào gặt lúa, cũng xem chuyện đóng ghe có làm được không. Ai ngờ con trai chẳng những đóng được ghe rồi còn bán được mười lăm quan nữa. Còn nuôi đàn gà, đàn vịt mà chuyện ông vui nhất là a Vĩnh được Đỗ lang y thu nhận dạy y thuật, đây là phúc khó có được. Ăn cơm chiều ông dặn dò a Vĩnh chăm chỉ học, mấy hải sản mực tôm cá, nước mắm ông mang vào đều dành một nửa nói cha mang qua nhà Đỗ lang y. Ông dặn nương ngày rằm mỗi tháng cúng dường tịnh xá sư ông, đừng xao lãng. Cha rót cho ông nội thêm ly rượu nghe ông dặn dò.

Sau ngày ông nội đến là ngày lò ấp vịt thứ hai bắt đầu nở. Lần này có tới mười sáu trứng không nở được, được năm mươi con vịt khoẻ mạnh. Ba người nhà nội, nhất là a Bảo cười nói Tết này có thịt vịt ăn rồi, thật đã làm mặt a Phúc tiu nghĩu. Là công hắn chăm sóc đó.

Mấy ngày ông nội ở đây đều dậy sớm xẻ gỗ cùng Hân ca. Ông còn chỉ cách mài dụng cụ cho bén hơn. Đợi khi cha làm xong ở nhà phú hộ thì ông và hai đường ca mới về làng chài, hẹn sau trăng tròn tháng mười vào gặt lúa. Nương chọn khoai, hái đậu chín, rau trái đủ loại để lên ghe mang về, ông nội đều gật đầu nhận, chỉ có hai quan tiền cha đưa ông không nhận, nói:

– Con giữ đó cho a Vĩnh, ngoài kia không thiếu.

Lúc ông nội về rồi Mai và a Phúc trêu chọc a Vĩnh. Trong mắt ông nội chỉ có Vĩnh ca, làm hắn rượt hai đứa chạy quanh sân. Đọc chương mới tại dienvan.space

Chuyện nhà Mai đóng ghe, đặt tên xưởng là Đông Hồ rất nhanh được đồn đại trong làng, nhiều nhà đến xem, hỏi giá. Cha đều nói một trăng đóng một cái nên ai đặt trước lấy trước. Hơn nữa sắp đến mùa gặt lúa, sẽ chậm hơn ngày thường. Mua ghe là chuyện lớn, nhà nông đâu có nhiều tiền, họ cũng chờ gặt lúa xong mới tính xem có mua ghe không.Chương 61: Mùa gặtBây giờ đi đâu cũng nghe nói chuyện lúa chín chưa, khi nào gặt. Người lớn tuổi trong làng mỗi đêm xem trăng sao để tính trời mưa nắng, ngại nhất là lúc gặt chưa xong mà trời mưa. Lúa phơi không khô sẽ lên mộng thì xem như uổng công mấy tháng trời, còn lo đói năm sau nữa.

Nương vội cắt may hai cái khăn cho em bé. Thím Vanh Na chưa sanh nhưng nương nói lúc đó lo gặt, lo phơi lúa không rãnh làm.

Không khí nhà nhà khẩn trương chuẩn bị mùa gặt rất lạ. Trên ruộng lúc nào cũng có người đứng nhìn trời nhìn đất. Trong nhà thì lo dọn sân, dọn bồ, đương đệm. Cha đóng xong hai cộ đập lúa, sửa hai cộ cho nhà Lưu bá, cũng qua nhà lang y sửa giúp.

Cây lúa như hiểu lòng người nông dân, từng bông trĩu hạt, chắc mẩy, xôn xao dập dờn theo chiều gió. Tương huynh chở khách đi chợ Sông Lớn nói miệt trong đã bắt đầu gặt, nắng tốt. Mùng chín tháng mười này chợ phiên, có nhà trong làng cũng bắt đầu gặt lúa, nhà phú hộ Từ cũng bắt đầu.

Lưu bá chở cha chèo ghe vào trong làng xem, lúc về hai người đều vui vẻ ra xem ruộng nhà mình. Mấy con chim cò cũng bỏ bãi bùn ven sông, ven cồn mà bay về trên ruộng lúa. Cha làm mấy con bù nhìn cắm trên góc ruộng. Con bù nhìn được đội nón lá, hai tay dài phất phơ theo gió làm đàn chim giật mình kêu quang quác.

Hôm trước nhà Mai hái một ít đậu chín sớm gửi theo ông nội. Bây giờ mới hái hết đậu, nhổ cây lên phơi mấy nắng cho khô mới đốt. Mai cắt ngọn đậu ôm về cho đàn gà, mấy con gà hí hửng gọi nhau mổ sâu, hạt đậu lép bị bỏ lại, ăn luôn đọt đậu non.

Trước ngày rằm tháng mười (rằm Hạ Nguyên) nhà nội tam Mi tỷ vào, bắt đầu gặt lúa. Cha nương qua giúp hai ngày đến ngày rằm thì ở nhà chuẩn bị cúng. Rằm tháng mười Hạ Nguyên thường cúng trời đất tổ tiên cho mùa lương thực mới. Cha gặt một góc lúa nếp chín sớm, giã gạo nếp để nương nấu xôi, chè. Hái thêm hoa quả trong vườn, mua ly rượu và đốt nhang cúng lúc trăng lên. Đêm nay trời trong, trăng tròn vành vạnh, chiếu sáng khắp nơi. Trên ruộng còn vài bóng người vẫn đang tranh thủ đập lúa. Tiếng lúa đập vào thanh gỗ, rụng rào rào hoà với tiếng người nói chuyện. Mai bất chợt chấp tay tạ ơn trời đất cho mưa thuận gió hoà.

Chiều hôm sau nhà nội vào như đã hẹn, mấy người lớn vào hết, chỉ có tam bá mẫu, Hào ca và mấy đứa nhỏ không làm được ở lại làng chài. Cũng may cha đã đóng thêm sạp tre đặt ở xưởng mới đủ chỗ ngủ. Ông nội đi đầu nói đàn ông thanh niên ngủ ở xưởng, trong phòng dành cho đàn bà con gái. Nhị bá mẫu lần đầu vào đây thấy cái gì cũng lạ. Nhóm đàn ông vội ra ruộng xem lúa, xếp đặt công việc sáng mai xong xuôi mới vào nhà xem xưởng. Chiếc ghe thứ hai đã thành hình, đang chờ nhựa trét khô và gắn mui.

Bữa cơm chiều chỉ có canh chua tôm, cá lóc kho ăn với cơm và mực nướng cho ông nội lai rai. Canh chua nấu bằng trái me xanh toả ra mùi thơm khiến người ta chảy nước miếng. Mai thích ăn hột me nấu chín sau khi mẹ dầm lấy nước. Trái me non thì hột ăn giòn, me hơi già thì hột bùi bùi. Lúc dọn tô canh sẽ cắt thêm trái ớt hiểm chín đỏ, mấy ngọn lá quế, tô canh đủ mùi ngọt của tôm, chua của me, cay của ớt, cọng rau muống xanh (bỏ hết lá) giòn giòn. Nhà đông người chia hai bàn ngồi ngoài sân. Mặt trời vừa lặn sau núi Tô Châu. Mấy nhà đang gặt lúa thì hối hả vác từng bao lúa về sân, bìm bịp, ễnh ương bắt đầu vang tiếng.

Mùa vịt nước đẻ trứng sắp hết, nhà Mai ấp thêm lò thứ tư này sẽ ngưng. Bốn lò được gần hai trăm con nuôi đến Tết Nguyên đán vừa có thịt ăn vừa bán, còn lại để chúng đẻ trứng cho năm sau. Nương nói mùa khô nước mặn đám vịt hoang sẽ theo dòng nước ngọt vô miệt trong. Không biết đàn vịt nuôi có chịu được mấy tháng nước mặn không.

Ngày mai thu hoạch lương thực đủ cho cả nhà ăn năm sau. Có bầy vịt này để ăn thịt Lễ Tết, ông bà nội vui vẻ ra mặt. Bà nội vuốt đầu a Phúc nói:

– Đến Tết a Phúc bán cho nội hai con gà mái, một con gà trống cúng tổ tiên.

– Dạ.

Nhóc rất nhanh gật đầu, nương xỉ trán la,

– Dạ cái gì, con biếu nhà nội chứ.

Cả nhà đều cười làm hắn chu miệng.

– Mua, gà là tiền và công a Phúc bỏ ra, không lấy không của a Phúc.

Ông nội nói vậy là chắc có tiền bán gà rồi, mấy đứa nhỏ đều cười mãn ý. Cha nương lắc đầu ý nói: không hiểu chuyện. Mấy người lớn cười ha ha nói đúng rồi. Nhị bá mẫu sảng khoái nói.

– Ta cũng mua mấy con cho nhà ngoại a Bảo, năm nào cũng phải đi chợ xa mua. Có sẵn ở đây đỡ mất công.

Yeah! Mai tính toán chỉ cần thuận lợi bán mấy nhà quen xung quanh là thu được tiền rồi, cũng ba bốn quan. Lại mua tiếp gà con hoặc trứng gà để ấp trong lò. Năm sau có đàn gà lớn như đàn vịt rồi. Mấy đứa nhỏ túm lại bàn tính làm ông bà nội càng vui vẻ cười lớn.

Một đêm bình yên trôi qua, bà nội và nương dậy sớm nấu cơm. Trời chưa sáng đã ăn cơm xong, nhóm đàn ông kéo hai cộ ra ruộng, nhóm đàn bà con gái cầm lưỡi liềm gặt lúa theo hàng. Trong nhà chỉ còn bà nội và Cúc tỷ lo trong bếp. Mai và a Phúc lùa đàn vịt ra bãi, cho gà ăn rồi cũng chạy ra đồng.

Nhà Lưu bá đã gặt được hơn một nửa, phía ruộng Nguyễn bá cũng xong mấy mẫu. Nhà Mai sạ lúa trễ hơn nên lúa chín chậm hơn. Nước trên ruộng cao gần đầu gối Mai, từng bó lúa gặt xong chồng lên nhau phía sau người gặt. Việc thu hoạch lúa rất nặng nhọc, MaiI và a Phúc không làm được. Hai đứa theo sau bắt ốc, bắt cá hoặc nhặt bông lúa sót lại. Vĩnh ca, An ca thì lo mở bao đệm cho người lớn đổ vào hoặc chạy việc lặt vặt.

Đầu giờ tỵ bà nội và Cúc tỷ mang nước và rổ khoai ra, thay phiên nhau nghỉ ăn uống giữa bữa. Bao lúa đầu tiên được vác về sân, bà nội theo về trông coi. Vĩnh ca, An ca cũng về tranh thủ cào lúa ra phơi cho ráo. Vừa gặt vừa phơi trong mấy ngày nắng, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, lúa khô vô bồ rồi thì nhà nông mới an tâm.

Sau buổi trưa lục cô về sàng lúa. Bà nội không xuống ruộng cắt lúa, ở nhà bà cũng làm việc luôn tay, nấu cơm nước, làm chổi, cào lúa, quét sân.

Ngày thứ hai mới đầu giờ Mão, a Báo ôm con chó nhỏ đen tuyền đến, Hùng huynh theo sau. Mấy đứa nhỏ mừng rỡ vuốt ve nó.

– Ta cho nó ăn rồi, đệ kiếm dây thừng buộc nó trong nhà vài ngày, nó quen rồi hãy thả ra.

Hùng huynh chào bà nội, lục cô xong theo thất thúc ra ruộng. Bà nội nói không cần, hắn là khách sao lại ra ruộng. Huynh ấy cười cười chạy nhanh đi. Mai nhìn theo bĩu môi, huynh ấy biết tự tạo cơ hội ghê!

La Hùng chờ đến hôm nay mới ôm con chó nhỏ đến, đương nhiên là phải ra ruộng rồi. Những ngày mùa nhà nông mua gà thỏ nhiều hơn, ăn thêm thịt mới đủ sức làm. Hắn tranh thủ đi săn nhiều hơn mấy hôm trước. Hôm nay mới xin cha cho nghỉ một ngày đến đây. La Hùng chưa quen làm ruộng, nhưng hắn có sức khoẻ lại làm việc rất nhiệt tình nên rất nhanh hoà cùng mọi người. Hắn, thất thúc và a Bình cũng coi như quen thân nên cũng góp vài chuyện vui. Xem chương mới tại dienvan.space

Chơi chán con chó nhỏ a Phúc lại chạy ra ruộng, a Báo đi theo. Từ nhỏ hắn sống trên núi, quen săn thú rừng, ít có dịp lội ruộng bắt cá tôm mùa gặt. Ban đầu hắn hơi lúng túng, dần quen hắn còn nhanh tay nhanh chân hơn a An, chộp được con cá lóc to đùng. Mùa này cá tôm mập nhất, chúng ‘dưỡng’ để hoặc sinh sản hoặc dành cho mấy tháng nắng ít thức ăn hơn.

Gần trưa, Cúc tỷ về sớm phụ nấu cơm, Mai thấy lục cô và Cúc ty rù rì trong bếp. Còn nghe lục cô cười hì hì chọt chọt eo tỷ. Đúng là thiếu nữ đang xuân, hai người gần tuổi nhau rù rì như vậy biết là nói chuyện gì rồi.

Thời này lập gia đình sớm, bé trai bé gái chưa kịp dậy thì xong đã phải cưới vợ gả chồng, tuổi thơ bị rút ngắn thấy tội luôn. Nhà nông còn đỡ, như tam Mi tỷ, Cúc tỷ ít ra mười sáu mười bảy mới gả chồng sinh con. Những nhà giàu hay quan lại thì mười bốn mười lăm đã gả đi, sao gấp gáp dữ vậy!Chương 62: Sáo sậuHôm nay trời không nắng như hôm qua, vài đám mây đen lơ lửng trên đầu. Ông nội nói mang cơm ra ruộng ăn trưa, tranh thủ gặt lúa nhanh. Nhà Lưu tam bá chưa trồng lúa mùa này nên hai đứa con trai cỡ An ca không bận rộn, đi bẫy được mấy con vịt và le le.

Nương mua ba con vịt làm thức ăn hôm nay, buổi trưa là món vịt kho xả ăn với gạo nếp mới, thêm rau sống, rau luộc. Bà nội vẫn nấu thêm một nồi cơm, người lớn luôn ăn cơm ‘giằng bụng’. Đám nhỏ lâu lâu ăn gạo nếp dẻo rất thích. Nhất là An ca, hắn thích ăn gạo nếp nấu khét dưới đáy nồi.

Dưới gốc cây dừa, bà nội chỉ mấy đứa nhỏ kéo rơm lót, dọn chén đũa, thức ăn ra. Mùi rơm mới thơm nồng thật dễ chịu, làm lòng người thư thái.

Cha tranh thủ gom cây đậu khô nhóm lửa đốt, đám cỏ vừa mọc lên cũng bị cháy tách tách. Giữa trưa không có gió, khói bay lên rất lâu sau mới tản đi. Xung quanh cũng lơ lửng vài đám khói từ các đám ruộng trong làng.

Đúng như ông nội lo lắng, lúc mặt trời gần xuống núi thì trời mưa, không lớn lắm nhưng cũng làm mọi người khẩn trương lên. Tiếng í ới gọi nhau làm nhanh kẻo mưa ướt lúa.

Lúc sáng a Phúc cột con chó nhỏ ở cửa bếp, nó đang nằm liu thiu thì giật mình nhổm dậy nhìn mọi người nhanh tay cào lúa, quét lúa. Nó chạy qua lại, sủa nho nhỏ trong miệng như muốn tham gia.

Lúc hai anh em Hùng huynh về trời còn sớm, bà nội gói khô mực khô cá biếu rồi thất thúc chèo ghe tiễn một đoạn đường. Lúc quay vào bếp bà nội nhìn sau lưng Cúc tỷ hơi cười, xem ra bà vừa ý Hùng huynh rồi. Mấy người lớn trong nhà ai mà không biết ý La Hùng chứ. Mà huynh ấy cũng cố tình chọn ngày mùa đến giúp là có ý này. Cả ngày nay Cúc tỷ cúi đầu làm việc cũng không biết ý tỷ sao. Dù sao cũng phải lấy chồng, giúp tỷ ấy chủ động chọn người còn hơn bị động để người khác chọn cho mình.

Cơn mưa nhỏ như nhắc nhở mọi người, nhà nào cũng tranh thủ gặt đập thật nhanh, sáng ra ruộng lúc canh tư, chiều tối muộn mới về. Khuya hôm đó Mai giật mình dậy vì nghe tiếng gà gáy rất gần, là gà nhà mình gáy. Đám gà cũng nuôi hơn bốn tháng, hai con gà trống lớn rồi.

A Phúc ngủ mê không nghe, sáng dậy nghe Vĩnh ca nói, nhóc tức tốc chạy ra chuồng gà xăm soi con nào biết gáy. Hiểu ý hắn hai con gà trống đứng trên cành cây ra bộ rướn cổ cong đuôi ‘o o ó o’ nghe rất buồn cười.

Dù nhà nông tiếc từng hạt lúa, đập lúa rất kỹ nhưng thế nào cũng còn sót lại hạt lúa trên bó rơm, gà vịt tha hồ nhặt nhạnh. Mấy đàn chim cũng rủ nhau tham gia, chúng nhảy nhót trên những đống rơm vun cao, trên ruộng cao khan nước. Mấy con sáo, khúm núm dạn dĩ nhất, nhiều lúc còn đậu trên phên tre của cộ đập lúa.

Đập xong lúa tẻ, nhà Mai nghỉ một ngày. Cha và ông nội chọn lúa giống phơi trước, sàng sẩy kỹ càng để dành vụ sau. Thất thúc dẫn theo nhị bá, tam bá Vinh ca đi ra bìa rừng đốn gỗ ngâm nước chuẩn bị làm ghe. Bình ca chở nương đi chợ Sông Lớn bán hàng rồi đến nhận cái cưa lớn mang về.

Nửa mẫu lúa nếp chỉ cần một cộ đập một ngày là xong, ông nội và cha vác một cộ qua đập phụ nhà Đỗ lang y. Ông ấy làm ba mẫu ruộng, nhưng nhà ít người nên vẫn chưa đập xong. Nhà Lưu bá đã đập xong từ mấy hôm trước, giờ chỉ còn sàng, phơi lúa.

Năm nay trúng mùa, làm cực hơn vẫn được, người trong làng gặp nhau đều hỏi được bao nhiêu giạ một công, một mẫu. Phú hộ Từ cần người thu hoạch nên những nhà nào xong đều kết nhóm đến làm. Một nhóm là một đội đập gồm một cộ đập lúa, hai ba người gặt, hai người đập. Thu hoạch lúa không nhận tiền công mà chủ ruộng thường trả bằng lúa, tuỳ theo năm có khi mười bốn ăn hai, mười sáu ăn ba; nghĩa là nhóm đập được mười bốn giạ thì lấy hai giạ.

Thu hoạch xong lúa nếp thì tam bá về làng chài, đi lâu quá cũng không được. Nhị bá, Vinh ca rất khoẻ, việc cưa xẻ ván gỗ lớn đều do hai người làm. Cái cưa lớn và giàn gỗ cho hai người đứng thẳng khi xẻ rất hiệu quả, vừa nhanh vừa đỡ mệt. Ông nội và nhị bá đều nói làm cách này đứng xẻ gỗ cả ngày không mệt.

Mấy ngày cuối tháng mười nắng hanh, lúa khô vàng, từng hạt tròn mẩy. Ông bà nội nói không cần giã gạo:

– Nhà con trong này bận rộn, để ta ra kia giã gạo, không tốn bao nhiêu công. Lo đóng ghe xuồng, chăm gà vịt.

Lúc ông bà nội, nhà nhị bá đi về, lúa chất khẳm hai ghe. Thất thúc và Vinh ca chèo ghe mới, Vinh ca muốn vào đây học làm mộc, cha đương nhiên đồng ý. Mai ôm cánh tay bà nội nói:

– Nhà con có ghe rồi, mai mốt ngày nào cũng ra thăm nội.

– Chèo nổi không mà đòi ra, miệng ngọt dễ sợ.

Lục cô bên cạnh trêu chọc. Mắt bà nội đầy ý cười. Bà nhớ lại lúc con trai xin vào trong này ở, bà ngại xa xôi, một nhà con trai đơn chiếc. Bây giờ thì tốt rồi, nhìn xung quanh nhà cửa ruộng vườn, nơi nào cũng là màu xanh mướt, gà vịt theo đàn, lúa gạo đầy bồ. Chưa có lúc nào bà mãn ý như bây giờ. Cha nhìn bà nội lưu luyến không nỡ, bước tới.

– A Mai nói đúng, con sẽ ra thăm cha nương thường.

Bà gật đầu rồi dẫn theo lục cô xuống ghe.

Buổi chiều tứ Mi mang rổ khoai sọ qua cho, vui vẻ nói:

– Hôm qua Tương ca bắt được hai con sáo sậu. Nương nói dạy nó nói được.

– Thật?

Mai biết có mấy loài sáo, vẹt có khả năng bắt chước tiếng người nhưng chưa thấy thực bao giờ.

– Thật, nhưng mà dạy từ từ. Tương ca làm l*иg cho hai con sáo rồi. Muội bắt sâu, rang gạo cho nó ăn nữa. Nghe nói ăn cái này nó sẽ mau biết nói.

Mấy đứa nhỏ nghe rất thích bèn rủ nhau chống ghe lườn qua nhà tứ Mi xem. Hai con sáo sậu nhỏ cỡ trái cóc, lông màu nâu, mỏ và chân màu vàng. Chúng bay nhảy linh hoạt, không sợ mấy đôi mắt đang nhìn mình chăm chú, còn có y khoe tài nữa.

Nuôi dạy bao lâu thì biết nói đây? Rồi có như câu ca bay sang sông đi mất không về không?

Đầu tháng mười một trôi qua trong niềm vui mùa gặt và những cơn mưa bất chợt, phiên chợ làng rộn ràng người mua người bán. Gần trăm mẫu đất của phú hộ Từ đã thu hoạch xong. Mấy nhà trong làng đi đập thuê vui vẻ chở lúa được trả công về nhà. Tương huynh bận rộn ngày mấy lượt chở thuê. Thỉnh thoảng huynh ấy còn đem theo l*иg chim sáo treo trên mui dạy chúng nói.

Buổi chiều Vĩnh ca về nhà nói Đỗ lang y lại đi chữ bệnh con gái lớn Nguyễn bá. Tỷ ấy mang thai lại sinh bệnh nên rất nguy hiểm. Đoàn bá mẫu đi theo lang y qua đó thăm nom.

Chưa nói xong chuyện thì Lưu tam bá mẫu đến chơi. Bà vừa ngồi xuống sạp tre thì đã kể lể chuyện cả nhà đập lúa thuê nhà phú hộ vất và mà chẳng được bao nhiêu. Năm sau có ruộng nhà rồi sẽ không đi đập lúa thuê nữa. Nương chưa kịp nghe hết ý thì tam bá mẫu háo hức:

– Ta nhìn thấy vợ lẻ mới của phú hộ rồi, da trắng môi son giống như tiểu thư nhà quan. A, trẻ đẹp vậy mà đành làm lẻ, nghe nói gia cảnh sa sút, nhà cửa tan nát. Nghe nói bà mai ở Cù Lao phố đến nhà phú hộ hôm qua, chắc chuyện của Từ công tử có tin rồi. Không biết tiểu thư nào được về nhà đó, ruộng hơn trăm mẫu, nhà lớn, cả ngày không động móng tay.

Phú hộ Từ là nhà giàu nhất vùng này, không trách nhiều người tò mò chuyện trong nhà đó, Lưu tam bá mẫu xem ra rất để tâm. Con trai thứ ba là Ngạc huynh và Ngọc tỷ đều đến tuổi lập gia đình, nghe nương nói bá mẫu đang hỏi dò gia cảnh các nhà trong làng.

– A Vĩnh, sư huynh Đỗ Tầm của cháu có đi trị bệnh ở Cần Vọt không?

– Dạ có.

– Cháu ráng theo sư huynh học tập. Thím thấy a Tầm được không?

Tam bá mẫu quay sang hỏi nương, là có ý gì sao, Mai nghĩ bụng. Đỗ Tầm là con trai lớn nhà lang y. Từ nhỏ được ông dốc lòng truyền dạy y thuật. Đỗ Tầm huynh rất ít nói, năm nay mười chín tuổi, lẽ ra nên cưới vợ, chỉ là không hiểu sao chưa cưới. Nhà Đỗ lang y không giàu có như phú hộ hay Nguyễn gia. Nhưng cũng xem như dư ăn dư mặc, lại có nghề lang y càng quý giá hơn nhà khác.

– Ta ít gặp hắn, cũng không biết rõ lắm. Tẩu hỏi nhà ngoại a Mi xem.

Hình như nương Mai đoán được ý tứ của tam bá mẫu, trả lời rất kín kẽ. Thật ra nương nói cũng là sự thật. Nương ít gặp a Tầm mà bà cũng không thể nói sau lưng sư huynh của con trai. Nhà Mai rất cảm kí©ɧ ŧìиɧ nghĩa Đỗ lang y.

Thấy không tìm hiểu được gì, tam bá mẫu rất nhanh đứng dậy ra về.Chương 63: Thương lượng chia phần hùnBuổi chiều hôm chợ phiên có nhà trong làng đến xem hỏi mua ghe. Chiếc ghe lần này đóng lớn hơn, cây gỗ sao già tuổi lại được ngâm kỹ nên cha bán hai mươi quan. Người khách phân vân như chưa quyết, nói là thương lượng với người trong nhà. Khách chưa về đã thấy dì dượng năm đến, chào hỏi xong, người khách muốn về thì dượng năm cười nói:

– Dịp may biết huynh. Tỷ phu ta cẩn thận lại khéo tay, đóng cái ghe thật khéo. Cỡ này đi mua bán gần đây lúc gần Tết thật tiện, kiếm thêm chút tiền xài.

Dượng còn đi quanh chỉ mấy chỗ nối, mũi ghe được bào mượt mà đẹp mắt. Người khách biết dượng năm là người mua bán, đúng là dịp Tết mua bán các vùng náo nhiệt, đương nhiên kiếm được lời.

Kết quả thì không cần nghi ngờ rồi, vị bá bá quay về lát sau đi cùng người nhà đến giao tiền mua ghe. Cha cũng học ông nội nói là cần sửa chữa mang đến, không tính thêm tiền.

Dì năm trong bếp với nương cười rung vai.

Buổi cơm chiều dượng năm là hồng nhân. Mấy đứa nhỏ nài nỉ dượng kể mấy chuyện mua bán. Dượng cũng ha ha cười kể chuyện làm sao ứng phó khách mua hàng.

Số lượng người Tàu ở đây không nhiều, nhưng họ có sở trường và cũng thích làm nghề buôn bán nên đi lại, giao du khắp nơi. Dượng năm tuổi nhỏ nhưng đã tự thân mua bán trên ghe nhiều năm đương nhiên là kinh nghiệm ‘đầy mình’.

– Cha nương gặt lúa xong rồi, dặn muội đi gần đây thì ghé xem nhà tỷ phu sao, năm đầu làm lúa có gì trở ngại không?

Thấy dượng ‘ba hoa’ xong thì dì năm lên tiếng.

– Có nhà nội a Bình vào làm, xong hôm cuối tháng rồi, tính ra cũng trúng mùa. Nhà dượng có mua bán lúa gạo không?

– Không, lúa gạo nặng nề cần nhiều người. Lần này chàng ấy tính bán thêm ít hải sản khô cho dịp Tết, nhà bá phụ ngoài đó có không? Đường cũng cần nhiều, tiếc là dầu dừa không để lâu được.

Nghe dì năm nói cha vui mừng đáp.

– A Tấn, sáng mai đệ về nhà hỏi cha nương xem, ta nghĩ là nhà có.

– Có, tứ thúc. Dạo tháng tám, tháng chín bắt nhiều cá mực, nội đều làm khô để dành.

Hân ca gật đầu chen lời. Mùa cá nhiều nhất trong năm dạo tháng chín. Tất cả người trong làng chài đều ra biển. Cá lớn làm khô, cá nhỏ làm mắm, để dành bán dịp Tết. Họ thường bán cho thương lái ở Nam Vang, xa hơn là từ kinh thành vào mua.

Bàn xong chuyện mua bán, dượng năm nói:

– Tỷ phu chuyên tâm đóng ghe xuồng, loại lớn cỡ nhà ta càng tốt. Ta sẽ để ý tìm người mua, chỉ đường họ đến đây. Lúc về nàng xin cha nương xem lỡ khách không biết đường đi nhờ a Sinh, a Hữu dẫn đường.

– Được, chắc cha nương sẽ đồng ý.

Nhà ngoại gần Trấn Giang, là điểm trung tâm các con sông rạch. Nếu mở địa điểm bán ghe xuồng ở đó là tốt nhất. Chẳng phải lần trước Lưu bá đến đó mua sao? Quan trọng là số lượng ghe nhà Mai không nhiều, cách nào tăng số lượng sản xuất?

Hôm sau thất thúc và Hân ca không vội về nhà nội mà đến gần chiều mới đi, vừa tận dụng con nước vừa tiếc công một ngày xẻ gỗ.

Lần này dì năm mang tiền bán đường, dầu mấy tháng trước đưa nương. Dì vẫn có mấy gói kẹo, mứt, còn kim chỉ nữa. Mai nhớ chuyện nuôi heo nên hỏi nhờ:

– Dì, con muốn nuôi heo. Dì đi nhà nào có hỏi mua giúp con được không?

– Sao không được, bà ngoại dặn dì rồi. Có heo con dì mua cho con.

Dì vui vẻ trả lời, nhìn xung quanh nói thêm:

– Nuôi heo nổi không, dì thấy nhà con quá trời việc rồi.

– Nổi, heo ăn ngày hai ba bữa thôi mà.

– Được

Mấy đứa nhỏ đều gật đầu. Nương kéo dì nói nhỏ. Mai thấy tay dì đưa xuống ôm bụng lắc đầu. Dì dượng thành thân gần ba năm, chắc là nương nỏi chuyện sao dì chưa sanh em bé.

– Đỗ lang y đang ở nhà, ta dẫn muội đến xem mạch, uống thêm thuốc bồi bổ cơ thể. Dượng không còn thân sinh cũng còn người lớn, muội không nên để chậm trễ quá.

– Được rồi, muội đi.

Dì năm ra xưởng nói dượng năm xong thì hai người mang theo hai gói mức đi nhà lang y. Mai theo Cúc tỷ ra cho vịt ăn. Bốn lứa vịt lớn nhỏ hơn hai trăm con đang lặn hụp trong bãi, mấy bụi cỏ trong bãi chăn đã xơ xác.

– Chờ vịt lớn chút mình lùa chúng ra ruộng ăn lúa rụng và ốc.

– Ừ, mấy con vịt này lớn từng ngày. Muội nhìn con cụt đuôi này, mới mấy ngày đã lớn như vậy. Hôm trước tỷ còn lo nó sống không được.

Ánh nắng chiều hơi gắt, Cúc tỷ quấn khăn, đội nón lá trên đầu che một phần gương mặt, đôi mắt to sáng lấp lánh vui vẻ nhìn tràn sức sống. Bây giờ tỷ đã rất giỏi giang, chuyện bếp núc trong nhà, nấu đường, nấu dầu dừa rất thuần thục, một mình quán xuyến. Thỉnh thoảng tỷ còn cho gà vịt ăn.

Lúc ăn cơm chiều Mai nói chuyện lùa vịt ra ruộng, đỡ phần thức ăn mà bọn chúng cũng mau lớn. Cuối cùng là chuyện chăn vịt sáng sớm và chiều do An ca, Vĩnh ca làm, mỗi người một ngày. A Phúc còn nhỏ quá, đi theo sau phụ giúp thôi.

Lưu bá mẫu qua nhà chào hỏi dì dượng năm, xuống bếp cùng nương và dì nói chuyện.

– Lúc xế, thím và dì đi nhà lang y có việc sao?

Đúng là ở đây khó giấu chuyện gì lâu. Nương nói chỉ xem mạch, hốt thuốc dưỡng thân cho dì năm.

– A Trân thể chất hàn, lại quanh năm ở trên sông nước, ăn uống đồ lạnh nên khó mang thai hơn người khác. Lang y có kê đơn, uống vài thang trước tẩm bổ chắc là được.

– Ừ, muội chú ý giữ thân, chỉ là trên xuồng làm sao ăn đồ nóng được.

Ủa, không phải có cái cà ràng sao? Mai chưa đi ghe liên tục nhiều ngày nên không để ý việc ăn uống trên xuồng. Cô vẫn nghĩ như ở hiện đại người ta nấu nướng trên xuồng bình thường.

Tam bá mẫu nói xong chuyện dì năm nhỏ giọng hỏi:

– Có nghe nói bệnh tình a Trang (con gái lớn Nguyễn bá) sao không?

Nương thở dài nói:

– Vẫn còn bệnh, nhà bên kia nói Đoàn tẩu rước về đây sớm, đợi sanh luôn.

– Vậy à? Bao lâu nữa sanh?

– Cũng gần hai tháng, chắc vài ngày mang trà rượu qua đón về, khổ thân. Nghe nói lúc trước xuống ruộng gặt lúa mới kéo bệnh thêm.

– Trời, thai lớn vậy còn bắt xuống gặt lúa sao, nhà bên đó cũng làm quá.

– Tẩu biết nhà bên đó không?

– Ta chỉ nghe nói thôi, cũng khá giả, môn đăng hộ đối với Nguyễn gia bên này. Đặt sính lễ cũng trọng, hai mươi quan, lễ phản cố còn có một con heo quay nhỏ nữa.

Nghe xong nương và dì năm à lên ngạc nhiên, lễ cưới đúng là trọng. Vậy tại sao lúc này hình như không coi trọng con dâu và cháu vậy? Tuy là có thai muộn, nhưng cũng có rồi. Chẳng lẽ có nguyên nhân khác.

– Tìm nhà chồng tốt, sống có nghĩa vẫn hơn. Nhà khá giả mà vô nghì vậy khổ con gái mình.

Bá mẫu và nương đều đang tìm nhà chồng cho con gái. Hai người không khỏi cảm thán cho hoàn cảnh a Trang và Nguyễn bá mẫu.

Giờ tỵ ngày kế thất thúc và Hân ca về, chở theo cá khô, mực khô đủ loại. Có mấy con mực to bằng hai bàn tay người lớn, lúc còn sống chắc to hơn nữa. Còn có hai hủ nước mắm gửi biếu ông bà ngoại và dì dượng. Dì dượng vội lo cân ký, gói và xếp lên ghe, dầu đường cũng xếp hết lên. Dượng nói nhà Mai làm thêm nhiều đường, đầu tháng chạp dượng ghé mua chở lên Trấn Biên. Sau đó dì dượng lên ghe theo con nước hướng sông Giang Thành vào miệt trong.

Cha nương hỏi thăm chuyện nhà nội, thất thúc nói:

– Phòng ca tẩu giờ là cho a Hoàng ở, cha định sửa chái nhà rộng hơn, làm vách mới để làm phòng a Hân sang năm cưới vợ.

Nghe đến đây cả nhà quay sang nhìn Hân ca, hắn vừa ngượng ngùng vừa hơi giận nói:

– Cháu không chịu, đợi thêm hai ba năm nữa.

– Cháu cũng lớn rồi, cưới vợ sanh con là chuyện lớn nên làm.

Cha hơi ngạc nhiên thấy Hân ca phản đối như vậy. Trai lớn cưới vợ, gái lớn gả chồng là chuyện xưa nay. Liếc thấy mấy đứa nhỏ háo hức ‘tám’ ông nghĩ nên hỏi riêng a Vinh nên đằng hắng nói:

– Cha có nói khi nào làm không? Ta về phụ làm.

– Không cần, cha nói có chút việc, đợi rãnh rỗi cha cùng nhị ca, tam ca làm.

– Có chuyện này cha nương nói với các con.

Ông rào đón như vậy xem ra là chuyện quan trọng, ai nấy không trêu Hân ca nữa mà tập trung nghe.

– Lúc trước nhà mình làm đường, làm dầu không nhiều, không tốn nhiều sức nên có tiền hiếu thảo ông bà nội cái gì cũng được. Giờ tiền đóng ghe được nhiều. Lần trước với hôm qua cha gửi tiền ông bà đều không nhận. Nhưng mà thất thúc và Hân ca các con, rồi ông bà, bá bá con vào đây cưa xẻ gỗ rất nhọc sức. Các con nghĩ sao?

– Ca, đệ,…

– Thúc, cháu,..

Hai người được nêu đều muốn nói nhưng cha khoát tay. Mai nhìn quanh thấy không ai lên tiếng, cô cân nhắc một chút rồi nói:

– Cha nương, con thấy mình làm giống như chuyện tụi con hùn tiền nuôi gà. Ai có công có vốn thì được chia tiền. Chỉ là nương, tỷ mặc dù không làm trực tiếp nhưng cũng có góp sức nên cũng tính công một nửa.

– Một nửa là sao?

Mấy đứa nhỏ chưa hiểu rõ lắm nhưng nghe chia phần cũng biết sơ sơ, a An nhanh nhẹn hỏi tiếp. Mai giải thích cách cô nghĩ, bốn người làm chính là cha, Bình ca, thất thúc và Hân ca mỗi người một phần, còn lại thì hai người một phần cộng thêm một phần vốn là tám phần. Cứ mỗi lần bán được ghe thì chia tám phần, thất thúc và Hân ca được hai phần.

– Tiền này là của thúc và Hân ca, hai người muốn làm gì thì làm. Nhà mình hiếu thảo ông bà nội riêng.

– Được, con thấy nên như vậy.

A Bình lên tiếng, hắn gắng sức làm để trong nhà tốt hơn. Thất thúc và Hân ca cũng vất vả như hắn thì nhận tiền mang về nhà nội là đúng rồi. Việc nhà mình hiếu kính cho ông bà tính riêng.

– Mai mốt gà lớn con gửi biếu ông bà nội một cặp.

A Phúc cái hiểu cái không, chắc chỉ nghe hiếu thảo ông bà nội riêng liền nghĩ đến mấy con gà bảo bối của hắn. Từ lúc có con Mực – là con chó nhỏ đen thui a Báo cho – thì hắn luôn mang theo. Hắn nói là đang huấn luyện con Mực chăn gà chăn vịt.

A Phúc chen ngang làm mọi người cười rũ rượi. Chuyện tiền bán ghe cũng tính tạm như vậy. Cha gật đầu nói:

– Ta thấy tính tạm như vậy, đệ và a Hân thấy được không?

– Được, phần chia của đệ đưa cho cha nương.

– Cháu cũng vậy, để ông bà dùng.

– An ca, cuốn sổ hôm trước muội chỉ ca làm đâu?

Mai hỏi a An, đến lúc mang ‘ bảo bối’ ra rồi. Đúng như cha nói, tiền bán dầu hay đường đủ dùng trong nhà, dư một ít nương cất dự phòng. Còn tiền bán ghe không nhỏ, nên tính toán thu chi.

A An chạy lại kệ nhỏ đặt đầu bộ ván hắn ngủ, lấy ra một ‘cuốn sổ’ như cách Mai gọi. Cuốn sổ là những tờ giấy thô màu vàng dùng kim chỉ may lại. Giấy này là a Vĩnh xin Đỗ lang y mua dùm, thêm một cây viết lông và mực nữa hết gần một quan. Mấy đứa nhỏ phải nài nỉ nương mới cho tiền mua.

Trên đó có viết gần đầy một trang, a An chỉ từng dòng giải thích. Đầu tiên là tiền mua mấy dụng cụ, mấy chữ cái cưa, cái đυ.c,… chữ nào chưa được học thì thay bằng hình vẽ, chủ yếu là số tiền. Sau đó là hai dòng ghi số tiền hai lần bán ghe.

– Có cái này mình không cần sợ nhớ nhầm.

Lần đầu tiên cả nhà thấy ghi chép như vậy, học chữ không phải chỉ để thi làm quan.

– A An, đệ dạy ca làm cái này, ca cũng muốn.

Hân ca rất phấn khởi, lúc thấy mấy đứa nhỏ ngồi cặm cụi học viết chữ hắn cũng không coi trọng. Bây giờ xem ra là có chỗ dùng, còn dùng rất tốt.

– Được, Hân ca mỗi ngày theo tụi đệ học.

Lê tứ thở nhẹ trong lòng. Ông không nghĩ đến chuyện ông lo lắng lâu nay lại “giải quyết” nhẹ nhàng như vậy. Đúng là mình chưa từng làm ăn riêng nên không rõ chuyện hùn hạp. Mà sao a Mai và a An biết? còn chuẩn bị làm trước hết rồi. À, chắc là học từ dượng năm tụi nó.Chương 64: Mua bán trao đổiMấy ngày tiếp theo vội vã trôi qua, cái ghe thứ ba chưa xong thì có khách từ trong làng đến xem. Nhìn chiếc ghe được ghép ván đáy, ván be, đóng cong vững chắc, ông khách hài lòng hỏi giá.

– Hôm trước ta nghe nói mười lăm quan, giờ sao là hai mươi?

– Phải, cái ghe hôm trước nhỏ hơn so với ghe này, mũi ghe cũng thấp hơn, lúc chèo nặng tay.

Ông khách ngập ngừng rồi nói:

– Không giấu gì đệ, nhà ta mới chuyển vào gần Dương thúc trong kia. Dựng nhà, nộp thuế đất chỉ còn cỡ mười lăm quan. Ta tính mua ghe đi lại đánh cá chờ vụ mùa sau. Bây giờ không đủ tiền rồi, đệ có đóng cái ghe nhỏ hơn giá mười lăm quan không?

– Được, chỉ là huynh đợi thêm, gần một con trăng mới xong.

– Vậy à, chắc cũng phải chờ thôi.

Ông khách có vẻ tiếc nhìn chiếc ghe mấy lượt, nhưng cũng quay về. Lúc nói chuyện mấy đứa nhỏ trong xưởng đều nghe, nên cha quay lại nói:

– Ta nghĩ mình đóng cỡ nhỏ, cỡ lớn để nhà người ta dễ chọn lựa.

Mai nghĩ nghĩ rồi nói:

– Cha nói đúng, nhà mình làm hai cỡ càng tốt. Chỉ là con thấy ông khách này muốn đánh cá vẫn nên dùng ghe lớn mới an toàn.

– Phải, con nói phải. Không lẽ mình cho ông ấy nợ?

– Cha, không nên cho nợ. Con tính cách này cha thấy được không?

Cách mà Mai tính là nhà người khác có sức lao động thì đi đốn gỗ hoặc xẻ gỗ bù lại tiền còn thiếu, vừa giúp nhà cô đỡ công. Nhà cô đóng ghe nhanh hơn mà nhà họ cũng mua được. Nhà nông sau mùa gặt nhàn rỗi, có việc này làm không phải ra tiền nhưng cũng gián tiếp mua được tài sản.

– Cha nghĩ ông ấy sẽ đồng ý.

Nếu là ông trước đây có việc như vậy ông cũng sẽ đồng ý làm. Chiếc ghe là tài sản quý trong nhà, đi lại, đánh cá, làm mua bán, lái đò đều nhờ nó. Cha dặn dò mấy việc xong thì đi về hướng nhà ông khách ở trong làng.

Ngày mai là rằm, nương soạn rổ trái cây, hai cân gạo cùng một bó nhang kêu Mai đem cúng dường tịnh xá. Cô rủ a Phúc và con Mực cùng đi. Tháng mười một trời đã ít mưa, chỉ thỉnh thoảng vài cơn mưa nhỏ. Cây cỏ xung quanh xanh mát, ao sen rộng đầy lá non vươn lên, tràn ra từng mảng lớn.

Tịnh xá gọn gàng sạch đẹp hơn trước, Mai thấy sư ông cùng hai nhóc trạc tuổi a Vĩnh đang cọ rửa mấy lu nước ở sân trong. Cô và a Phúc chào sư ông, mang rổ vào phòng rồi cũng ra phụ rửa lu.

– Sắp đến mùa nắng, cần trữ nước ngọt pha trà dâng lễ Phật.

– Dạ, lu này đủ dùng không sư ông?

Mai nhìn gần chục cái lu xếp dọc theo mái hiên, có mấy nắp lu bể nên dùng đan tre thay thế. Hai nhóc nhị Thân, tam Tuất cháu Dương ông đã biết a Phúc từ trước. Ba đứa rất nhanh đùa giỡn, còn vẫy nước lên con Mực làm nó chạy vòng vòng tránh, sủa ư ử trong miệng.

– Đủ dùng rồi.

– Sư ông, cháu nghe nói lá sen non phơi khô dùng rất tốt, đúng không?

– Đúng rồi, lát nữa cháu theo sư ông đi hái, ao sen mùa này nước sâu.

– Dạ.

Gần nửa canh giờ sau mấy đứa nhỏ mang rổ đi theo sư ông ra ao sen. Sư ông không cho xuống nước, chỉ kéo lá sen gần bờ hái. Vừa hái lá sen ông vừa chỉ cách phơi và sao lá sen để dành, cách dùng lá sen trị bệnh.

– Vài hôm nữa ta đi Nam Vang, gần rằm tháng chạp mới về.

– Dạ,, sư ông có dặn dò gì không?

– Không, ta đã sắp xếp hết rồi. Lúc về có thể có thứ đặc biệt cho con.

– Thật? Cho con?

Sư ông cười nhìn Mai, cô bé này giống đom đóm nhỏ giữa đêm hè, tự thân phát ra ánh sáng lung linh. Nó không biết rằng ánh sáng ấy là kim chỉ nam cho người lỡ bước hay cô độc, mang lại niềm vui trong tâm tưởng người nhìn thấy nó. Những thay đổi ở nhà Mai, ảnh hưởng đến làng này sư ông đều nhìn thấy.

Mai về nhà mang lá sen ra phơi nắng, cô giữ lại lá non nhất rửa sạch cắt nhỏ làm rau sống, lá sen non ăn sống cũng có tác dụng an thần giúp ngủ ngon, điều hoà khí huyết. Mai kể nương nghe chuyện sư ông đi Nam Vang.

– Nương làm cơm nắm muối mè cho sư ông mang theo được không?

– Sao không được, nói a Vĩnh nhắc nương ngày nào sư ông đi.

Nghĩ nghĩ một chút nương quay sang Cúc tỷ nói:

– Con lấy khoai lang làm mứt khô, đi Nam Vang xa xôi, khoai lang để được lâu hơn.

Ba mẹ con đang sắp xếp thì cha về, cha vui vẻ nói:

– Nhà bên đó đồng ý rồi. Trưa nay ăn cơm xong sẽ đi đốn gỗ ngay, ta đi cùng để chỉ cây nào dùng được. Trưa nay nàng dọn cơm sớm chút.

– Được.

Lá sen chưa kịp ráo nước thì trời đổ mưa, Mai và a Phúc vội gom lại mang vào nhà.

– Nương ơi, nhà mình đủ lu hứng nước mưa không?

Mai chợt nhớ việc trữ nước ngọt dùng trong mùa nắng. Đến mùa khô, chỉ có nước uống mới dùng nước mưa. Nước sinh hoạt có khi nước nấu ăn cũng phải dùng nước sông rạch. Nước mặn từ sông múc lên lóng mặn, lóng phèn hai ba ngày mới dùng. Nhưng làm thức ăn vẫn không ngon, giặt quần áo mau hư, tắm đương nhiên cũng không bằng nước mưa, còn bị ngứa và khô da.

– Đợi hôm chợ phiên nương mua thêm mấy cái lu nữa.

Trời mưa cũng không ảnh hưởng việc cha và bốn người nhà nhà bá bá trong làng đi vào rừng đốn gỗ.

Phía ngã rẽ từ vũng Đông Hồ vào làng có chiếc ghe lớn, mui che bằng vải xanh, mũi ghe ngẩng cao lướt nhẹ vào hướng nhà Nguyễn bá. Nghe nói ngày mai Nguyễn gia mới đi đón Trang tỷ, chẳng lẽ nhà chồng đưa tỷ ấy về sao? Cũng vội vàng quá.

Đúng như Mai đoán, a Vĩnh từ nhà Đỗ lang y về nói. Nhà chồng tỷ ấy đưa về Nguyễn gia chờ ngày sanh nở, còn mời lang y đến xem mạch, bốc thuốc bồi dưỡng thân thể. Mai có dự cảm nhà chồng Trang tỷ không đơn giản, có tính toán gì đó.

Chuyện nhà Mai bán ghe nhận làm công thay tiền còn thiếu truyền ra trong làng rất nhanh. Hôm sau Dương ông đến xem chiếc ghe hứa bán cho vị bá bá trong làng, vị này là cháu trong họ của ông. Ông xem rất kỹ chiếc ghe đã được trát keo chờ khô để hạ thuỷ, có vẻ hài lòng nói với cha:

– Nhà cháu làm được như vầy thật tốt. Người dân chúng ta có ghe xuồng thì quanh năm kiếm miếng ăn cũng dễ dàng, thật quý.

Cha không giỏi đưa đẩy lời nói, chỉ cười nói:

– Không có gì, Nhà cháu cũng cần người phụ làm..

Lúc trước nghe ở nhà nói nhà Lê tứ có nuôi gà rừng, vịt hoang. Ông nghĩ là mấy đứa nhỏ thèm ăn thịt nên nuôi vài con. Ai dè phía sân sau là đàn gà rừng lớn trọng đang dạo tìm thức ăn, dưới ruộng là đàn vịt hơn trăm con đang giỡn nước. Thật sự nuôi được sao? Trước giờ không ai nghĩ nuôi chúng, dù sao cũng có sẵn trong rừng, dưới sông, đặt bẫy là có.

Dương ông đang miên man suy nghĩ thì có hai người Lưu bá và Lưu tam bá đi vào. Mọi người chào hỏi xong, uống chén nước trên bàn, Lưu tam bá nói:

– Đệ cũng biết nhà ta mới vào đây, còn nhiều khó khăn muốn mua ghe mà không có tiền. Ta nghe nói đệ nhận làm công thay tiền nên đến hỏi xem cụ thể làm sao.

Lưu tam bá cũng ‘thẳng thắn’ quá, có mặt Dương ông cũng không ngại. Cha nhìn Dương ông ý hỏi, thấy ông gật đầu nên kể rõ chuyện đã thương lượng. Thật ra chuyện này không có gì phải giấu. Lưu bá nghe xong gật đầu nói:

– Cách này tốt, đệ làm được vậy giúp người làng mình có phương tiện sinh sống.

Lưu tam bá hơi nhăn mày, đúng là làm tốt, nhưng nhà ông là quen biết. Ông dẫn Lưu bá đến cùng là muốn nhân hai nhà thân mà kiếm thêm chút lợi ích, tỷ như ông không cần bỏ ra tiền. Xem ra có tiền lệ cháu Dương ông rồi, nhà ông không bỏ ra tiền là không được. Đọc chương mới tại dienvan.space

– Ta về xem ở nhà còn bao nhiêu tiền.

Mai châm thêm nước ấm vào bình, đứng sau lưng cha nói:

– Cha cháu tính đóng hai cỡ xuồng, cỡ nhỏ như cái đầu tiên mười lăm quan. Cỡ lớn như cái đó là hai mươi quan.

Cha gật đầu xác nhận.

– Gần đến Tết rồi, đệ chỉ đóng được hai cái nữa, huynh xem muốn mua cỡ nào thì báo đệ biết.

Tuy rằng Mai không biết Lưu tam bá đang suy tính cái gì, nhưng có Dương ông và Lưu bá ở đây rất tốt. Nói chuyện rõ ràng như vậy không mích lòng nhà nào.Chương 65: Ngũ cô trở vềHôm sau Lưu tam bá quá giang ghe đi về làng chài. Lúc trời tối, trăng hạ tuần lên đầu ngọn dừa, cả nhà Mai đã tắt đèn lên giường thì nghe tiếng gọi:

– A Bình, dậy mở cửa cho nội.

Là ông nội, có chuyện gì sao ông đến giờ này? A Bình đáp lời, mọi người đều ngồi dậy, bước xuống giường. Ông và tam bá đứng ở sân nhìn mấy đống lửa trong làng còn le lói phía xa.

– Cha, tam ca, vào nhà đi. Có việc gì sao?

Cha khoát áo còn chưa kịp gài nút hỏi.

– Không có gì, không có gì.

Ông nội nhìn ra vẻ gấp gáp lo lắng của cha nên khoát tay nói.

– Nghe nhà a Chí bên kia nói chuyện con bán ghe, ta muốn vào xem sao thôi. Đi theo ghe chở cá lên Trấn Giang, đến đây trời đã tối. Mấy đứa nhỏ đi ngủ đi.

À, thì ra là vậy. Nương và Cúc tỷ đốt đèn dầu trên bàn, đi xuống bếp nhóm lửa. Trong lúc cha kể chuyện mấy ngày nay thì thất thúc và Bình ca trải thêm chiếu, hun muỗi, sắp xếp lại chỗ ngủ của đám con trai. Nương và Cúc tỷ rất nhanh dọn cơm và cá kho lên bàn. Cha và tam bá ăn thêm một chén rồi mọi người đi ngủ.

Mấy hôm sau ông nội, tam bá và một nhà Lưu tam bá đi đốn gỗ trong rừng. Nhà Lưu tam bá muốn mua ghe cỡ lớn, cũng đưa trước mười lăm quan, còn lại năm quan sẽ xẻ gỗ bù công.

Có thêm nhiều người làm, ông nội coi sóc việc đốn củi. Cha và Bình ca tập trung uốn ván, đóng be, đυ.c cong nên chiếc ghe cho nhà Lưu tam bá rất nhanh thành hình. Càng làm càng thuận tay, Mai xem rất kỹ ván đáy, ván be được ghép chặt khít. Cha và Bình ca là thợ chính, hai người tỉ mỉ đo, uốn các tấm ván, đυ.c bào mấy thanh cong trơn bóng đẹp mắt. Công việc cưa xẻ gỗ cần sức nhưng việc ghép ván lại cần sự khéo léo, tỉ mỉ và kiên nhẫn không phải ai cũng làm được.

Cha đã chỉ dẫn thất thúc và Hân ca mấy lượt, hai người làm cùng lúc ghép ván nhưng để tự hai người làm thì không thể. Nhìn Bình ca đo, bào từng lớp gỗ, canh chỉnh để hai miếng ván khớp vào nhau, thất thúc lắc đầu nói:

– Nhìn a Bình làm thì đơn giản, sao đến phiên ta lại khó vậy!

Mấy đứa nhỏ cười ha ha, không phúc hậu chút nào.

Tận dụng mấy miếng gỗ dư, Mai làm thử xuồng năm bản, cái này phức tạp hơn xuồng tam bản, nhưng bề rộng lớn chứa được nhiều đồ, thành xuồng cao không sợ sóng lớn sẽ an toàn hơn.

Nhìn thấy Mai lại vẽ vẽ, ghép ghép cha đến nhìn. Lúc ông thấy hình vẽ năm miếng ván ghép lại, ông mừng rỡ nói:

– Con tính được chưa? Làm được cỡ ghe lớn này sao? Là năm miếng ghép lại à?

Nghe giọng cha mừng rỡ, mọi người chạy lại coi. Vừa thấy hình, vừa nhìn năm miếng gỗ nhỏ Mai đang ghép lại ai cũng phấn khích hỏi:

– Có thể làm được không? Khi nào làm?

Mai cũng vui lây niềm vui của mọi người. Có thêm loại ghe lớn sẽ thuận lợi biết bao nhiêu. Ông nội hỏi Mai kích thước có thể đóng được là bao lớn.

– Dạ con áng chừng nhiêu đây, chọn loại gỗ tốt, ngâm kỹ có thể làm ghe đánh cá được đó nội.

– Ừ, ta sẽ vô rừng sâu hơn chọn cây tốt ngâm trước.

Ghe đi biển đóng hơi khác so với ghe ở sông, giá cao hơn. Mười năm trước nhà ông nội mua đã tốn gần ba mươi quan. Nhà mình đóng được thì kiếm thêm cá, làm thương lái cũng đặng.

Mai quay sang nói với cha.

– Cha, cái này sau Tết mình làm thử. Bình ca phải làm mẫu mấy lần mới được. Giờ cha làm xong mấy cái được đặt trước.

– Được, cha biết.

Nói như thế nhưng ông cũng không khỏi săm soi bản vẽ và bản mẫu cỡ nhỏ của xuồng năm bản này. Ai làm nghề mà không muốn thử đóng loại mới!

Hai ngày sau Bảo ca vào, không kịp buộc ghe đã nhảy lên cầu ván vào xưởng.

– Ông nội, ngũ cô về!

Ông giật mình buông cái cưa xuống,

– Về khi nào, có nói gì không?

Bảo ca lúng túng, mồ hôi lăn xuống cổ, chèo ghe vội vã giữa trưa nắng từ làng chài vào. Mai rót chén nước đưa Bảo ca, ca ấy không uống mà nhìn ông nội.

– Có gì cứ nói.

– Ngũ cô về một mình, gặp bà nội chỉ ôm bà khóc lớn. Bà nội hỏi một lúc sau cô nói,… nói nhà bên đó đuổi về.

Mọi người đều nhíu mày im lặng, Bảo ca nói tiếp.

– Ngũ cô còn bị đánh, bà nội thấy ở cánh tay, trên vai đều có vết thương. Bà kêu con vội vào đây báo ông biết.

Nghe đến đây thì cả nhà đều buông công việc đang làm, ông nội nói:

– Ta về nhà, việc ở đây hoãn lại mấy ngày. Con thu xếp được chứ?

Câu sau là ông nói với cha, cha gật đầu nói:

– Con cũng theo cha về, a Bình coi sóc việc nhà với nương con.

– Ta về theo chàng.

Vừa nghe lời cha nương đã nói,

– Ta về là được rồi. Nàng về theo việc nhà không có người lớn, ta không yên tâm.

Cuối cùng nhà Mai chỉ có cha, Vĩnh ca và cô đi theo. Vĩnh ca và cô mang theo một túi đầy các loại thuốc, cô còn lén nói nương đưa cô mười quan tiền. Nương gật đầu dặn dò mấy câu, gói cho mỗi đứa hai bộ quần áo rồi theo ghe đi. Bảo ca và Hân ca chèo ghe nhà nội đi trước, ghe sau là cha và thất thúc.

Ngược chiều nước, ngược chiều gió làm tóc cha và thất thúc thổi ngược ra sau. Gương mặt đón gió, đón nắng đỏ ửng, giọt mồ hôi chưa kịp rơi xuống đã bị gió cuốn đi.

Đây là lần đầu tiên Mai về làng chài bằng ghe nhưng cô không có tâm trạng ngắm phong cảnh hai bên bờ sông.

Ngũ cô nhỏ tuổi hơn cha nhiều, cô được gả đến nhà làm muối ở gần chùa Hang, hòn Phụ tử bảy năm trước. Sau ba năm cô không có con, nhà chồng muốn hưu, trả về nhưng ông nội không đồng ý đành thoả hiệp để nhà trai cưới vợ hai.

Không cần nói cũng biết ngũ cô ở nhà chồng vất vả khổ sở như thế nào. Hàng năm ông bà nội đều tặng lễ hậu cho nhà bên đó mong rằng họ nể tình mà đối xử tốt với cô. Cưới vợ hai rồi mà hơn ba năm nay vẫn chưa có thai, không biết ai nói ra nói vào mà có lời đồn là do ngũ cô ‘nặng vía’ ám nhà chồng tuyệt hậu. Xem ra lần này họ đã tuyệt tình.

Theo kiến thức hiện đại thì biết đâu người chồng mang bệnh, thời này thật bất công, tội lỗi đều trút lên người đàn bà. Mai nghĩ biết đâu lần này họ đoạn tuyệt lại tốt cho ngũ cô. Dù sao sống ở nhà đó bị hắt hủi, coi rẻ như vậy chỉ uổng phí một đời, giống như người ở không công. Chỉ là làm sao để nhà nội và ngũ cô hiểu ra. Người ở đây đều coi rẻ đàn bà không sanh con, bị hưu đuổi về nhà mẹ đẻ.

Mặt trời xuống biển thì Mai mới đến làng chài, sóng lớn đánh vào be xuồng ồm ộp, nước bắn tung toé. Mấy ngọn đèn dầu leo loét rải rác dập dềnh xa xa, ngư dân vẫn chăm chỉ tìm nguồn sống mỗi đêm. Vĩnh ca và Mai chân nhỏ không theo bước chân người lớn đang đi vội về nhà nên đành tụt về phía cuối. Lúc đến cổng nhà thì lục cô vẫn cầm đèn đứng đợi. Nhà nội vẫn chưa ăn cơm chiều, chắc đợi ông nội về. Nhìn bàn cơm canh đã nguội, ông thở dài nói:

– Ăn cơm trước đi rồi nói.

Nhà nội vẫn chia hai bàn ăn. Mai và Vĩnh ca theo lục cô xuống nhà sau, cất túi vải, rửa tay rồi ngồi vào bàn. Ngũ cô cúi đầu ngồi kế bà nội, mái tóc dài che phần lớn khuôn mặt. Bà nội kéo Mai ngồi cạnh:

– Ăn cơm đi. Hai đứa đi cả buổi chắc mệt dữ. Ăn đi con.

Bữa cơm diễn ra nhanh và lặng lẽ, bàn nhà trên cũng tương tự, ai cũng nuốt vội chén cơm. Lúc ăn cơm xong thì gió bắt đầu thổi mạnh, chắc trời sắp mưa. Nhóm đàn ông, con trai ngồi ván bên trái. Nhóm đàn bà con gái ngồi bên phải, ông nội ngồi ở bàn khách giữa nhà.

– A Hằng, con nói xem chuyện gì xảy ra?

Ngũ cô cúi đầu thật lâu, lúc bà nội định lên tiếng thay thì giọng cô khàn khàn trả lời:

– Hôm qua có thầy địa lý đi qua làng, lúc đến nhà nói, … nói, … họ Trần tuyệt hậu vì có người khắc tự trong nhà. Họ đinh ninh là do con nên … sáng nay đòi hưu, đuổi con về nhà. Con không chịu thì họ đánh, kéo rồi quăng quần áo con ra khỏi nhà.

Ngũ cô sụt sùi kể, giọng càng lúc càng khàn, chắc đã khóc không ít.

– Quá đáng, cha nương mình phải đến đó nói phải quấy mới được.

Thất thúc nắm chặt tay tức giận nói. Bà nội thở dài, vuốt nhè nhẹ trên lưng ngũ cô. Mai thấy cô hơi thót người mới chợt nhớ đến vết thương.

– Cô đã đắp thuốc lên vết thương chưa?

Mai hỏi làm mọi người nhìn ngũ cô chăm chú.

– Chiều bà nội có đắp lá thuốc trên tay rồi.

Bà nội nghẹn giọng nói, vậy trên lưng? Ngũ cô không nói có vết thương trên lưng sao? Mai chắc chắn là có.

– Còn trên lưng?

– Không có,…, không có bị thương trên lưng.

Ngũ cô vẫn không muốn cả nhà biết, là vì che dấu cho nhà đó? Hay không muốn bà nội đau lòng?

Bà nội đương nhiên hiểu ngũ cô, đứng dậy kéo cô vào buồng trong. Mai kêu Vĩnh ca đưa túi thuốc, dặn ca ấy ở ngoài hỗ trợ, dù sao cũng là nam nữ hữu biệt.

Không khí trong nhà càng trầm hơn, thất thúc tức giận đi qua lại ngoài hiên. Từ nhỏ thúc ấy là do ngũ cô chăm sóc mà lớn lên. Năm nay hắn đủ lớn để hiểu thế nào là nỗi khổ của người đàn bà không sinh con, cam chịu để nhà chồng cưới vợ hai, giờ bị đánh, bị đuổi đi.

Trong buồng, bà nội và lục cô kéo lưng áo ngoài xuống, hít sâu khi thấy áo trong đã cũ thấm máu xỉn màu. Lúc kéo áo trong xuống lại càng đau lòng, từng vết thương giống như bị cây quất, cũ mới đan xen.

Mai tức giận không kìm được la lớn ‘Hèn hạ, vô liêm sỉ, cũng dám ra tay’. Bên ngoài nghe tiếng Mai chửi lớn càng lo lắng.

– A Mai, là chuyện gì?

Mai không trả lời, chỉ kêu lục cô mang nước ấm, khăn sạch vào. Lục cô khóc thút thít đi ra ngoài chuẩn bị.

– Ngũ cô, cháu lau và cầm máu vết thương, cô uống thuốc trước. Sáng mai cháu mới trị được.

Đèn dầu không đủ sáng để lau rửa sạch các vết thương cũ mới, đành uống thuốc chống viêm và an thần để ngũ cô ngủ lấy sức tối nay. Ngày mai sẽ xem kỹ hơn, nghe Mai nói trong buồng, Vĩnh ca đã đi sắc thuốc. Bà nội ngồi trên giường ôm ngũ cô mà rớt nước mắt, gương mặt như thêm nhiều nếp nhăn, lưng còng thêm.

Ngũ cô uống thuốc xong, mệt mỏi nên ngủ luôn. Ông nội cũng bảo cả nhà đi ngủ, đến sáng mai nói chuyện cũng không muộn.

Mấy tháng không về đây ngủ, Mai lạ chỗ, cộng thêm tinh thần vẫn còn kích động nên khó ngủ. Cô lại không dám lăn qua sợ bà nội và lục cô tỉnh giấc. Lúc tối gió thổi mạnh nhưng trời không mưa. Trăng hạ tuần chơ vơ lạnh lẽo treo giữa trời.

Chuyện sinh con không đơn giản tại người này người kia, nếu sau này cô cũng không sanh được con thì sao? Phải chịu khuất nhục như vậy? Không được, mình phải tự bảo vệ mình trước, không trông chờ vào người khác.

Theo như phản ứng của nhà nội, thêm việc mấy năm nay nhà nội tặng quà lễ rất trọng cho nhà bên đó. Chứng tỏ ông bà nội và cả nhà cảm thấy có lỗi với nhà họ, cũng không có ý muốn đón ngũ cô về là sợ mang tiếng ảnh hưởng đến lục cô, mấy đứa cháu gái trong nhà. Hừm!

Sáng mai ông bà xử lý sao? Mang ngũ cô trả về bên đó, tặng lễ tạ lỗi? Không được, không thể để chuyện này xảy ra. Phải nghĩ cách mới được.Chương 66: Đoạn tuyệtNgũ cô nhờ thuốc an thần nên ngủ một giấc rất sâu. Buổi sáng tinh thần cô không còn bất an, hoảng hốt như hôm qua. Lục cô đỡ ngũ cô dậy, ăn chút cháo lại uống thang thuốc. Sau đó đỡ lưng cô hướng ra cửa sổ, Mai đã chuẩn bị sắn sàng, đưa ngũ cô khăn tay cắn trong miệng.

– Vết thương để qua đêm, tụ máu bầm, cháu rửa sẽ đau, cô ráng chịu đựng.

Ngũ cô gật đầu, quấn khăn lên bàn tay tự đưa lên miệng. Có mấy vết thương cũ làm sẹo thật xấu xí, vết thương chưa kịp lành còn mưng mủ, vết mới bị đánh hôm qua còn rỉ máu. Mai lại giận đến run tay, răng nghiến chặt để không bật thêm tiếng chửi. Lau rửa, sát trùng, đắp thuốc, băng lại gần một canh giờ mới xong. Ngũ cô không kêu rên chỉ cắn răng, mắt đỏ hoe. Bà nội đứng ngoài cửa buồng nhìn đôi mắt thăm thẳm. Vĩnh ca xoay lưng chờ Mai

băng bó xong thì dọn dẹp.

Lúc mọi người ngồi lại nhà trên nói tiếp chuyện tối qua thì cũng đã qua giờ tỵ. Ông nội suy nghĩ hồi lâu mới cất tiếng hỏi:

– Vết thương nặng không? Bao lâu thì khỏi?

Cái này là hỏi Mai, e là đúng như cô đoán, muốn đưa ngũ cô về nhà đó nữa sao?

– Lưng ngũ cô có rất nhiều vết thương, cũ mới đều có.

Nghe đến đây thất thúc đã đứng dậy, cô liếc hắn rất nhanh, nói tiếp.

– Vết thương mới chảy máu đầm đìa, có cái trúng xương vai, không trị dứt sau này có thể làm mủ, hư thịt, còn phế một bên tay.

Không khí trầm xuống đúng như Mai muốn. Vết thương đúng là rướm máu, cô chỉ hơi nói quá chuyện hư thịt và phế một bên tay thôi!

Thất thúc không kìm được nói:

– Cha, không thể đưa ngũ tỷ về nhà đó được, lần sau không còn mạng về đến đây đâu. Con sẽ đi qua nhà họ hỏi mới được, cớ gì đánh đuổi như vậy.

Lục cô thút thít khóc, nghẹn ngào nói:

– Cả lưng tỷ đều bị thương, cha nương!

Ông nội thở dài nhìn bà:

– Bà sao?

Ông bà sao không đau lòng con gái, chỉ là nếu a Hằng về nhà thì cả đời coi như huỷ rồi. Mai mốt ông bà mất đi sẽ sống dựa vào anh em, liệu có được không? Còn ảnh hưởng đến em gái cháu gái trong nhà mang tiếng, hôn nhân sau này sẽ khó khăn hơn nhiều.

– Cha, để ngũ cô về nhà mình đi. Vĩnh ca và con mới trị hết vết thương được, còn có Đỗ lang y kê đơn bồi bổ thân thể nữa, được không cha?

Mai cần đi từng bước để ngũ cô không thể bị đưa về nhà đó.

– Được, con và a Vĩnh phải trị thương cho hết mới được.

– Dạ.

A Vĩnh gật đầu, hắn không biết vết thương ở lưng ngũ cô lại trầm trọng như vậy.

– Cha nương, trị lần này xong rồi sao? Lỡ bị phế cánh tay thì nhà họ có để cho ngũ tỷ sống không?

Mai liếc mắt tán thưởng thất thúc, nói đúng trọng tâm.

– Để ngũ tỷ ở nhà tứ ca đi, con đi với cha qua nhà họ, hưu thì hưu, không cần về nhà đó nữa.

– Đúng rồi, cháu thấy ngũ cô ở nhà cháu đi, không cần về nhà đó. Bọn họ nghĩ nhà ta không nuôi nổi ngũ cô sao? Nhà cháu sẽ nuôi ngũ cô, phải không cha?

Mai giả ngu ngơ không hiểu lý do mà ông bà nội không thể giữ ngũ cô. Dù sao cô không sợ không gả đi được. Còn Cúc tỷ, nếu nhà hắn (La Hùng) vì chuyện này không đồng ý thì cô cũng không cần, tìm cho Cúc tỷ mối khác vậy.

Cha Mai đương nhiên biết vì sao nhà nội không thể giữ, nhưng a Hằng là muội muội ruột thịt, hắn đau lòng. Giờ thấy con gái nhỏ nói như vậy làm sao từ chối. Cứ như vậy đi, hắn sẽ nuôi muội muội cả đời.

– Cha nương, để ngũ muội về nhà con đi. Nhà con giờ nhiều việc, có muội ấy đỡ đần khẩn thêm vài mẫu ruộng cho mùa sau.

– A Tâm, con,…

– Nương, con hiểu ý nương. Nàng ấy,…

– Ha ha, mai mốt có ngũ cô khâu giày cho thất thúc rồi. Không cần nhờ con làm, còn chê xấu.

Mai nhanh nhảu cắt ngang lời cha nói, cha muốn giải thích chuyện bà nội lo nương cô sẽ không vui. Mai tin là nương có tấm lòng sẽ thông cảm. Cô sẽ ở bên cạnh nói thêm vào, mưa dầm thấm đất chắc nương sẽ không quá để tâm lời ra tiếng vào của người ta.

Bà nội không nhìn cha Mai nữa mà nghiêng về phía ông gật đầu. Bà đau lòng biết bao nhiêu, con gái mình sanh ra, yêu thương nâng niu. Gả cho nhà người ta lại bị coi rẻ, đánh đuổi như vậy!

– Hai con thấy sao?

Ông nội quay sang nhà nhị bá, tam bá vẫn im lặng chưa lên tiếng. Nhị bá lớn tuổi còn cân nhắc thiệt hơn, tam bá hơi vội vàng nên lên tiếng trước.

– Cha, nhà mình nhịn nhục mấy lần rồi, không cần nhịn nữa. Mang tiếng thì sao? Dù gì cũng mang tiếng rồi. Dứt một lần cho xong luôn đi.

Lời tam bá rất thẳng thắn, đúng là dù sao xung quanh ai cũng biết chuyện ngũ cô không thể sanh con, giấu cũng không được.

– Cha hay là đoạn tuyệt luôn. Mấy năm nay nhà ta đã tặng lễ trọng vậy mà họ vẫn không hài lòng. Sắp tới chuyện nhà a Tâm đóng ghe, tới tai nhà họ. Con nghĩ họ tham lam như vậy càng muốn nhiều hơn.

Lời của nhị bá như thức tỉnh mọi người, nhà bên đó muốn nhiều lễ hơn sao? Nhất là sắp đến Tết rồi.

– Khốn nạn,

– Tham lam.

Mấy tiếng chửi cũng lúc, ông nội dằn tay lên bàn nói:

– Ta mời Trần thúc cùng đi qua nhà họ, con đi với ta.

Ông quay sang nhị bá dặn, bá ấy gật đầu. Nội lại hỏi cha Mai.

– Con định khi nào về trong đó.

– Nếu việc nhà đó cha lo xong thì con cũng muốn về sớm.

– Ừ, trong đó cũng nhiều việc gấp.

Mai nháy mắt với cha, đi đến sau lưng đưa cha túi vải.

– Cha, trong này là mười quan, cha mang theo đi đường hay có việc gì cần dùng.

– Không cần nhiều vậy, nương con có, để bà ấy đưa ta.

Dằng co một lúc ông nội cũng cầm theo tiền, quan trọng là giải quyết dứt khoát chuyện hai nhà đoạn tuyệt. Không kịp ăn trưa nội đã mời được trưởng làng cùng lên đường.

Bà nội và lục cô muốn vào trong đó mấy ngày, ghe nhà Mai nhỏ không chở hết nên chia ra. Cha, thất thúc, Vĩnh ca và Mai đi cùng với ngũ cô để lo thang thuốc nếu cần. Bà nội, lục cô và Hân ca quá giang ghe vào sau. Tam bá lo việc ở nhà nội.

Mui ghe không đủ dài, ngũ cô nằm hơi co lại, nhắm mắt như đang ngủ. Không biết lúc sáng nằm trong buồng cô có nghe chuyện bên ngoài hay không, chỉ thấy cô im lặng ăn cháo, uống thuốc rồi nhị bá mẫu, tam bá mẫu dìu xuống ghe. Mấy nhà trong làng chài biết chuyện đều nhìn bên này, thì thầm bàn tán.

Lần về xuôi dòng nước nhưng cha và thất thúc vẫn mạnh tay chèo, về nhanh để ngũ cô nghỉ ngơi. Không biết ngũ cô đang nghĩ gì, cảm thấy sao khi cả nhà không hỏi ý kiến đã quyết định vận mệnh của mình. Nhưng mà dù tương lai thế nào thì cũng tốt hơn bây giờ, bị coi rẻ, nhục mạ tinh thần, hành hạ thể xác như vậy cũng gần như chết rồi.

Đến nhà nương và Cúc tỷ dìu ngũ cô vào phòng. Cô nhìn quanh nhà, còn muốn gượng ngồi dậy muốn xuống bếp.

– Muội nghỉ một chút đi, dưới bếp cũng không có việc gì. Chiều nay muốn ăn cơm hay cháo?

– Ăn gì cũng được, ta không sao đâu.

Vấn đề bây giờ là không đủ phòng, ngũ cô ở đây lâu nên phải xếp giường chu đáo. Cha dời vách phòng Mai xuống gần bếp, phòng rộng hơn, đặt thêm một cái giường cho ngũ cô. Bà nội và lục cô chỉ ở mấy ngày thì qua phòng cha nương, cha ra ngủ bộ ván cùng a Phúc.

Lúc bà nội, lục cô và Hân ca vào thì trong nhà vẫn đang dọn dẹp, thêm cái chái nhỏ làm thành bếp, dời kệ tủ, sạp tre, mỗi người phụ một tay cũng xong. A Phúc và con Mực chạy lăng xăng rất hưng phấn. Lúc ngũ cô gả đi thì nương đang mang thai a Phúc, mấy năm nay cô ít về nhà nên hắn không nhớ cô, biết cô sẽ ở nhà hắn thỉnh thoảng liếc nhìn tò mò.

Thật ra Mai cũng không nhớ ngũ cô, chỉ có hai hôm nay nhìn vết thương, nhìn cô chịu đựng đau đớn không ầm ĩ khiến Mai thương cảm, đồng tình. Cô nghĩ chắc ngày thường cô còn ít nói và chịu nhịn hơn, nếu không thì nhà bên đó làm sao dám ức hϊếp cô đến như vậy.

Ngày chợ phiên nương đi bán ở chợ Sông Lớn mua về hai cân thịt, hai cân xương hầm đu đủ tẩm bổ cho ngũ cô, mấy đứa nhỏ cũng được ăn ké. Cha thì vô chợ làng mua về sáu cái lu lớn, xếp hàng ở ngoài vách bếp.

Nhà Mai hay có khách hơn trước đây, cộng thêm Lưu tam bá mẫu đến nhà chơi không khỏi hỏi chuyện của ngũ cô. Chuyện ngũ cô vào nhà Mai ở, rồi sự tình ở nhà chồng, bị hưu cũng lan ra. Lưu bá mẫu đến nói với bà nội và nương. Người lớn thì thở dài thở ngắn, ngũ cô chỉ im lặng làm mọi người khó mở miệng an ủi. Rút lại là ai nấy đều lơ đi.

Mấy hôm sau ngũ cô khoẻ hơn cũng theo cả nhà xuống bếp, cho gà vịt ăn. Miếng đất mới khẩn hoang trồng đậu và khoai cũng đến lúc thu hoạch. Nương nói cha cứ lo đóng ghe xuồng, việc thu hoạch nhóm đàn bà con gái trong nhà làm từ từ cũng xong. Có bà nội, lục cô làm nữa nên hai mẫu đất mới thu được gần năm trăm cân khoai lang, khoai mì, khoai mỡ và cỡ đó các loại đậu. Đọc chương mới tại dienvan.space

Bà nội và ngũ cô làm bánh khoai mì, nấu chè đậu xanh, lúc nào cũng có mấy thứ ăn vặt trong nhà.

– Mấy đứa làm việc nhiều, mất sức, phải bồi bổ dưỡng thân. Nếu không về già sẽ nhức mỏi đủ chỗ.Chương 67: Tình nguyện và không tình nguyệnĐầu tháng chạp bắt đầu mùa khô, nắng nhiều hơn, mặt trời xuống biển chậm. Mai nói sao làm việc cả ngày không thấy trời tối! Làm cả nhà cười trêu nói cô lười biếng, ham ngủ.

Trước ngày chợ phiên đầu tiên tháng chạp thì bà nội và lục cô về làng chài. Ngũ cô đã khoẻ, ở đây có cha, thất thúc với mấy đứa nhỏ quan tâm, chăm sóc bà cũng yên lòng rồi. Bà nên về nhà lo chuẩn bị Tết nhứt.

Lúc trước cha nương tính mua vải may quần áo mới trong nhà và nhà nội, nhưng bà nội nói chỉ cần may cho ông nội và mấy đứa đang tìm mối thôi. Những người còn lại thì từ từ năm sau may. Tiền trong nhà đúng là không đủ cho mọi người nên chỉ mua vải cho ông nội, Lục cô, a Hân, a Cúc.

Chuyện ngũ cô và nhà bên kia đã đoạn tuyệt, có hai trưởng làng làm chứng, coi như xong. Nhị bá nói nhà họ đúng là có ý kiếm ít tiền sắm tết. Lúc thấy cha, Trần thúc đến nói chuyện thôi nhau, đoạn tuyệt sui gia thì rất bất ngờ. Nhà họ lớn tiếng đổ lỗi ngũ cô phá nhà cửa nhà họ muốn bồi thường. Ông nội giận dữ nói chuyện ngũ cô bị đánh, phải chạy chữa thang thuốc như thế nào, ai bồi thường cho ai?

Rốt cuộc cũng xong, ông nội biếu hai trưởng làng mỗi người bình rượu và một cặp gà rừng cảm ơn. Mười quan hôm trước ông muốn đưa lại cha, nhị bá vào đón bà nội và lục cô mang theo đưa cha.

Cha mời bà nội và nhị bá vào nhà trên, nói chuyện chia phần lúc trước. Cha còn kêu a An tính xem, bán bốn chiếc ghe được bao nhiêu, chia phần bao nhiêu. Bốn chiếc bán được 65 quan, mỗi người thất thúc và Hân ca được tám quan và bốn mươi lăm văn. Giờ cha đưa bà nội thêm số còn thiếu nữa.

Nhị bá rất bất ngờ, không nghĩ đến chia thành phần như vậy. Mọi người đều vui vẻ, nên như vậy, có làm thì phải có hưởng. Đúng là đóng ghe vất vả bù lại tiền kiếm được nhiều. Sang năm bán ít nhất là mười hai chiếc, gấp ba năm nay, nghĩ đến đã thấy hứng khởi.

Chiếc ghe chở khoai, đậu, đường, còn mấy cái lu mới muốn khẳm. Lục cô ngồi bên mũi phụ chèo cùng nhị bá thẳng hướng về làng chài.

Buổi chiều ngày chợ phiên, Lưu bá mẫu và nương vừa về nhà thì tam bá mẫu qua.

– Sáng nay đi chợ, mấy người trong đó cứ theo ta hỏi chuyện a Hằng, họ thiệt là rỗi việc.

Mai nhíu mày nghe giọng nói tam bá mẫu không có vẻ phiền mà như vui vẻ. Ngũ cô đang chặt rau chuối cho vịt ngoài sân đứng dậy ôm rổ ra vườn. Lưu bá mẫu nháy mắt ra hiệu nhưng tam bá mẫu không thấy hoặc không hiểu vẫn nói tiếp.

– Ta nói làm đàn bà phải chịu đựng một chút, ai,… còn nghĩ đến em đến cháu mình chứ.

Mai đứng dậy đi ra sân nói vọng vào.

– A, có ai đang tìm bá mẫu sao? Vào nhà rồi kìa.

– Là tìm ta sao? Ai vậy kìa?

Lưu tam bá mẫu xách nón bước ra. Mai chỉ loáng thoáng chỗ lùm cây ngay cổng vào nhà, bà ấy hỏi đâu đâu rồi đi về. Mai đi vào nhà thấy Lưu bá mẫu đứng dậy ra về. Nương không nói gì đội nón, mang cuốc nhỏ ra sau vườn. Nhìn hai người đi khuất, Mai hỏi a Cúc:

– Tỷ có sợ ngũ cô mang tiếng xấu truyền đi không?

– Ai muốn nói thì nói đi, ai mà biết trước là mình không thể sanh con chứ. Nếu ta biết, ta sẽ không lấy chồng làm gì, lại chịu khổ như vậy.

Vậy là sao? Ý a Cúc là lấy chồng chỉ vì muốn có con? Cũng đúng, đàn bà ở đây mấy người được gả cho người mình thích, hoặc nói là họ không biết yêu thích là gì. Ở nhà cha mẹ lo việc bếp núc, lớn lên gả đi cũng lo bếp núc. Khác chăng là bắt đầu sanh con, làm mẹ mới bắt đầu biết yêu thương con, sống vì con. Không có con người đàn bà không có điểm tựa. Họ không thể tựa vào người chồng, người thân cận nhất, người gần như sống lâu nhất cùng họ, thật bi ai!

Trong nắng chiều, hai người đàn bà lom khom nhổ cỏ cho vườn rau. Hai bóng ngả dài trên đất, lúc gần lúc xa. Không biết nương an ủi ngũ cô như thế nào, chỉ thấy mắt cô sưng đỏ mà tay vẫn không ngừng làm việc. Lưu tam bá mẫu thật đáng ghét, lần sau không cho bà ta vào nhà mình.

An ca đang phơi gỗ vụn trong sân, gỗ này đốt tốt hơn rơm nhiều. Mai nhìn mạt cưa gỗ vun thành đống phía ngoài xưởng, để không thật phí, làm phân bón? Có thể. Chẳng phải nhà mình đang thiếu phân bón sao. Mình trộn mạt cưa với bèo, ít phân gà vịt nữa, ủ mấy tháng tới mùa vụ là dùng được.

Rải một lớp mùn cưa, một lớp bèo, một lớp phân chuồng, tìm lá cây ủ kín để đó. Đợi mấy ngày có mạt cưa nhiều thì làm, cũng không tốn nhiều công. Bình ca buông tay bào đυ.c ra giúp Mai dọn đống mạt cưa. Mặt trời đã lặn, trời chưa tối nhưng không đủ sáng làm công việc tỉ mỉ nên mọi người làm việc ngoài sân, dọn dẹp sân vườn, múc nước lóng phèn.

Cha nghe nói cái này làm phân bón cho lúa, nên hỏi:

– Là cậu hai con nói sao? Vậy mỗi chiều cha gom mạt cưa làm. Con đừng đυ.ng tay, mạt cưa ghim chảy máu tay.

Mùa sau nhà có năm mẫu đất, nếu có phân bón lúa tốt sẽ thu hoạch nhiều hơn. Ông nhìn ụ phân vừa làm tính toán, năm mẫu cần bao nhiêu ụ.

Gà gáy canh năm là cha nương và ngũ cô đã dậy. Ngũ cô nói đã quen dậy giờ này, không thể ngủ tiếp. Nhà làm muối rất vất vả, còn hơn nhà làm nông. Lúc ở nhà chồng, cô dậy sớm lo cơm nước xong thì mang cuốc ra ruộng muối canh nước, tháo nước, phơi muối, sàng lọc. Một năm có cỡ năm tháng làm muối, là mùa khô. Đến mùa mưa thì lo làm ruộng, trồng khoai, đôi tay cô chai sần, còn có vết thẹo, da tóc đều khô.

Cô không kể chuyện ở nhà bên đó. Nhưng nhìn bàn tay, bàn chân và mái tóc khô cháy cũng đủ biết cô vất vả như thế nào. Người thời này ai mà không vất vả, mặt nám da chay. Nhưng vui vẻ làm lụng để nhà mình có cuộc sống ấm no khác với bị đày ải cực nhọc mà còn bị khinh rẻ, đánh chửi. Không biết mấy năm qua cô đã chịu bao nhiêu tủi nhục.

Mấy đứa nhỏ nằm ngủ nướng đợi tiếng gà gáy dứt mới bò dậy. A Phúc mắt nhắm mắt mở rửa mặt bên lu nước nghe tiếng ngũ cô gọi.

– A Phúc, lại xem nè. Gà đẻ trứng rồi, ba, bốn trứng nè.

A Phúc nghe xong quăng gáo dừa vào lu, lấy tay áo lau sơ mặt chạy ra. Trên tay ngũ cô là bốn cái trứng gà nhỏ, hơi thuôn dài. Nuôi gà mấy tháng nay không uổng công vất vả. Lúc ăn sáng Mai hỏi ý cả nhà xem nên bán gà Tết này hay để chúng đẻ trứng, gầy đàn gà con nuôi tiếp. Mấy đứa nhỏ sôi nổi bàn bạc.

– Ta nhắn a Hùng để hắn nhặt trứng hoặc gà con bán cho chúng ta, có trứng thì mình dùng lò ấp.

Thất thúc nói. A An tính bán hai cặp gà đã hứa nhà bà nội và nhà ngoại a Bảo, được gần hai trăm văn. Mai hỏi nương.

– Nhà mình cũng cần một cặp phải không nương?

– Ừ, nương mua một cặp, còn tặng nhà Lưu bá và sư phụ a Vĩnh mỗi nhà một cặp.

A, vậy là phải bán mười con rồi, còn lại mười sáu con mái và hai con trống. Năm trăm văn a An tính mua được hơn trăm con gà con. Cả đám đều hớn hở, đợi nuôi năm sáu tháng nữa là có đàn gà lớn.

– Nương ơi, tặng vịt cho ai vậy? Đến lúc Tết vịt cũng lớn rồi. Nhờ ngũ cô và Cúc tỷ nuôi, vịt mau lớn ghê.

Nghe mấy đứa nhỏ bàn bạc, ba người lớn đều thấy vui vẻ. Cuối năm nay ăn Tết sung túc hơn.

– Trong rừng có một bãi lầy, hôm trước có mấy con kỳ đà rúc vào đó tránh nắng, a An, a Vĩnh đừng đuổi vịt gần đó.

– Dạ.

Những lúc đói kỳ đà cũng ăn gà vịt. Nhưng gà bay được lên cành còn tránh được, vịt thì khó thoát hơn. Xem chương mới tại dienvan.space

– Vịt được mấy cân?

Nương quay sang hỏi ngũ cô,

– Mấy con trống lớn chắc cũng ba cân rồi, thêm mười ngày nửa muội nghĩ cỡ bốn cân.

– Hôm chợ phiên muội đi bán vịt với ta đi.

Ngũ cô hơi ngần ngừ chưa đáp.

– Cho con đi với,

– Cho con đi với,

Hai đứa nhỏ đều đòi đi, trẻ con thiệt là.

– Được rồi, mấy ngày đó cũng rảnh rỗi, nhà mình đều đi chợ Tết đi, vừa bán vịt vừa xem chợ.

Nhà Mai vừa vào đây, chưa biết chợ Tết ở Sông Lớn vui không? Ở làng chài chợ Tết do những nhà trong làng tụ tập lại mua bán mấy ngày trước Tết. Cũng đông vui nhưng chắc không bằng trong này rồi.Chương 68: Tháng Chạp đến, lòng người nôn nao!Gần đến rằm tháng chạp mà sư ông chưa về. A Vĩnh và hai nhóc cháu Dương ông vẫn mỗi ngày quét dọn và đốt nhang lễ Phật.

Ruộng bắt đầu cạn nước, đất ẩm ướt là chỗ thích nhất của ếch nhái, cua đồng. Mấy đứa nhỏ trong làng sáng chiều đều mang đυ.c ra ruộng bắt ếch. A Phúc cũng xách đυ.c theo An ca, Vĩnh ca chăn vịt, vừa tranh thủ đào hang bắt cua dọc bờ rạch. Mùa này nước rút, vịt hoang đã di cư về rừng ngập nước miệt Cà Mau.

Nhà Dương ông dặn nương một cặp vịt làm cơm cúng ngày ba mươi. Bây giờ mọi người mới thấy nhà Mai nuôi vịt thật tốt, có thể bán kiếm thêm ít tiền dịp Tết, trong nhà làm mấy món thịt cho mấy đứa nhỏ ăn.

Tiếng đồn nhà Mai có đàn vịt nuôi mập mạp lan xa, nhà phú hộ nhờ Tương huynh mua giúp năm cặp vịt. Tương huynh lại cao thêm một khúc, gương mặt cười sáng rỡ, được nhờ mua giúp mà vui vậy sao?

Mấy ngày tháng chạp, nhà Hùng huynh cũng đi săn cả ngày, mấy ổ gà con, trứng cũng nhiều. Hùng huynh chọn gà con khoẻ mạnh, trứng đẹp mang thẳng đến nhà Mai, còn đi ra chuồng gà xem, nói chuyện phiếm một lát mới về.

Ngũ cô đang ngồi trên sạp tre nghe nương chỉ cách chọn trứng gà để ấp, trứng tròn đều, không bị trầy xướt. Trứng gà đẻ ở nhà, mua thêm của anh em La Hùng nữa được hơn sáu mươi trứng đủ một lò ấp. Ngũ cô lần đầu làm cái này, không khỏi tò mò, nâng niu mấy cái trứng nhỏ như sợ có con gà nhỏ sắp nở ra.

Lò ấp được đốt lên, một lứa gà con bắt đầu.

Trăng rằm tháng chạp không lạnh lẽo mà mang theo niềm vui lan toả trong không khí. Mỗi nhà đốt đống lửa lớn ở sân, cùng nhau làm nốt mấy việc trong ngày. Đám con nít thì xin cha nương khoai vùi vào đống lửa, xâu mấy con tôm nướng trên than hồng. Còn có mấy con vọp lớn cỡ bàn tay cũng được nướng trong than. Mấy nhà có người nhà ở biển có thêm mực nướng thơm lừng.

Nương, ngũ cô và Cúc tỷ lau lá chuối đã phơi lúc trưa, xếp lại từng xấp, cái này là chuẩn bị gói bánh tét. Năm nay nương gói hai loại nhân, nhân ngọt là chuối chín và nhân mặn là đậu xanh mỡ. Nương định gói nhân ngọt trước, cái này cúng dường tịnh xá nên sợ lẫn với nhân mặn.

Ngày hai mươi tháng này là cúng tổ nghề mộc. Cúng xong thì thất thúc, Hân ca về nhà nội. Cha cũng dọn dẹp đồ nghề, nghỉ làm đến qua Tết hết mùng mới làm tiếp. Còn mấy ngày cha cố làm xong chiếc ghe thứ năm để nhà dùng, chở cả nhà đi chợ Tết.

Mấy ngày chợ phiên từ đầu tháng chạp đã rộn ràng. Người nông dân có lúa gạo đầy bồ trong lòng vui vẻ gặp nhau chào hỏi rôm rả.

Chợ phiên ngày mười chín, nương và ngũ cô đi chợ Sông Lớn bán vịt, dầu, đường cùng với Lưu bá mẫu. Mai và An ca đi bán ở chợ làng, có a Phúc đi theo. Ba đứa nhỏ chống ghe lường men theo rạch. Sương sớm mang hơi lạnh, gió hiu hiu thật thích, làm tinh thần rất thoải mái.

Lúc trước làng chỉ có mười mấy nóc nhà, giờ đã nhiều hơn. Dương ông nói đã có gần ba mươi nhà trong này. Nhà Nguyễn bá và cụm ba nhà chỗ nhà Mai, cách một khoảng về phía Bình San có mười nóc nhà nữa. Làng Đông Hồ trở nên đông đúc hơn trước.

Hôm nay trong chợ rất nhộn nhịp, chỗ bày bán chen chúc. A Báo từ xa thấy mấy đứa đã ngoắc tay gọi lớn. Nhà hắn sao đến chợ sớm hơn mọi lần. Sau lưng a Báo ngoài Hùng huynh còn có bà lão lưng hơi còng, gương mặt có nhiều nếp nhăn nhưng rất sắc nét, cương nghị. Mai chưa gặp cha a Báo, nhưng gương mặt hai anh em hắn thừa hưởng từ bà lão này, sống mũi thẳng cao, cằm vuông cương nghị, xương quai hàm sắc gọn.

Mấy đứa nhỏ khoanh tay thưa bà, là bà nội a Báo. Bà hơi cười gật đầu. A Báo nhanh nhẹn giúp bày hàng, vừa làm vừa hỏi:

– Sao đệ không mang con Mực theo chơi?

– Nó không chịu nằm yên. Đệ sợ nó rớt xuống sông.

– Trời, nó lội rất giỏi, sợ gì?

– Thật? Đệ chưa dạy nó mà.

– Hắc, hắc, đâu cần dạy, nó tự biết, đệ cứ quăng nó xuống nước rồi xem.

– Hả?

Mấy đứa nhỏ vui vẻ nói chuyện con Mực, giọng a Báo rất ‘kẻ cả’. Nhà hắn nuôi con Vện từ nhỏ nên hắn rất rành. Thấy An ca và a Phúc ‘lơ mơ’ hắn rất khoái chí chỉ bảo. Mai thấy bà lão nghe tụi nhỏ nói chuyện gương mặt cũng giãn ra, ẩn hiện ý cười. Nhà họ La sống ở lưng chừng núi, cách phía chân núi gần nửa canh giờ mới có nhà nên ít người qua lại. Con nít có bạn bè nói chuyện, cãi nhau mới tốt.

Hết chuyện con Mực lại đến chuyện gà con và trứng gà. Nhờ có nhà Mai mua mà a Báo bán được gần hai quan tiền gà con và trứng. Hắn tất nhiên là hăng hái, tiếp theo ‘chỉ bảo’ An ca, a Phúc tập quán, thói quen của gà rừng.

Chợ đông người hơn, Hùng huynh nói với bà nội hắn:

– Nội đi mua đồ đi, con ở đây bán.

– Ừ.

Nói rồi bà xách giỏ đệm đi đến khu bán lúa gạo, gia vị. Mai cũng muốn đi xem, dù sao chưa bao giờ thấy chờ nhộn nhịp như vậy. Chợ Sông Lớn chắc còn náo nhiệt hơn, thật là mong đợi.

– Muội đi chơi đi, ca bán cho. Chợ đông người coi chừng bị chen té.

An ca rất hiểu ý nói.

– Đệ đi với, a Báo, huynh đi không?

A Báo ra vẻ chợ có gì mới lạ đâu, rồi cũng bước ra, còn lầu bầu nhăn nhó nói:

– Cũng đâu có đông lắm, chợ Sông Lớn còn đông hơn.

Nói là nói vậy chứ hắn cũng tò mò hết xem chỗ này lại chạy chỗ kia. Chỉ là lúc nào cũng đi gần Mai, giống như ‘hộ vệ’ sợ cô bị người ta chen lấn té. Mai buồn cười không nói.

Ngoài những món ngày thường, có mấy sạp mới bán món đồ dùng cho ngày Tết. Câu đối mực đen viết trên giấy đỏ dùng dán trên hai cột giữa nhà. Bình rượu gốm dán chữ Phúc, chữ Thọ ở thân bình. Có xấp giấy hình bát quái, hình ông ba mươi, các hoa văn khác.

Mai nhìn hai chữ viết to trên tờ giấy đỏ hình vuông, phía dưới có hình vẽ giống con mèo cách điệu nhìn có vẻ dữ dằn. Mai bước đến hỏi ông lão bán hàng.

– Chữ này là gì vậy ông?

Ông lão nhìn xấp giấy nói:

– Là Kỷ Mẹo, con mèo đó cháu.

– Ông bán bao nhiêu?

– Ba mươi văn một cặp.

A, mắc quá. Người ở đây ít để ý thời gian, họ tính bằng năm, theo mùa chứ không để ý từng giờ từng phút như hiện đại. Chính vì vậy cuộc sống trôi qua thư thả, không cảm thấy công việc ‘dí’ sau lưng. Mai vẫn còn tâm lý người hiện đại là cần biết ngày nào, thứ mấy, năm mấy nên cô rất muốn tờ giấy ghi nhớ năm Kỷ Mão này, chỉ là hơi mắc tiền.

Lúc Mai đang tính xem có mua hay không thì thấy Tùng huynh đi đến cùng một vị bá mẫu dáng người hơi mập, là nương của huynh ấy. Chắc họ muốn mua câu đối và giấy tiền cúng ngày ba mươi. Nguyễn gia là nhà giàu có nhất trong làng, chỉ không bằng nhà phú hộ Từ ở làng trên thôi.

Sạp bán đồ gốm rất đông người xem, nhà nào cũng muốn mua thêm chén, dĩa, chậu hoặc nồi để nấu nướng cúng tổ tiên. Có mấy bộ bình trà sáu ly nhìn rất đẹp, đất nung già màu nâu đỏ hơi sậm, tay cầm uốn lượn hoa mỹ.

Cách mấy sạp đồ gốm là sạp đồ đá bán các đồ dùng bằng đá. Cối xay đá, Mai rất nhớ mấy món hủ tiếu, mì, còn bún gạo xạo nữa, chỉ là ở đây không có bột xay nhuyễn bán sẵn. Lần trước nương làm bánh ú cúng Tết Đoan ngọ phải ngâm gạo nếp qua đêm rồi bóp nhuyễn rất mất công mà cũng không nhuyễn được như bột.

Giá của một cái cối xay lớn là ba quan, cỡ nhỏ hơn chút thì hai quan.

Cũng may là mình không có tiền. Nếu không nãy giờ cũng hết, cái gì cũng muốn mua.

– Tỷ muốn mua mấy cái đó sao?

A Phúc đi theo thấy Mai hỏi giá món này món khác hỏi.

– Ừ, mà giá mắc quá, giờ nhà mình chưa có tiền. Đợi gà lớn mình bán có tiền, mua cái cối xay đó về nương làm bánh ăn rất ngon.

A Phúc chưa được ăn mấy món bún hay mì nên không biết mấy món đó ngon như thế nào. Có điều tỷ nói ngon thì chắc đúng như vậy. Trong lòng hắn lục tỷ là nhất.

– Ta có tiền, đủ mua cái cối xay nhỏ. Ngươi thích ta mua cho ngươi, không cần đợi gà lớn.

A Báo phía sau lên tiếng, Mai giật mình quay lại nhìn:

– Ngươi có nhiều tiền vậy à?

– Là tiền bán gà con và trứng ngươi mua đó. Bà nội nói tiền đó là của ta, nội để dành cho ta muốn mua gì thì mua.

A Báo đắc ý nói, bà nội đang giữ tiền dùm hắn. Hắn kiếm được rất nhiều tiền. Mấy đứa con trai dưới chân núi không kiềm được nhiều như hắn đâu.

– Ngươi không muốn mua gì sao?

– À, … Không, bây giờ chưa cần lắm.

A Báo có vẻ lúng túng, Mai mỉm cười nhìn hắn. Xem ra hắn để dành tiền muốn mua cái gì đó, là cái gì ta? Tại sao giờ lại muốn cho nàng tiền để mua cối xay đá. Hắn cũng hào phóng quá, đúng là con nít tốt tính. Thấy Mai mỉm cười nhưng cũng không nói là nhận tiền của hắn mua cối xay, hắn vội vã nói:

– Không sao, qua Tết ta đi săn nữa, để dành thêm tiền mua cung tên sau.

– A, huynh muốn mua cung tên sao?

A Phúc nhanh nhảu hỏi. Đối với chuyện săn bắn của nhà a Báo, mấy đứa con trai luôn háo hức muốn biết. Thấy mình nói hớ, a Báo hơi ngượng nhưng rất nhanh quay qua nói tiếp với a Phúc ‘lợi hại’ của cung tên. Đúng là hắn muốn để dành tiền mua cung tên, cha nói đợi hắn săn thú thành thạo sẽ mua cung tên cho hắn. Nhưng nếu tự mình có tiền mua sớm một chút càng tốt. Lúc nãy thấy Mai nhìn bộ đồ uống trà, cối xay đá rất lâu, rất thích làm hắn phân vân. Miệng còn nhanh hơn hơn suy nghĩ nói là cho cô tiền mua, nói xong hắn cũng hơi tiếc, nhưng mà không sao.

Mai làm sao lấy tiền a Báo. Ba đứa nhỏ đi xem đủ thứ nhưng không mua gì. Lúc quay lại chỗ Hùng huynh và An ca thì hai người đã bán hết rồi. Bà nội a Báo cũng mua đồ xong, cái giỏ đệm căng phòng đặt phía sau. Xem chương mới tại dienvan.space

– Ta còn định đi tìm các ngươi,

A An đặt túi tiền vào trong ngực áo thấy bọn nhỏ nói. Hai nhà chào nhau rồi đi theo hai hướng về nhàChương 69: Lửa hồng đêm vuiLúc trên ghe, a Phúc huyên thuyên chuyện cung tên, tay vốc nước hù mấy con chim nhỏ ven bờ bay vù lên ngọn cây.

– Con sáo sậu của Tương huynh biết nói chưa?

– Ha ha, nó ẽo ợt líu ríu ‘ li li’, chẳng biết nói gì.

A Phúc cười nhe hàm răng sún nói. Mai đang tuổi thay răng, hai cái răng cửa hơi to rồi, cô đang cầu trời nó đừng to và nhô ra, hu hu. Thời này không có niềng hoặc chỉnh răng được. Cha nương có hàm răng cũng được, mong rằng Mai cũng vậy.

Hai bên bờ Vũng Đông Hồ qua lại nhiều ghe xuồng ngược xuôi dòng, nắng sớm lấp lánh trên mấy rặng dừa nước, bãi lát xanh rì. Nước đang ròng nên có mấy ghe đang chài lưới ven bờ, không biết là mắc lưới hay vẫy cá chiếu sáng nhấp nháy.

Hai cha con nhà gần ngã rẽ vào làng đang thu lưới, ba đứa không vội về nhà nên cập ghe lại gần coi. Cá lóc bông, cá rô, cá chim trắng lớn, đặc biệt có mấy con cá chép vẩy trắng lấp lánh mắc trong lưới. An ca và a Phúc cũng bước qua chiếc ghe đó phụ bắt cá trong lưới. Cá chép này bán có giá lắm, mấy ngày này người dân mua để cúng ông táo ngày hai mươi ba. Cái đυ.c tre rộng trong nước đã gần đầy nên hai cha con giặt lưới chuẩn bị về. Vị thúc thúc bắt mấy con cá cho a An, nhưng hắn từ chối không nhận.

Mải mê bắt cá, cái ghe mắc cạn trong đám lát không quay ra được. A An nhảy xuống nước đẩy ghe, vị thúc thúc cũng kéo giúp tụi nhỏ. Mấy đứa nhỏ cảm ơn rồi chống ghe về. A Phúc cởϊ áσ đu ngoài be xuồng giỡn nước. Hắn đã biết lội nhưng con rạch này hơi sâu nên hắn không dám buông tay. Mai ha ha cười nói nhìn nó giống con cá thòi lòi đu bập dừa.

Ha ha ha, trên sông rộn tiếng đập nước bùm bùm và tiếng cười trẻ thơ lanh lãnh.

Làn nước lập lờ phù sa, êm đềm trôi.

Sáng nay cha dậy từ canh tư, quét dọn xưởng gỗ, sắp xếp gọn gàng. Cha còn phụ nương cùng ngũ cô nấu nước châm trà. Hôm nay cúng tổ nghề mộc, cha khẩn trương hơn ngày thường. Mặc dù cha đã hỏi Bùi ông thợ mộc cách cúng tổ, nhưng vẫn đi tới lui xem có thiếu món gì không.

Cuối giờ Mẹo cha cùng thất thúc, Hân ca, Bình ca dọn mâm cúng tổ. Bùi ông nói quan trọng là thành tâm, ngoài gạo, muối, rượu, hoa quả thì có gà, thịt heo hay cá đều được. Hôm qua nương đã mua một cái đùi heo để quay cúng sáng nay. Mấy đứa con trai ngoại trừ Vĩnh ca đều đốt nhang khấn vái.

Ở nhà dưới đang gói gém đồ cho thất thúc và Hân ca về làng chài. Hôm nay đồ cũng không nhiều, chủ yếu quần áo của hai người và ít gia vị nương mua hôm qua. Lúc cúng xong, cả nhà ăn cơm thì cha nói:

– Ngày hai mươi bốn ta dẫn mấy đứa cùng về đi tảo mộ.

– Đệ nhớ.

– Gà vịt ta cũng mang về, nói nương đừng mua.

Nương dặn theo.

– Nương nhà mình có cá chép cúng ông Táo chưa?

– Chưa.

Mai kể chuyện hôm qua thấy nhà ở gần bãi lát đánh lưới có cá chép lớn.

– Vậy An đi mua đi con, mua cho nhà nội một con luôn đi, lỡ không có phải đi xa. Trên đường đệ xem chừng nó ngộp chết.

Câu sau là nói với thất thúc. Tiễn hai chú cháu về làng chài thì còn mười ngày nữa là giáp năm rồi. Bắt đầu hôm nay Vĩnh ca cũng nghỉ học, không cần đến nhà Đỗ lang y nữa. Nhưng sư ông hẹn về đây trước ngày rằm mà giờ chưa thấy.

Vừa ngưng đóng ghe, cha lại ra ruộng, nhổ cỏ, đắp bờ. Mấy hàng cây thốt nốt trồng dọc theo bờ ruộng được đắp gốc, dọn lá khô sạch sẽ. Nương và Bình ca cũng theo sửa hàng rào bãi chăn vịt, vun luống trồng khoai mỡ, khoai mì. Hai cây này chịu được đất mặn, khô nên cha thử trồng, qua tháng ba là thu hoạch được. Lúc đó bón phân làm đất chuẩn bị mùa sau vẫn kịp.

Ngũ cô và Cúc tỷ ngồi bên cửa sổ may giày. Hôm qua bán được mấy cặp vịt, nương và ngũ cô chọn mua mấy miếng vải vụn về may. Người nông dân quanh năm lội bùn, bước chân ra khỏi nhà là đất bùn nên họ mang giày đan bằng dây gai. Giày vải này để dành đi ăn tiệc, làm khách nhà người ta hay những dịp quan trọng như Lễ, Tết. Đôi khi đi giữa đường gặp mưa, họ cất giày đi chân không vì tiếc đôi giày.

Nắng chiếu qua kẽ lá làm mặt đất như nở hoa, đã bao lâu rồi mình mới có lúc thảnh thơi như bây giờ? Lê Thị Hằng vừa khâu đế giày vừa nghĩ. Từ lúc biết mình lấy chồng về nhà làm muối, mình đã biết cuộc sống sẽ vất vả. Mình nào có ngại vất vả.

Năm đầu tiên vẫn sống hài hoà, chỉ cần nhẫn nhịn nhà chồng mọi chuyện sẽ ổn. Năm thứ hai, năm thứ ba trôi qua mình vẫn không mang thai thì mọi chuyện ngày càng khó chịu đựng. Nhớ những lần bị mắng chửi, nhục mạ chỉ có thể âm thầm khóc, chẳng lẽ mình không muốn mang thai sao? Mình làm sao biết tại sao? Cha nương bị người ta nặng lời, còn tặng bao nhiêu quà lễ cũng không thể giảm bớt khốn khổ. Người vợ sau của hắn cũng không mang thai, vì sao nàng ta vẫn thảnh thơi, ăn no, ngủ kỹ?

Tiếng chửi của a Mai hôm đó là tiếng lòng của mình. Nếu không phải sợ mang tai tiếng làm người trong nhà xấu hổ, em gái và cháu gái không được gả tốt thì sao mình lại chịu đựng mấy năm này.

Nhìn a Cúc chăm chú từng đường kim mũi chỉ, “cô thật xin lỗi cháu, a Cúc”. Tứ tẩu bắt đầu tìm mối để gả a Cúc, mỗi đêm cô đều cầu trời cho cháu tìm được nhà chồng tốt, sanh con trai con gái, cuộc sống hài hoà. – Lê tứ huynh có nhà không?

Có khách đến,

– Cháu ở trong này đi, để cô ra xem.

Ngoài sân có hai người, là hai cha con mang túi vải. Người đàn ông gầy đen, gương mặt phong trần, u uất.

– Xin hỏi huynh tìm ai?

Người đàn ông có vẻ ngạc nhiên, nhìn cô chăm chú. Rồi như biết mình thất lễ, vội chắp tay nói:

– Ta là Lý Trám ở Giá Khê, đến thăm Lê tứ huynh.

– À, mời huynh vào nhà, ta …

– Lý thúc thúc, người khoẻ rồi sao? Tìm cha cháu à?

Mai cùng Vĩnh ca ở sân sau, nghe tiếng hỏi cũng chạy ra xem. Thấy người quen nên lên tiếng chào hỏi.

– Cháu biết vị này sao?

– Dạ phải, ngũ cô. Đây là Lý thúc thúc và Lý Sao, quen biết nhà mình. Đây là ngũ cô cô cháu.

Ba người cùng chào hỏi nhau, ngũ cô quay lại bếp. Mai ra ruộng gọi cha, a Vĩnh thì mời cha con Lý thúc vào bàn uống nước. Cha và Lý thúc hỏi thăm nhau chuyện nhà chuyện cửa. Lý Sao ra ghe ôm hai chậu lớn, An ca cũng chạy ra giúp hắn. Trong hai chậu là mấy tổ ong to, thơm ngọt, nước mật tươm trong tổ.

– Lê huynh thứ lỗi, ta chờ mùa này là mật ngọt nhất mới lấy.

A, là nói chuyện hôm trước nhà Mai ý muốn nhận tổ ong mà không nhận trầm hương. Cha giật mình ngạc nhiên, rồi như nhớ lại chuyện lúc đó vội xua tay nói:

– Trời, đệ không cần để ý vậy, ta làm khó đệ rồi.

– Lê huynh đừng nói vậy, ân nghĩa nhà huynh đệ sẽ ghi nhớ.

– Nói vậy làm gì, khách sáo quá.

Cha giữ hai người ở lại một đêm, vì đi về không kịp trời tối. Bữa cơm chiều bày hai bàn ở sân, có mời nhà Lưu bá qua nên không khí thật náo nhiệt. Cộng lại cũng gần hai chục người.

Ngũ Mi đã nói chuyện rành rẽ, hỏi đủ thứ chuyện, bé còn nhõng nhẽo để Tương huynh mang l*иg hai con sáo đi theo. Nhìn cảnh ngũ Mi dạy con sáo nói mà không khỏi mắc cười, bây giờ mới biết tại sao con sáo nói ngọng như vậy.

Vết sẹo trên tay Lý Sao rất xấu xí. Hắn cũng không thèm che lại làm tứ Mi, ngũ Mi hơi sợ không dám lại gần. Lý Sao vẫn ít nói, ngồi im nghe mọi người nói chuyện, ai hỏi đích danh hắn mới trả lời. Mai thấy trên cổ hắn có sợi dây chuyền mà lần trước không thấy. Không biết mấy tháng nay nhà hắn xoay sở ra sao.

Ăn xong cơm mấy đứa nhỏ mang bảng gỗ ra gần đống lửa chơi trò chơi. Trò chơi này chính là cờ ca-ro ở hiện đại, Mai dùng bảng gỗ đắp đất kẻ ô vuông, dành chơi những lúc buồn chán, mà cũng luyện trí não. Lý Sao lần đầu tiên thấy nên rất hiếu kỳ. Hắn xem mấy đứa nhỏ chơi một lát cũng hiểu ra.

Hai người chơi mà quá chừng người chỉ trỏ thật bực mình, đành mang hết bảng gỗ ra, bắt cặp nhau mà chơi. Tương huynh còn nói ai thua cõng người thắng đi mười vòng quanh đống lửa. Sau đó lại đổi cách phạt, chia hai đội chơi. Một buổi tối vui vẻ, náo nhiệt, mấy người lớn đang uống lai rai nói chuyện cũng chen vào góp lời. May là Lưu bá mẫu cản, nếu không Lưu bá còn muốn chơi chung.

Sáng hôm sau Lý thúc dẫn a Sao đi thăm nhà Nguyễn bá, mang theo bình rượu dán chữ Phúc biếu. Nương và ngũ cô soạn gạp nếp, gạo tẻ, khoai, đậu, trứng gà, dầu, đường xếp lên ghe cho Lý thúc. Xem ra ngũ cô đã hỏi thăm hoàn cảnh nhà thúc ấy nên đối với a Sao rất thương tiếc. Lý thúc không từ chối được đành nhận tặng lễ, mời cha đi ngang qua Giá Khê ghé thăm ông.Quyển sách đầu tiênSáng ngày hai mươi ba, đưa ông táo về trời sư ông mới về. Vĩnh ca thấy có khói bếp từ tịnh xá chạy đi xem mới hay sư ông vừa về.

Nương cúng ông táo sau giờ mẹo, thả con cá chép xuống con rạch trước nhà, nó vẫy đuôi xuôi dòng ra Vũng Đông Hồ. Sau ngày đưa ông táo, không khí Tết càng rõ, người trong làng quét dọn nhà cửa, đàn ông đi tảo mộ ông bà tổ tiên. Đàn bà bắt đầu chuẩn bị gói bánh trái, làm mứt, làm kẹo vừa cúng ông bà vừa đãi khách.

Ngày hai mươi bốn tháng chạp ba nhà hẹn nhau cùng về làng chài. Đàn ông con trai đều phải đi, đàn bà con gái thì để lại một hai người trông nhà. Bàn tính một hồi thì Cúc tỷ và Mai ở lại nhà, nương và ngũ cô về còn giúp nấu nướng, dọn dẹp nhà nội. Mai và Cúc tỷ thì không thể chỉ có một người ở lại được, nên cả hai ở lại là tốt nhất. Nhà Lưu bá là tam Mi, tứ Mi. Nhà Lưu tam bá đương nhiên là a Ngọc và a Trân.

Mấy cặp gà, vịt bị trói chân kêu quàng quạt trên ghe, xôn xao một lát thì ba chiếc ghe thẳng hướng làng chài.

Hai chị em Mai ở nhà rãnh rỗi ngồi bên cửa sổ nói chuyện. Cúc tỷ vẫn chăm chú may giày, Mai đang loay hoay với mấy cái chén, chày gỗ và muối, đường, dầu dừa, lá dừa nước,.. Mai đang muốn làm kem đánh răng và xà bông để rửa tay, tắm rửa. Ở đây mọi người đều dùng muối đánh răng, muối rất tốt cho răng nhưng mặn và không đủ là sạch răng.

Mai chỉ nhớ mang máng vài thành phần trong kem đánh răng ở hiện đại. Có thể làm kem đánh răng từ muối biển, dầu dừa, tinh dầu, bột nở. Không tìm ra bột này, tinh dầu tạo mùi hương cô cũng chưa biết nên dùng loại nào cũng đành gác lại.

Dùng chày gỗ giả nhuyễn muối ăn, đổ ra chén, cho vài giọt dầu dừa vào, trộn đều để qua một bên. Mai dùng kim đυ.c lỗ qua miếng vỏ cây được cắt thành hình chữ nhật được bo tròn các góc, xỏ gân lá dừa qua. Mai đan gân dừa lại để chúng không gãy. Sau đó cô may lên que tre làm thành bàn chải.

Mai làm thử hai loại, cái đầu dùng gân lá, cái sau dùng xơ dừa, lúc dùng thử thì xơ dừa mềm quá, gân lá thì dễ gãy, hơi đau ở nướu răng.

– Muội không thích xài vỏ cau hả?

– Vỏ cau chỉ đánh sạch phía ngoài răng.

Cần tìm vật liệu khác làm lông chải, a người ta dùng lông đuôi bò thì phải. Ở Cần Vọt và Lũng Thơm có nuôi bò, mình để ý xin hoặc mua xem sao. Đến buổi trưa hai chị em không nấu cơm mà ăn trái cây, bánh mứt linh tinh.

Đem cất hai bàn chải và chén kem đánh răng lên kệ, Mai xuống bếp cắt nhỏ hai khối sáp ong. Cô nấu chảy cách thuỷ, vớt các miếng cặn ra xong đổ chúng vào cái chén mẻ đã có sợi vải được bện bên trong. Mai đang làm đèn cầy sáp ong, còn thiếu tinh dầu, không sao vẫn dùng được. Sáp ong toả ra mùi hương ngọt ngào, làm tinh thần phấn chấn. Hai tổ ong nấu được năm chén đèn cầy. Đèn này chỉ dùng đốt trong phòng kín gió, cô đã nghĩ ra cách làm l*иg đèn bằng gỗ hoặc gốm nung, nếu làm từ vải thì hơi mắc tiền.

Một ngày trôi qua yên ả, mặt trời gần lặn thì hai chị em mới nấu cơm chờ mọi người về ăn, múc nước đầy lu, cho gà vịt ăn. Lứa vịt đầu tiên hơn ba mươi con đã biếu và bán hết. Lứa thứ hai mới thay lông cánh, lông măng ép sát vào thân nhìn rất buồn cười. Đàn gà cũng còn lại hơn mười con bà ngoại cho sau này và bốn mươi con nhỏ mua từ a Báo. Vài ngày nữa trứng gà đang ấp sẽ nở lứa mới.

Lúc cả nhà về thì trời đã tối được một lúc, Mai đốt đống lửa to ở giữa sân, vùi mấy củ khoai lang vào nướng. Mai nghĩ lần này đi tảo mộ sẽ rất vui, nhưng gương mặt cha nương có vẻ lo nghĩ, liếc nhìn qua ngũ cô mắt đỏ hoe, có chuyện gì sao?

Trong bếp chỉ có mấy người, nương nhỏ giọng nói:

– Muội đừng nghĩ nhiều, ông trời có mắt, người ở hiền gặp lành.

Cúc tỷ và Mai liếc nhau, không hiểu gì cả, đành phải hỏi chuyện sau.

Nguyễn bá đến nhà mời cha nương qua phụ làm heo, bá ấy sẽ bán ở chợ phiên cuối cùng của năm. Nguyễn gia nuôi ba con heo thịt và một con heo nái. Nghe nói con heo nái này đẻ sáu bảy con mỗi năm, nhà bá ấy chia một con cho người chủ heo giống, bán cho nhà nương a Tùng hai con, còn lại tự mình nuôi. Bởi vậy nhà Mai dù muốn nuôi cũng không thể mở miệng hỏi mua heo con được.

Hôm nay Vĩnh ca và Mai mang ít rau, trái và nhang qua cúng dường tịnh xá, cũng báo sư ông là nương sẽ gói bánh Tét nhân ngọt cúng ngày ba mươi. Mai vẫn còn nhớ lời sư ông nói muốn mang đồ tốt về cho mình nên trong lòng không khỏi mong đợi.

Mấy tháng nay cô làm quen với cuộc sống mới của nhà nông, mọi việc cũng không tệ. Nhưng việc thiếu phương tiện giải trí và cảm giác mình ‘mù chữ’ làm cô khó chấp nhận nhất.

Mấy chữ Đỗ lang y dạy a Vĩnh cô đều cố gắng học, nhưng chưa đủ để viết, diễn tả cuộc sống xung quanh. Hơn nữa chưa đọc quyển sách nào nên không biết cách người ta diễn đạt ra sao, ngữ pháp rồi cấu trúc câu từ có khác hay không?

Hai đứa nhóc kia hôm nay không đến, chắc là được nghỉ Tết ở nhà rồi. Sư ông đang lau chùi cái lư hương bằng đồng, ông lấy xơ dừa chấm vào chén nước màu nâu được ngâm ra từ vỏ cây chà mạnh bên ngoài lư hương. Hai đứa nhỏ khoanh tay thưa, a Vĩnh đi lấy chậu nước còn Mai mang rổ rau vào đặt trong bếp. Cô thuật lại lời nương dặn.

– Được, ta biết rồi.

Đường đi Nam Vang chắc vất vả, sư ông gầy và đen hơn, hàng chân mày đậm càng lộ rõ trên đôi mắt sâu. Đàn ông ở đây tuổi lớn như ông nội, ông ngoại hay Đỗ lang y đều để râu, Chỉ có sư ông thì không có râu làm Mai thấy quen thuộc hơn, giống nhiều người lớn tuổi ở hiện đại.

– Cháu giặt bộ sa y này được không? Mai chỉ vào chậu nước đang ngâm y phục của sư ông, gọi là sa y.

– Chưa được đâu, ta mới ngâm nước nhuộm, để đó ngày mai ta giặt.

Nghe nương nói cách nhuộm vải bằng vỏ cây này là của người Chân Lạp truyền lại. Đặc biệt khi nhuộm sa y phải tuân theo trình tự nhất định để màu vàng đúng theo sắc áo của đức Phật, không lẫn sang màu khác, không phạm vào huý kỵ của triều đình (dân gian không được dùng màu vàng của Hoàng tộc).

Trong lúc chờ sư ông chùi xong lư hương, Mai ra vườn tướt bỏ lá già cho mấy cây thuốc. Ở góc vườn có một cây cao hơn đầu Mai, lá đã bị tướt hết, chỉ còn trơ thân cành khẳng khiu.

‘Đinh’, cây mai vàng, đúng rồi!

Sao trước đây Mai không thấy nó?

Mai hớn hở nhìn ngắm, đưa tay sờ nhẹ trên cành to ngang vai. Vài ngày nữa những chồi hoa sẽ đâm cành, nở ra hoa mai vàng rực rỡ. Nếu có nó thì tốt biết mấy, cảm giác như những ngày Tết trước đây, cũng làm vơi đi cảm giác xa lạ.

Hôm trước đi chợ, Mai bóng gió hỏi vị thúc thúc bán hàng Tết về pháo. Thúc ấy ngạc nhiên nói pháo rất mắc tiền, chỉ có những nhà giàu ở kinh thành, quan lại, hoàng tộc mới dám đốt dịp Tết.

– Đó là hoàng mai, ta mới tuốt lá sáng sớm, sợ là năm nay ra hoa trễ. Lúc đó con đến đây xem, hoa nó không hương nhưng rất đẹp.

– Dạ,

Mai đáp nhỏ, cô chưa kịp hỏi làm sao có cây con để xin về nhà trồng thì sư ông đã nói:

– Sân bên kia ta đã gieo được mấy cây con, còn có tứ quý mai và bạch mai nữa. Đến đầu mùa mưa ta sẽ cho con vài cây mang về nhà trồng. Chăm sóc chúng nó không tốn công nhiều nhưng phải nhiều năm mới ra hoa.

– Dạ

Mai nhìn hướng ông chỉ, sân trước gian thờ là mấy hàng cây được trồng ngay ngắn. À, chỗ đó là trước gian thờ chính điện của tịnh xá nên Mai ít đến xem. Thời bây giờ kiêng kỵ không cho đàn bà con gái ở những nơi thờ cúng linh thiêng. Giống như việc đi tảo mộ tổ tiên hôm trước, chỉ có con cháu trai được đốt nhang, đắp mộ. Chính điều này làm người ta xem nhẹ nữ giới.

– Vào đây,

Hai đứa nghe sư ông gọi thì đi vào phòng nhỏ tiếp khách. Sư ông lấy từ trong cái kệ gỗ ra gói vải. Cái kệ này là Mai kêu Bình ca đóng riêng cho sư ông dùng, rất tiện lợi, không tốn nhiều diện tích mà từ trên xuống dưới đều phân chia các ngăn chứa đồ.

Trong túi vải là hai quyển sách nhỏ hơi cũ. Mai hít một hơi kềm lại niềm vui trong lòng. Nhưng cô cũng không thể ngăn ánh mắt sáng lấp lánh, khoé môi nhếch lên.

Sư ông nhìn hai đứa trẻ chăm chú nhìn sách. Không uổng công ông lặn lội đường xa tìm sư đệ nhờ vả, chờ mấy ngày để mang về hai quyển sách quý này về.

– Quyển này là chữ mẫu, các con làm thành bộ chữ gỗ giống như nhà con, rồi trả lại ta. Quyển này là Tam tự kinh, dùng để học vỡ lòng.

Mai nhận quyển chữ mẫu, mở ra xem trang đầu, từng nét được viết cẩn thận, rõ ràng, vuông vắn. Cô chỉ nhận biết vài chữ trong đó.

– Ta chưa biết hết các chữ trong này, hai con hỏi thêm Đỗ lang y. Đợi sang năm ta sẽ xin Dương thí chủ mời thầy về dạy. Nhà con làm giúp ta bảng chữ trước, sau này dùng.

– Dạ.

Mai đương nhiên vui vẻ nhận lời. Cô ôm hai quyển sách trong lòng muốn nhanh chóng về nhà.Chương 71: Chợ Sông Lớn ngày TếtThông thường người thợ mộc sau khi cúng tổ ngày hai mười tháng chạp sẽ nghỉ đến qua rằm tháng giêng mới cúng đầu năm mở lại đồ nghề ra làm. Mai mang hai quyển sách về thuật lại ý sư ông làm cha phân vân. Cha đi nhanh đến nhà Bùi ông rồi quay về dặn nương soạn lễ cúng.

Buổi chiều, không chỉ Bùi ông mà Dương ông, Đỗ lang y và Nguyễn bá cũng đến. Người lớn trong làng rất xem trọng chuyện này. Nếu làng họ mời được thầy dạy chữ về thì quý biết bao nhiêu.

– Qua năm ta sẽ đi một chuyến đến Trấn Giang, Trấn Biên tìm mời người về. Việc này cũng tạ ơn sư ông đã nghĩ đến.

– Phải, phải.

Nói chuyện một lát thì đến giờ lành. Bùi ông và cha lâm râm khấn vái, mang đồ nghề ra dùng. Nhà Mai lại vang lên tiếng cưa xẻ gỗ. Bùi ông và Đỗ lang y xem mấy miếng gỗ Mai đang treo ở vách nhà. Trước đây Đỗ lang y viết chữ mẫu cho mấy đứa nhỏ học không nghĩ là cách này hiệu quả. Giờ thấy một hàng bảng được treo, có đánh số, mặt sau còn có chữ tương tự, hoặc hình vẽ giải thích. Mai làm theo kiểu thẻ học chữ Hán ở hiện đại, tốn công một lần nhưng nhiều người học rất thuận lợi.

Lúc trước dì dượng hẹn sẽ đến trước Tết để lấy đường, dầu bán dịp Tết. Nhưng bận rộn buôn bán ở Trấn Giang không đến được, nhắn người trong chợ báo về.

Chiều nay cha nương dẫn theo a Phúc đi nhà Nguyễn bá giúp làm heo. Khuya mai nhà Mai đi chợ Sông Lớn bán hàng trong phiên chợ cuối của năm. Mấy đứa nhỏ đều muốn đi xem chợ Tết, nên cha ở lại trông nhà. Một chiếc ghe không chở hết, nhà Lưu bá cũng vừa đủ chở người, Nguyễn bá cho ba đứa nhỏ a An, a Vĩnh và Mai đi chung. Nhà bá ấy chở mấy trăm cân thịt heo nên cần dùng hai ghe, dư chỗ cho ba đứa nhỏ.

Ở nhà tất bật chuẩn bị gói ghém đồ đạc cho buổi chợ ngày mai. Bình ca lo làm bảng gỗ sơn chữ mẫu. Mai chạy ra chạy vào lật trở mứt dừa, mứt gừng ngũ cô vừa sên xong. Mứt này là món khoái khẩu của mấy đứa nhỏ, có thể để dành đến ra giêng vẫn ăn được.

Gương mặt ngũ cô không vui vẻ khi nhắc đến chuyện đi chợ ngày mai. Lúc đầu cô còn không muốn đi mà ở nhà. mọi người phải nói tới lui. Lúc cha nói ngũ cô đi chợ phụ nương bán, cha sẽ ở nhà thì cô mới miễn cưỡng gật đầu.

Mai qua xưởng hỏi a Bình, ca im lặng hồi lâu mới kể đại khái chuyện xảy ra. Ngày về nhà nội tảo mộ, nhiều người ở làng chài hỏi thăm chuyện ngũ cô. Họ đến thăm, hỏi chuyện rồi bàn tán đủ thứ. Ngũ cô luôn tránh mặt trong buồng, bà nội khó chịu nhưng không thể đuổi khách.

Chuyện này sẽ xảy ra, người ta cứ thích bàn tán chuyện của người khác. Bản thân ngũ cô phải đối mặt, chuyện này sẽ tiếp diễn một thời gian nữa, đợi có chuyện mới thì họ sẽ dần quên thôi.

Đêm tháng chạp trời trong, gió biển thổi nhè nhẹ, xào xạc rặng dừa nước ven sông. Tiếng côn trùng u u, i i không dứt. Đống lửa nhà Nguyễn bá sáng rực, văng vẳng tiếng nói cười vọng lại.

Gà gáy canh tư, ánh trăng nằm nghiêng dịu dàng phía bìa rừng. Không khí có hơi sương lành lạnh thật dễ chịu. Người trong nhà đã thức dậy, a Phúc còn mê ngủ, híp mắt rửa mặt. Nương quấn thêm cái khăn và áo ngoài dài tay cho nhóc. An ca, Vĩnh ca và Mai được Bình ca chống ghe đưa đến chỗ đậu ghe nhà Nguyễn bá trước.

Nguyễn gia cũng đang tất bật khiêng thịt heo xuống ghe. Mai ôm bình nước mật ong pha nước nóng ủ trong vỏ dừa khô đứng bên cạnh. A An, a Vĩnh phụ một tay giúp chuyển đồ.

Những nhà xung quanh cũng leo loét ánh đèn, nhà nào cũng muốn đến chợ phiên hôm nay. Trời còn tối mà không khí rộn lên tiếng người nói, tiếng mái chèo khua nước. Nhà Nguyễn bá có sáu người đi chợ, ngoài Nguyễn bá, bá mẫu còn có Tùng ca, Hoà tỷ năm nay mười ba tuổi, a Hảo tám tuổi và Nguyễn thúc. Thúc ấy là đệ đệ nhỏ nhất của Nguyễn bá. Thúc ấy năm nay đã gần ba mươi, có hai con gái sinh đôi năm tuổi và một con trai hơn một tuổi.

Mai chưa đến nhà Nguyễn bá, nghe nói nhà rất lớn, được bố cục chữ Đinh theo cách quan lại. Nguyễn ông có vợ cả và một thϊếp. Trên Nguyễn bá có một người anh đang sống ở Chánh Dinh (Phú Xuân – Huế ngày nay) cùng dòng chính. Nguyễn gia có người làm quan lại ở Chánh Dinh, cha luôn khen Nguyễn bá sống rất tốt với người trong làng, không hách dịch như những nhà quan lại khác.

Nguyễn bá và bá mẫu chèo một chiếc ghe đầu chở đầy thịt, Hoà tỷ và a Hảo ngồi cùng. Chiếc thứ hai do Nguyễn thúc và Tùng ca chèo, ba đứa nhỏ ngồi bên này. Lúc ghe ra ngã ba gặp ghe do nương và Bình ca chèo đang thả mái chèo chờ. Mọi người vui vẻ chào nhau rồi cùng tiến về chợ Sông Lớn. Mấy đứa nhỏ sợ lạnh, cộng với còn muốn ngủ nên lui vào trong mui kín gió nằm ngủ.

Mai chợp mắt một lát thì giật mình nghe tiếng người cười nói phía trước. Trời đã mờ sáng, xuồng đã ra sắp đến đoạn ra cửa sông lớn. Mai lấy chén rót nước ấm mang cho Nguyễn bá, lần lượt mọi người cùng uống. Bá mẫu nhìn vỏ trái dừa khô hỏi:

– Cái này giữ ấm được sao?

– Dạ, được.

Cái này là Mai nói thất thúc lúc lột dừa khô làm dầu chọn trái lớn giữ lại nguyên vỏ, nhét bình nước nóng vào, đậy nắm sẽ giữ nước ấm lâu hơn để bên ngoài. Nước mật ong pha gừng uống rất tốt nhưng nước phải ấm mới ngon, để lạnh hơi khó uống. Từ ngày có ấm vỏ dừa này, mỗi sáng Cúc tỷ pha bình nước lớn, để uống cả ngày, có khách đến cũng tiện.

Hoà tỷ và a Hảo tò mò nhìn ấm vỏ dừa, Mai mỉm cười đưa hai đứa xem. Ghe bên kia Cúc tỷ cũng có một bình, đang rót cho nương, ngũ cô.

Mùa mưa vừa dứt nên nước sông vẫn cao, mặt nước mênh mông tràn vào mảng rừng đước ven sông. Sương sớm lãng đãng vờn trên ngọn cây, nhỏ giọt trên lá. Ghe xuồng chở khẳm tiến ra vùng sông rộng. Nguyễn thúc chăm chú chèo chống nương theo luồng nước, vượt lên dẫn đầu. Hai ghe kia theo rẽ nước của ghe trước mà tiến tới.

Qua khỏi đoạn sông rẽ, ngũ cô và Cúc tỷ thay tay chèo. A Phúc cũng tỉnh ngủ ra ngồi cạnh be xuồng.

– Sang sông, sang sông.

Tiếng ngọng nghịu của con sáo sậu, ghe phía trước là nhà Lưu bá.

– Nó biết hò nữa đó.

A Phúc vui vẻ ‘khoe tài’ của con sáo. Hoà tỷ và a Hảo mới biết con sáo, không khỏi tò mò nhìn chăm chú hai con sáo nhảy nhót trong l*иg.

– Hò đi, hò đi.

A Phúc uổng công khích lệ, hai con sáo không thèm nghe lời hắn, chỉ ‘híu hĩu hiu’ theo ngôn ngữ của nó. Tương huynh thấy hắn ỉu xìu bĩu môi, bèn cất giọng hò:

– Hò …. ơ…… hò, Hai con sáo nhỏ ngẩng đầu lắng nghe rồi hếch mỏ kêu: hó … hó, làm mọi người bật cười vang. Mấy đứa nhỏ vỗ tay vui vẻ. Tương huynh thảy vào chén treo trong l*иg mấy hạt lúa vàng. Ngũ Mi bò trong lòng xuồng đến gần cái l*иg vỗ tay cười khách khách.

A Hảo nhìn về phía Nguyễn bá mẫu nói:

– Nương, con muốn con sáo.

– Ừ, để ca con bắt cho, nhưng phải dạy rất lâu nó mới biết nói.

Nguyễn bá mẫu nhìn con trai nhỏ say mê con sáo cũng đành chiều theo. Con nít đứa nào chẳng thích mấy cái này.

Vầng mây ửng hồng phía đông báo hiệu một ngày nắng dài. Gần đến chợ thì ghe xuồng càng nhiều, nối đuôi nhau vào bến đậu. Mấy ghe đi chung đều chậm lại nhường ghe Nguyễn bá vào trước. Đoàn người lớn, con nít vui vẻ, hối hả vào chợ.

Chợ đã đông người, khoảng cây lúc trước đã bị chặt bỏ, thêm một khoảng lớn làm chợ. Mấy sạp đồ gồm, lúa gạo là lớn nhất, có mái che lợp lá mới còn tươi nguyên. Ngày thường người nông dân tiết kiệm, ít khi mua sắm ngoài những thứ thật sự cần thiết. Thức ăn hàng ngày đều là cây trong nhà, rau trong vườn. Chỉ vào những ngày năm hết Tết đến như vầy họ mới cố gắng sắm sửa trong nhà, mua thức ăn ngon cúng tổ tiên ông bà, trời đất và cả quỷ thần.

Hôm nay có người lớn trong nhà đi bán hàng, mấy đứa nhỏ được dạo chơi thoả thích. Mai nắm tay a Phúc, tứ Mi ôm ngũ Mi cùng nhau đi xem các sạp bán đồ Tết. Bên này là sạp nhỏ bán đèn l*иg vải, đèn bằng đất hình búp sen, hình chuông. Bên kia là những câu đối treo sắc đỏ rực rỡ. Có mấy thanh pháo đại được quấn giấy đỏ, chữ hỉ, chữ phúc.

Phía trong nghe tiếng trống chát, thùng vang vang. Một đám đứa nhỏ đứng vòng quanh một nhà hai lớn một nhỏ vừa đánh trống vừa múa võ rất điệu nghệ. Người đàn ông mặc quần đen, áo đỏ sậm đai lưng xanh, cổ áo có tai bèo rộng phủ hết vai. Ông cầm côn múa nhanh chậm theo nhịp trống của người thiếu niên.

Mai nhìn vào cái thùng gỗ cao do cô – cậu đứng bán. Gọi là cô- cậu vì đứa bé đó cỡ tuổi Mai, nhìn gương mặt là con gái nhưng lại mặc quần áo của con trai. Mái tóc dài vấn cao, dùng khăn nâu quấn lại rất gọn gàng. Nếu không phải Mai đã ‘lớn tuổi’ cũng từng nghe thấy chuyện nữ giả nam thì chắc không nhanh phát hiện chuyện giả trang này. Trên thùng gỗ có những gói nhỏ và mấy cuộn tranh vẽ, câu chữ giống như câu đối chúc Tết.

– Kỹ Mão tân niên, Tân niên tân phúc tân phú quý.

Tấn tài tấn lộc tấn vinh hoa

Mời quý vị đến chọn, đến chọn!

Tổ tông công đức thiên niên thịnh

Tử hiếu tôn hiền vạn đại xương.

Vừa nói ông vừa cầm những câu đối lên, đưa mọi người xem. Giọng ông không thuần Việt, rất dễ nhận ra gốc gác là người Tàu. Chỉ là Mai không biết ở Quảng Đông, Triều Châu hay xứ khác.. Trong thùng gỗ còn có mấy cái trống nhỏ thân sơn đỏ rất đẹp. Mấy đứa nhỏ đâu có hiểu câu đối gì, mắt say mê nhìn cái trống nhỏ, có đứa đã kéo tay người lớn đòi mua.

– Mười lăm văn một cái, trống đỏ nhỏ, chát chát thùng, chúc tân niên, vạn sự thông.

Vị bá bá này đúng là ‘mở miệng thành thơ’. Mai nhìn a Phúc há to miệng xem thúc ấy lấy cái thanh gỗ nhỏ gõ lên mặt trống theo nhịp đọc thơ.

Tiền bán gà hôm trước còn lại hơn bốn mươi văn, Mai gọi là ‘tiền quỹ’ do An ca giữ. Mấy đứa nhỏ đều chưa dám mua cái gì, bây giờ mua cho a Phúc cái này cũng không phải lãng phí. Mai nói nhỏ trong tai a Phúc, hắn vui vẻ gật đầu chạy đi. An ca, Vĩnh ca cùng quay lại.

– Cháu xem cái trống được không?

– A, được cháu xem đi.

Có người hỏi xem là mở đầu tốt rồi. Người thiếu niên nhanh chóng đưa hai ba cái trống từ trong thùng cho An ca. Bốn anh em xem qua lại rồi chọn một cái.

– Cháu mua cái này, có luôn hai cái đũa phải không?

– Đương nhiên rồi, đa tạ. Ta sẽ biểu diễn một hồi côn cháu xem.

Vị bá bá vui vẻ chắp tay nói, rồi ra giữa vòng tròn bắt đầu múa. Mai chỉ a Phúc bắt chước vị thiếu niên gõ theo nhịp, nhóc hưng phấn gõ loạn xạ. Kết thúc bài múa là tiếng vỗ tay hoan hô.

– Cháu mua một cái, bá cũng múa côn cháu xem chứ?

Đứa nhỏ đứng bên kia kêu lên.

– Đương nhiên, đương nhiên, đa tạ.

Qua mấy lượt xem múa võ, Mai kéo cả đám đi chỗ khác xem tiếp. Ra khỏi đám đông, ngũ Mi cũng muốn thử đánh trống, a Phúc ở bên cạnh chỉ bé. Hắn rất hồi hộp sợ bé chọt cây đũa làm rách mặt trống.Chương 72: Tiểu thơ nhà Từ phú hộLúc đi ngang qua sạp bán bánh mứt, mấy đứa nhóc cũng bắt chước người lớn bốc ăn thử mấy loại mứt bày trên mâm nhỏ. Nào là mứt thèo lèo cứt chuột (1), mứt dừa, mứt gừng, mứt nghệ, hạt sen. Mấy loại mứt này làm từ đường trắng, không phải đường thốt nốt như nhà Mai dùng, nên nhìn rất đẹp mắt, vừa trắng vừa thơm. Mứt dừa còn được làm ra màu xanh lá dứa, màu hồng trái gấc. Mấy người lớn đều ghé ngang mua một ít về cúng tổ tiên, còn mứt nhà mình làm thì để trong nhà ăn.

Đông nhất là sạp bán trầu cau, rượu trà. Quày cau xanh mướt treo quanh cột sạp. Trên mâm là cau được tách từng nhánh, lá trầu xếp ngay ngắn xoay hình tròn trong thúng. Còn có rổ tre nhỏ xếp từng miếng trầu đã được têm sẵn sáu miếng, mười hai hoặc mười sáu miếng. Người ở đây ít khi dùng trà để uống trong sinh hoạt ngày thường mà chỉ dùng trong lễ cúng hoặc trong chùa, am để cúng Phật. Rượu được bán đủ loại, rượu gạo, rượu nếp, nếp than; bình to, bình nhỏ đủ kiểu.

Cách đó hai sạp là vợ chồng thím Bô Pha. Người Chân Lạp đón năm mới theo Phật lịch nên năm mới của họ vào khoảng tháng tư Âm lịch. Cũng là thời điểm giao mùa giữa mùa khô và mùa mưa. Lúc người Việt, người Hoa rộn ràng đón Tết thì họ cũng bận rộn làm đồ gốm, đẽo đá, may thêu, dệt vải để bán. Đây là dịp họ ‘dễ’ bán hàng nhất.

Sạp của thím Bô Pha bày đủ các đồ dùng gỗ từ chày cối, gáo múc nước đến tráp, lược, trâm cài tóc. Hôm nay thím còn bán thêm đồ dùng bằng đá nữa. An ca vui vẻ chào thím ấy. Hai nhà thường cùng về trên đường nên quen thân. Thấy Mai nhìn mấy cái cối đá, thím ấy nói:

– Đệ đệ ta làm, hắn khiêng một cái xuống ghe cho người ta, một chút trở lại.

– Dạ, thúc ấy ở gần nhà thím sao?

– Cách nhà ta hai khắc, gần thạch động.

Mai thật sự muốn mua cái cối đá, sẽ đỡ nhiều công khi làm bánh. Hơn nữa cô muốn thử làm bún gạo, miến khoai lang hay bánh khoai mì. Trước để trong nhà ăn, sau là thử nhờ dì dượng năm bán đi các chợ xung quanh.

– Ca, mình xin nương tiền mua cái cối đá được không? Có nó làm nhân bánh ngon hơn.

Mai xoay lại hỏi An ca, cô chưa dám nói về bún gạo hay bún miếng.

Chào thím Bô Pha xong mấy đứa đi về phía sạp nhà mình. Nhà Mai bán gần xong, nương dặn mấy đứa coi hàng, rồi kéo ngũ cô đi các sạp mua đồ Tết. Lưu bá mẫu cũng giao sạp cho tam Mi, tứ Mi đi theo hai người. Haiz, đàn bà con gái thời nào đi ‘shopping’ cũng thích đi thành nhóm, vậy mới thành ‘cái chợ’.

Người lớn đi rồi, Mai mới nói lại chuyện cái cối đá. Giá nó mắc quá nên mấy đứa nhỏ đều không dám xin mua. Mấy nhà khá giả trong làng đều có cối đá. Nhà nào muốn làm bánh đều có thể đến mượn xài, nhưng nhà mình có đương nhiên tiện lợi hơn. Mai liếc a Cúc rất nhanh rồi ậm ừ nói:

– Tỷ, hay là tỷ xin nương đi. Nếu tỷ nói tỷ muốn học làm bánh để … để sau này à,.. à không bị nhà người ta chê chắc nương sẽ mua.

– Cái gì?

A Cúc lúc đầu không hiểu, rồi à ra, vươn tay nhéo lỗ tai Mai nói:

– Muội dám … dám,

Mai né ra sau lưng Bình ca trốn. Tỷ ấy dám dám vài tiếng cũng không nói hết câu. A Phúc không hiểu vỗ tay nói:

– Tỷ xin nương đi, nương sẽ cho mà, đi … đi.

– A Phúc, đệ dẫn tỷ đi tìm nương đi, đệ xin ngũ cô nữa mới được.

– Được.

Cuối cùng giao nhiệm vụ này cho hai người đó đi. Mấy đứa ở lại sạp vừa bán đồ vừa xem người ta mua bán xung quanh. Xéo góc bên kia là nhà Nguyễn bá. Thịt heo là món mà nhà nào cũng muốn mua để làm mâm cơm cúng Tết nên bên đó luôn có khách. Nhà Lưu bá và nhà Mai cũng đã mua rồi, hai gói thịt đặt trong rổ phía trong sạp.

Qua giờ tỵ thì chợ bắt đầu vãn. Dù là ngày giáp năm hay đầu năm thì người nông dân vẫn ‘ưu tiên’ cho ruộng đồng. Có đi chợ sắm Tết cũng không thể đi cả ngày để lỡ việc ở nhà.

– A Mai, nhìn kìa, là thϊếp mới của phú hộ đó. Người đi trước mặc áo lụa xanh là tiểu thơ nhà họ.

Tứ Mi khẽ kéo áo Mai nói nhỏ.

– Thật? Sao muội biết?

– Lúc nãy họ vô chợ, tam bá mẫu chỉ cho nương biết.

Trong nhóm người đang đi ra bến có một vị tiểu thơ mặc áo dài quá gối, lớp áo trong màu trắng, lớp áo ngoài xanh nhạt. Váy hơi xoè màu xanh đậm dài đến mắt cá chân. Lúc bước đi chỉ thấp thoáng thấy đôi giày vải xanh trắng. Cổ áo chéo bên phải và tay áo rộng đều có viền trắng thêu hoa xanh. Mái tóc được vấn và cài trâm hơi lệch, còn lại xoã dài ngang lưng.

Ngoài hai cây trâm bạc tinh xảo trên đầu còn có đôi bông tai hình lá rất đẹp. Gương mặt vị tiểu thơ này hơi nhỏ, thon gầy, nước da trắng rất ưa nhìn. Lần đầu tiên Mai thấy một vị ‘tiểu thơ’ thực. Nhìn cách ăn mặc rất cách biệt với những nông dân áo vải thô, giày sợi gai đang buôn bán xung quanh.

Theo sau Từ tiểu thơ là một thiếu phụ tuổi chỉ lớn hơn một chút nhưng nhìn cách tóc được bới lên sau đỉnh đầu liền biết là thiếu phụ. Tuy rằng thiếu phụ ăn mặc không đẹp, không có trang sức như Từ tiểu thơ nhưng cũng khác hẳn so với các phụ nhân xung quanh. Khác biệt lớn nhất là làn da trắng của người không ‘dầm mưa dãi nắng’ và ánh mắt nhìn thẳng đường đi, không liếc ngang dọc nhìn người xung quanh. Giống như cảnh chợ Tết náo nhiệt rất quen thuộc hoặc không đáng để người ta nhìn.

Theo sau là một người Mai biết trước đây. Là vị tẩu tẩu mua đường nhà Mai lúc trước và một thanh niên chắc là chồng – cháu trai bá mẫu bán chiếu trong chợ làng. Hai người đi sau đều xách giỏ đầy các món đồ bên trong. Chiếc ghe nhà phú hộ thật lớn. Đây là loại ghe dùng đi biển với thành ghe cao, mũi ghe vươn lên, thuôn nhọn. Mui ghe làm hai mái dốc như mái nhà. Bề rộng mui cỡ đáy ghe, vẫn chừa lại một khoảng hẹp để người ở hai đầu qua lại mà không phải đi vào trong.

Dù trời chưa nắng gắt nhưng vị tiểu thơ và thiếu phụ vẫn chui vào trong mui buông màn xuống. Sau đó màn cửa sổ bên thành ghe được vén lên, khuất tầm nhìn của mọi người.

Trên đường đi chợ về, Mai lại bị Cúc tỷ nhéo hai bên lỗ tai đau điếng. Cô vội vàng nhảy qua ghe Nguyễn thúc trốn. Đứa nhỏ hai nhà cười khanh khách, chỉ có người lớn và nhà Nguyễn bá không hiểu chuyện gì lên tiếng can ngăn. A Phúc và a Hảo mỗi đứa cầm cái trống gõ vang vang trên sông đến nỗi điếc tai bị la mấy chập mới đem cất trong giỏ.

Về đến nhà Mai vẫn lãng tránh xa a Cúc. Cô kéo Bình ca chạy thẳng vào xưởng gỗ nơi cha đang cắt mấy bảng chữ.

– Cha, nhị ca. Chiếc xuồng năm lá mình sửa lại phần mũi.

Mai kể lại chuyện lúc sáng nhìn thấy mũi ghe nhà phú hộ. Mũi ghe nhà mình làm cần thuôn dài hơn, cao hơn nữa sẽ lướt nước tốt, chèo nhẹ hơn và cũng không sợ sóng to sông lớn. Ba cha con đang vẽ vẽ, tính tính xem cắt ván be, ván đáy làm sao thì nghe tiếng a Phúc khóc ở sân sau.

Mấy người trong nhà chạy ra xem, thấy nhóc đứng trong chuồng gà oa oa khóc lớn.

– Sao vậy con, bị làm sao?

– Gà của con, mất ba con. Oa oa, là con gì ăn mất rồi!

Cha nghe xong, bước vào trong chuồng, rồi đi dò theo vết ra ngoài. Cả nhà thấy vậy cũng bước theo nhìn. Có dấu chân và vết bò từ chuồng gà ra ngoài bờ ruộng, băng qua con rạch cạn rồi kéo dài về phía bìa rừng.

– Là kỳ đà phải không cha?

Bình ca nhìn cha hỏi.

– Ừ, cha nghĩ là nó.

Cha quay sang xoa đầu a Phúc nói:

– Sáng nay cha lo cưa gỗ, không để ý chuồng gà. Mai mốt cha đền cho con gà khác.

A Phúc vẫn mếu máo gật đầu.

– Nó còn tới ăn gà nữa không? Bầy vịt nữa?

– Cha đi nhà Nguyễn bá hỏi cách đặt bẫy coi sao.

Mai nhìn bãi chăn vịt, đàn vịt nhiều hơn nên không đếm được. Cô chưa thấy dấu con kỳ đà đi qua, nhưng chỉ là sớm hay muộn thôi. Nó quen ăn chắc sẽ tới nữa, nếu nó đến ban đêm thì làm sao?

Vĩnh ca và a Phúc thay phiên nhau trông chừng chuồng gà và đàn vịt, còn dẫn theo con Mực đi vòng quanh như đi tuần. Con Mực cao hơn đầu gối a Phúc rồi. Lúc ở nhà hai đứa như hình với bóng, chỉ có buổi tối con Mực mới tách ra ngủ trước hiên nhà.

Lúc cha về mang theo một cái bẫy gỗ, có Nguyễn thúc đi theo. Hai người đi ra sau vườn, xem xét dấu vết con kỳ đà để lại. Mấy đứa con trai đi theo nghe Nguyễn thúc nói, Mai cũng nghe.

– Bình thường nó ăn đêm, không hiểu sao ban ngày lại chạy ra ăn.

– Ta nghĩ nó ăn mấy con gà lúc khuya. Sáng nay ta cho gà ăn hơi vội, không thấy vết chân nó.

– Có thể, chân con này không lớn. Nó ăn ba con gà rồi, hai ba ngày nữa nó mới đi kiếm thức ăn lần nữa. Ta chỉ huynh cách đặt bẫy, huynh làm thêm một cái nữa càng tốt. Sợ là không thể bắt được nhanh đâu.

– Được. Đa tạ đệ.

Sau đó Nguyễn thúc chỉ cách đặt bẫy kỳ đà bằng cá chết hoặc cóc ếch, là thức ăn mà kỳ đà thích nhất.

Trong nhà nương và ngũ cô gói trước bánh nhân ngọt chay chỉ có chuối chín làm nhân, bốn nải chuối lớn gói được hai mươi sáu đòn. Tay Mai còn nhỏ, không đủ sức siết chặt bánh khi gói nên đợi nương xếp bánh vào nồi. Cha đã làm bếp ở góc sân, nhóm lử xong thì Mai canh bếp lửa. Nồi đất không đủ lớn nên phải chia hai nồi, hai bếp lửa bập bùng từ đầu giờ tỵ.(1): mứt thèo lèo cứt chuột làm từ bột gạo, đậu phộng, mè đen và đường, vì nó có màu đen, cỡ ngón tay cái giống cứt chuột đồng nên người ta gọi luôn.Chương 73: Đêm Giao thừa đầu tiênNgày ba mươi tháng Chạp trời trong xanh, mấy cơn gió nhẹ thổi hiu hiu, lay những lá dừa nước ven sông. Từ sáng giờ cả nhà dậy sớm, cùng nhau quét dọn, gói bánh thật bận rộn.

Mấy đứa con nít trong làng rủ nhau chạy vòng vòng xem nhà nào chưng câu đối, đèn l*иg đẹp. A Phúc khoe hai cái đèn bằng nan tre treo ở cổng và hai đèn đất sét hình hoa sen trong nhà mình. Bốn cái đèn này là mấy anh em cô cùng nhau làm. Vải và giấy đều mắc tiền nên đèn nan tre đan dày giống như cái đυ.c. Cái này đốt lửa bên trong không sáng lắm. Không sao, tối nay đốt lúc giao thừa là được rồi.

Cha bày hai mâm cơm cúng, một ngoài sân, một trong nhà. Nương nhỏ giọng nói trong nhà là cúng tổ tiên, ngoài sân là cúng trời đất. Không cho con nít nói lớn, hỏi lung tung, sợ tổ tiên trời đất quở phạt, không nên.

Cúng xong thì quay lại gói bánh tét nhưn mặn là thịt mỡ và đậu xanh. Cũng may là mua cái cối xay về nên xay hạt đậu xanh vỡ ra, ngâm nước từ đêm qua, sáng nay Cúc tỷ phải đãi sạch vỏ mới đem nấu làm nhân được. Tam Mi qua bên này mượn cối xay dùng, vui vẻ nói:

– Nhà tỷ mua cối xay làm muội không phải chờ. Năm rồi mượn cối nhà Dương ông, phải canh lúc nào cối rảnh mới được.

Đúng là chiều hôm qua đến giờ có mấy nhà ở gần đến mượn cối dùng, vừa xay đậu mấy cô nương còn nói chuyện vui vẻ. Chuyện được nói nhiều nhất vẫn là chuyện quần áo của tiểu thơ nhà phú hộ và tiểu thϊếp mới.

– Nghe nói tiền thêu viền cổ và tay áo rất mắc đó. Chỉ có ở Trấn lớn mới có người biết thêu đẹp như vậy, không giống chúng ta, chỉ thêu mấy mũi cho nhanh.

– Hình như mũi giày cũng có thêu nữa.

Mỗi người một câu, nói chuyện thêu, may giày, trâm cài, bông tai còn qua kiểu tóc, son phấn trang điểm nữa. Phụ nữ thời nào cũng quan tâm nhất mấy cái này. Hôm nay mấy cô nương cũng sửa soạn quần áo gọn gàng, đầu tóc vấn kiểu cọ mới lạ. Xong mùa gặt, ngày Tết và tháng Giêng là thời gian thư thả nhất. Thanh niên thiếu nữ chăm chút quần áo, mặt mũi đi lễ chùa du xuân, gặp họ hàng, đồng bạn. Mai ngồi canh bếp lửa nghe các cô nói chuyện không khỏi mỉm cười.

Không khí trong làng vui vẻ rôm rả, ai gặp nhau cũng cười nói. Những lo toan mệt nhọc đều quên hết rồi. Lòng người đang mong chờ thời khắc giao thừa, đón năm mới sắp tới!

– Con canh không để nước cạn đó.

– Dạ.

Nước trong nồi bánh lúc nào cũng xâm xấp mặt bánh nếu không bánh chín không đều. Đến khi mặt trời lặn thì hai nồi bánh nhân ngọt cũng chín. Nương vội chọn ba cặp bánh đều, đẹp để vào rổ rồi kêu Vĩnh ca mang qua tịnh xá cúng dường. Bánh nóng bốc khói, hương thơm của lá chuối, nếp mới thoang thoảng, muốn ăn quá!

Mấy cặp bánh còn lại được Bình ca treo lên góc bếp. Có hai đòn bánh dư, nhỏ xíu được lột ra, dùng dây lát cắt thành từng khoanh để lên dĩa cho cả nhà nếm thử. Mai còn lấy ít tôm khô giả nhỏ để trong chén, ai thích có thể rắc lên, vừa mặn vừa ngọt cũng ngon.

Hai nồi bánh nhân mặn này nấu cũng đến sáng mai mới chín. Ai cũng giành được canh bếp đêm giao thừa.

Nhà nào cũng gói bánh Tét cúng tổ tiên. Có vài nhà gói trước giao thừa như nhà Mai, có nhà thì Mùng hai Tết mới gói để cúng Mùng ba. Bếp lửa cháy lập loè, tách tách làm lòng người ấm áp, vui vẻ. Cha nhìn ra xung quanh nói:

– Giờ này cha nương chắc cũng gói xong rồi.

Đây là năm đầu tiên cha ở riêng, gói bánh cúng giao thừa riêng nên không khỏi nhớ nhà nội. Không giống như nương và ngũ cô, tình cảm và thời gian cha ở nhà nội lâu. Hơn nữa trước đây cha cũng không nghĩ là mình sẽ ở xa. Ông vẫn biết sẽ ở riêng nhưng nghĩ là chỉ quanh trong làng chài, cách vài bước chân.

Nương thì dù ở nhà nội lâu nhưng trong lòng đương nhiên là nhớ nhà ngoại nhiều hơn. Bây giờ đây mới là nhà mình, năm đầu tiên tự mình mua thịt, xếp lá, cùng mấy đứa con gói bánh tét, canh bếp. Niềm vui trong lòng nương ẩn hiện trên khoé môi, đôi mắt.

Ngũ cô đã bảy năm ở nhà chồng, ngày ba mươi luôn là ngày vất vả, đôi khi tủi thân, xót xa và chạnh lòng nhớ nhà nhất. Năm nay cô lại cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng, không hẳn là vui nhưng không buồn, không phải rơi nước mắt nhìn người khác vui vầy.

Tứ ca, tứ tẩu và mấy đứa nhỏ luôn chiếu cố, để tâm đến cô. Những lúc buồn thoáng qua rất nhanh, cô không thể phụ lòng mấy đứa nhỏ. Trong lòng cô vẫn luôn mong có một gia đình của mình. Giống tứ tẩu vậy, ngày đêm vất vả lo lắng trước sau nhưng là cho những người mình yêu thương thì đó là hạnh phúc. Hiện giờ cô chỉ có lựa chọn quay về nhà đó, ở nhà cha nương hoặc ở đây, rất rõ ràng nhà tứ ca là nơi tốt nhất.

Quanh bếp lửa mỗi người đều có tâm trạng riêng, nhưng có cùng nhau niềm vui được sưởi ấm. Đây là những giờ khắc thanh nhàn, quẳng đi lo toan, chờ mong năm mới nhiều may mắn, bình an.

Cha đã chuẩn bị xong mâm cúng giao thừa, đèn nhang, rượu, gạo muối, hoa quả và bánh mứt; cây nêu cũng được dựng ở bàn thiên. Ở đây nghi thức cúng, mâm cúng không nhiều như Mai từng đọc trong sách. Có lẽ vùng đất mới này đời sống khó khăn, người xa xứ nên chỉ giữ lại ít phong tục từ quê cũ mà thôi. Hoa cúng Phật ở chùa và cúng tổ tiên ở nhà, chủ yếu là hoa sen, hoa huệ. Mùa sen chưa nở thì dùng lá sen, thêm mấy lá dừa non. Mâm quả có trái dừa gọt hai đầu vỏ xanh, đu đủ, hai trái xoài tượng to vừa chín tới, chùm trái sung xanh.

Cây nêu là cây tre cao bị chặt hết nhánh, chỉ còn lại ngọn và vài nhánh non. Trên ngọn tre buộc vải màu vàng và xấp giấy có vẽ ‘bùa’ là những hình giống bát quái, chữ viết không nhận ra được. Ánh lửa rọi bóng cây nêu ngã dài trên mặt đất.

– Cây nêu đó để làm gì vậy nương?

– Suỵt, nói nhỏ thôi.

Nương ôm a Phúc để hắn ngồi trên đùi rồi nhỏ giọng kể hắn nghe sự tích cây nêu ngày Tết. Mấy đứa nhỏ ngồi tụm lại một chỗ, nghe xong càng ngồi sát lại hơn. Bóng cây nêu ngã dài trên đất khiến người ta liên tưởng đế nhiều chuyện, phải không?

– Nàng doạ tụi nhỏ, tối nay chúng không dám đi tiểu tiện luôn bây giờ.

Cha mỉm cười nhìn a Phúc. Hắn càng chui sâu vào trong lòng nương.

Mai lấy trong buồng ra một chén đèn sáp ong, mang lên nhà trên đốt lên. Mọi người đều vây lại xem.

– Sao con làm được. Làm lúc nào?

– Dạ, con làm mấy ngày trước, lúc cha về nhà nội tảo mộ.

Nói rồi Mai nói sơ cách làm và dùng cái gì để làm. Quan trọng là đèn này cần thêm chụp đèn thì mới không sợ tắt. Nếu làm chụp bằng vải vừa mắc tiền vừa dễ cháy hư. Nghĩ tới nghĩ lui thì làm chụp đèn bằng tre hoặc đất sét thử xem sao.

– Cha, qua giêng mình đi gặp Lý thúc mua thêm sáp ong. Còn chụp đèn tre con nghĩ để tam Mi tỷ và Lưu bá mẫu làm vài mẫu. Nếu dượng năm bán được đèn này thì mình đặt làm nhiều hơn. Chỉ là nhà mình không tiết lộ cách làm này.

– Được, qua giêng cha sẽ đi.

– Nương thấy mấy cái chụp đèn tre làm mẫu thì nhà mình làm luôn, chưa biết bán được hay không.

– Để cô làm cho, con chỉ cô làm là được.

– Dạ.

Chuyện đèn cầy làm cả nhà hưng phấn, có thêm cách kiếm tiền rồi. Đây là hiệu quả mà Mai mong muốn, cô chờ mấy ngày nay rồi. Cúc tỷ liếc Mai, làm cô vội tránh ra, cười ha ha.

Mấy tháng nay ở đây thấy mọi người dùng đèn dầu đậu phộng rất tiết kiệm, giá dầu rất mắc. Muốn chiết xuất dầu phộng không dễ và tỷ lệ dầu chiết xuất không nhiều nên giá dầu rất cao. Thật ra Mai dùng sáp ong làm đèn cầy thì giá cũng không thấp được. Chỉ là mình làm thì nhà mình có để đốt, bán một ít cho nhà giàu ở Trấn Giang. Đèn cầy còn có thể dùng mỡ bò để làm, chưa biết giá có thể thấp hơn hay không.

Cả ngày hôm nay bận rộn nên mấy đứa nhỏ thức đến đầu giờ tý là gục. Chỉ còn ba người lớn, Cúc tỷ và Bình ca là còn thức đến giao thừa. Nếu ở hiện đại, Mai có thể thức một hai giờ sáng, nhưng mấy tháng nay cô quen ngủ sớm, thân thể cũng nhỏ nên không chống lại được. Mi mắt cô đã sụp xuống, đành về buồng ngủ, không đón được giao thừa đầu tiên ở nơi này. Trước khi chìm vào giấc ngủ sâu, Mai thoáng nghe tiếng chuông chùa ngân nga.

Giao thừa rồi!

Chúc mừng năm mới Bình An!

Nhà nhà An Khang Thịnh Vượng!Chương 74: Năm mới đến rồi!Sáng Một Tết trời trong gió mát, tiếng gà vẫn gáy râm ran, cả nhà quây quần trên sạp tre ăn sáng. Bánh Tét đã chín, được vớt ra treo dưới dãy bánh nhân ngọt. Cha đốt nén nhang ở bàn thờ, thổ địa và bàn thiên khấn vái.

Mai miễn cưỡng làm theo anh chị em quỳ lạy cha nương chúc Tết. Chuyện quỳ lạy này thiệt là làm khó người ta. May là ngũ cô nói không cần, chỉ chắp tay chúc Tết cô là được. Mấy đồng tiền kẽm được xâu lại bằng sởi chỉ đỏ thắt nút hình chữ Thọ thật đẹp. Năm nay cha nương còn có tiền riêng lì xì mấy đứa con các năm trước do ông bà nội lì xì. Mấy đứa nhỏ đều đặt tiền lì xì có sợi chỉ đỏ thắm trong túi áo để xua đuổi vận xấu, đón vận may trong năm mới.

Năm nay có cha và Cúc tỷ được may quần áo mới, hai người cũng không mặc hôm nay mà để dành dịp khác.

Sau giờ ngọ, mấy đứa trẻ rủ nhau đi chùa lễ Phật. Trên đường đi Mai gặp mấy đứa nhóc nhà khác cũng xúm xít cầm rổ, đội mâm trái cây đi lễ Phật. Chim én đã về từ lúc nào, liệng hót ríu rít giữa đồng. Mấy đàn chim hạc, cò ‘chững chạc’ hơn vẫn miệt mài sục tìm thức ăn trên những khoảng đất trũng ngập nước.

Đến nơi thấy Dương ông đã đến, đang uống trà cùng sư ông. Tụi nhỏ khoanh tay thưa hỏi, chúc Tết hai người rồi vào chính điện đốt nhang, quỳ lại. Lúc trước Mai cũng hay đi chùa vào các ngày Rằm lớn nên quỳ lạy Phật rất tự nhiên. Nhưng sáng nay cô lại không quen quỳ lạy cha mẹ chúc Tết, không thoải mái chút nào. Điều này không có nghĩa cô không kính trọng cha mẹ, nhưng ăn sâu trong trí nhớ thì con cháu chỉ quỳ lạy lúc để tang. Trong ngày cưới hỏi, lễ Tết cũng không còn quỳ lạy như ở đây.

Gian chánh điện được quét dọn sạch sẽ. Cây mai vàng hôm trước đã ra nụ xanh chi chít, chắc vài ngày nữa mới nở.

Mấy con chim sẻ nhỏ không sợ người lạ, chúng nhảy nhót nhặt những hạt gạo rải trên đất. Tối qua sư ông cúng giao thừa xong rải xuống, giờ làm thức ăn cho lũ chim này, không phí chút nào.

Mấy ngày Tết này kiêng kỵ quét dọn nhà cửa, quần áo cũng không giặt. Ngoài việc cho gà vịt ăn thì nhà Mai rãnh rỗi, thư nhàn. Cờ ca rô lại phát huy tác dụng giúp mấy đứa giải khuây. Lần này thua là phạt uống một chén nước to, từ xế đến chiều bụng đứa nào cũng óc ách nước. Mai nghĩ chắc mười ngày sau cô không dám uống nước luôn.

Mùng hai là ngày con gái về nhà mẹ đẻ, nhà ngoại xa nên nương không đi. Ngũ cô muốn Mùng bốn về nhà nội cùng với nhà Mai nên hôm nay cũng không đi. Lưu bá mẫu ẵm theo ngũ Mi, Tương huynh chèo ghe về nhà mẹ đẻ trong làng. Hết ngày Mùng Một cũng không còn kiêng kỵ khách đến nhà nên Tam Mi và tứ Mi qua nhà Mai chơi, vừa ăn mứt vừa nói chuyện trong làng.

Gần trưa thì hai chị em về nhà làm ít việc nhà và lo cơm nước cho Lưu bá. Mai nằm dài trên giường, vỗ bụng ăn quá no. Cô đang nghĩ xem làm sao làm ‘ống heo’ cất tiền lì xì hàng năm, có ít tiền riêng cũng được an ủi, vui vẻ.

– A Mai, nở rồi’ nở rồi. Mau ra xem.

Là ngũ cô, giọng rất vui vẻ, Mai ngồi dậy chạy ra bếp. Nương và Cúc tỷ đã đứng ở cạnh lò ấp, trứng gà nở con rồi. Hôm qua Mai đếm số vạch trên thanh tre, vẫn thắc mắc sao qua hai mươi ngày mà chưa thấy trứng gà nở. Cô dặn dò cả nhà xem chừng lò ấp, trong mấy ngày này sẽ nở.

Nương vui vẻ chỉ ngũ cô bắt con đã nở ra rổ đã lót rơm, bỏ trứng vỡ. Mấy con gà mới nở kêu chíp chíp rất nhỏ, cả người tròn vo, có con màu vàng sậm, có con vàng nhạt. Trong này có lẫn mấy trứng gà nhà của bà ngoại cho lúc trước. Mai cố ý không bán chúng, để lai giữa gà nhà và gà rừng, hy vọng chúng có được gen khoẻ mạnh của gà rừng.

Mỗi rổ cỡ hai mươi con gà con được đặt quanh lò ấp để chúng quen dần nhiệt độ bên ngoài. A Phúc đã chạy đi chơi, nhóc nhất định sẽ rất vui vẻ nựng nịu từng con gà này.

Lần đầu thấy lò ấp mình chăm chút nở ra con, ngũ cô rất phấn khởi. Cô cứ nhìn đám gà say mê, lo lắng xem chén nước có bị đổ ra ngoài hay không, có con nào yếu bị chèn ngã hay không. Mai nhẹ thở dài, ít ra bây giờ ngũ cô có cái để quan tâm chăm sóc, sẽ quên ưu sầu, phiền muộn. Giống như những người đàn bà thời này, cô suốt ngày làm lụng chăm chỉ, việc nhà việc ruộng đều giỏi, chuyện chăm sóc đàn vịt đàn gà càng làm cô yêu thích. Lúc thấy gà vịt bán được tiền cô lại càng chăm sóc chu đáo hơn.

– Mình ấp tiếp trứng gà trong giỏ hay sao?

Đàn gà lớn vẫn đẻ trứng lác đác, mỗi ngày ba bốn trứng. Nương chọn trứng không đẹp để ăn, còn lại đều cất trong giỏ. Ngũ cô đem trứng ra sạp tre đếm:

– Hai mươi hai trứng.

– Cô, mình chờ vài ngày nữa, con nhắn a Báo nhặt thêm, đủ bốn mươi trứng mình ấp một lò.

– Được

Mai nghĩ một chút rồi nói:

– Nhà mình bán gà con luôn được không? Vẫn để một nửa nuôi lớn, còn lại mang ra chợ bán.

Đúng rồi, sao họ không nghĩ ra. Nhiều người nông dân muốn nuôi gà trong nhà. Gà sẽ nhặt hạt cơm hạt lúa rơi, lớn trọng thì có thịt đãi khách, cũng bồi bổ người nhà. – Được, ta thấy được. Mình nuôi lớn cứng cáp rồi mang ra chợ bán.

– Vậy lứa vịt sắp đẻ trứng cũng ấp vịt con bán.

Bốn người cùng vui vẻ bàn bạc chuyện nuôi, ấp trứng, bán con rất hưng phấn. Thêm nhiều việc hơn nhưng càng làm người nhà có thêm thức ăn, thêm áo mặc.

Lúc ăn cơm chiều nói lại chuyện này, An ca hớn hở nói:

– Con chạy đi nhắn a Báo nhanh chút, mua thêm trứng.

– Dù sao cũng đợi qua Mùng mới được. Đầu năm đầu tháng cũng không nên hối thúc người ta.

Mấy đứa nhỏ ăn cơm xong tụm lại chờ a An đếm số tiền quỹ. Chỉ còn hai mươi bảy văn. Mai nói:

– Không phải còn phần hùn của ngũ cô sao?

Từ ngày vào đây ở, ngũ cô là người chăm sóc chính cho gà vịt. Mai còn biết cha nương đưa một ít tiền ‘dằn túi’ cho ngũ cô dùng mấy ngày Tết. Nhân dịp này để ngũ cô góp phần chính thức. Sau này cô có tiền riêng của mình cũng không cảm thấy ‘ở đậu’ nhà Mai. Mà ngũ cô có tiền rồi có thể dựng nhà, mua ruộng riêng cho mình.

Cả nhà cũng tốn một chút thời gian ngũ cô mới đồng ý chuyện hùn vốn. Có thêm tiền góp của ngũ cô, mong là bán được gà con. A An viết thêm mấy chữ trong quyển sổ nhỏ của hắn.

Sáng sớm Mùng ba, cha ra chuồng gà chọn hai con gà trống mập mạp. Một con cúng Mùng ba, một con mang đến Tết Thầy a Vĩnh là Đỗ lang y. Ông liếc qua hai cái bẫy được đặt sát mép nước, giật mình thấy con kỳ đà lớn vẫn đang giẫy trong bẫy. Cha không kịp bắt gà chạy vào nhà gọi a Bình.

Thật sự không nghĩ là bẫy được nó, không lẽ nó đánh hơi được đám gà con mới nở sao. Mai không vui vì bẫy được con kỳ đà cô chỉ lo cho đàn gà, vịt. Theo tâm lý ở hiện đại Mai không thích săn bắn động vật hoang dã. Cô cũng không thích ăn thịt chúng, dù sao mình nuôi mình ăn vẫn yên tâm hơn.

Mấy đứa con trai rất hưng phấn, cùng cha khiêng bẫy vào sân. Mai không dám nhìn cha gϊếŧ con kỳ đà, cô hơi sợ.

Mặt trời vừa lên, cha nương dẫn Vĩnh ca ăn mặc chỉnh tề đi nhà Đỗ lang y. Quà lễ Tết thầy cũng tuỳ nhà học trò, nhất định phải có là gói trà thơm bằng giấy đỏ và mứt ngon nhà làm. Nương đã chuẩn bị tỉ mỉ trà, mứt mấy ngày trước, còn có cặp bánh Tét mặn, con gà trống.

Cha không bái Bùi ông thợ mộc làm thầy nhưng ông cũng có lòng dạy và dẫn dắt cha nên hôm trước cha cũng mang bình rượu điều (1) do Bùi ông thích uống rượu hơn trà, một cặp bánh Tét mặn và một cặp vịt. Thông thường khi tặng biếu chỉ dùng bánh Tét mặn, bánh Tét nhân ngọt chỉ để trong nhà ăn hay là cho người thân ruột thịt. Tương tự người ta hay tặng gà mà ít tặng vịt. Cặp vịt tặng cho Bùi ông là do hôm trước nhà ông đến muốn mua vịt làm món vịt nấu măng, nên cha tặng ông luôn. Bùi ông là người hào sảng, phóng khoáng cũng không khách khí nhận cặp vịt. Hai nhà vui vẻ qua lại như vậy mới tốt.

Lúc cha và Vĩnh ca về, có Đỗ lang y và con trai lớn, sư huynh của a Vĩnh theo. Đỗ lang y kêu hai học trò trải tấm đệm chỗ sân có bóng mát, dùng con dao nhỏ sắc bắt đầu rạch bụng con kỳ đà. Vừa làm vừa nói các bộ phận và tác dụng y thuật của túi mật và thịt lỳ đà. Đỗ lang y lấy túi mật đưa con lớn dặn hai học trò đi về xử lý túi mật.

Cha mời lang y vào nhà trên, mời trà, trầu tiêm và mứt. Ông chỉ dẫn cách nấu thịt kỳ đà cho cha nghe. Một lúc sau thì Lưu bá và Nguyễn bá và Nguyễn thúc đến. Người lớn chào hỏi, chúc Tết, nói chuyện rồi cùng nhau làm thịt, chuẩn bị rau củ nấu món thịt kỳ đà.

Con kỳ đà này vẫn chưa trưởng thành hoàn toàn, nặng khoảng mười lăm cân. Nhưng cũng đủ mấy nhà thân quen ăn thoải mái. Chiều tối hôm đó, chia ra nhóm đàn ông ngồi bàn giữa sân trước, đàn bà ngồi ở sạp tre sân sau, trẻ con thì ngồi quay quanh đám lửa. Tụi nhỏ nướng đủ thứ từ mực khô, cá, tôm đến khoai, vọp đều được bọn trẻ mang từ nhà qua vùi vào lửa. Mùi thơm vang lừng toả ra. Dương ông uống vài chén rượu sảng khoái nói:

– Mùng sáu đến nhà ta đi, cũng không có món gì lạ, đến uống vài chén rượu đi.

Mọi người hào hứng ứng tiếng. Dau đó là Bùi ông, Nguyễn bá cũng mời đến nhà mình. Xem ra là cha sẽ ‘nhậu’ đến hết mùng rồi. Sở dĩ bắt đầu từ Mùng sáu vì Mùng bốn nhà nông cúng đưa ông bà về trời và cúng đất đai nhà cửa. Mùng năm là ngày kiêng kỵ mọi người thường ở nhà, ít ra đường.(1): rượu được dán giấy đỏChương 75: Nghề hạ bạcMùng bốn phải dậy từ canh tư, muốn đi nhà nội về trong ngày cần đi thật sớm. Hôm nay ba con trai lớn ở nhà chăm gà vịt, bù lại cho Cúc tỷ và Mai không đi tảo mộ lần trước.

Mấy hôm nay trời nắng nóng, thịt kỳ đà hôm qua đã ướp muối, tiêu để không bị hư. Cha và Cúc tỷ cũng không mặc đồ mới mà giống cả nhà, chọn bộ đồ lành lặn về nhà nội. Lưu tam bá mẫu đã về nhà mẹ đẻ từ Mùng hai, sau đó về nhà nội Ngọc tỷ luôn. Nhà bên đó không về làng chài hôm nay, chỉ còn hai nhà Mai và Lưu bá cùng nhau đi. Tương huynh cũng ở lại coi nhà.

Ghe trước ghe sau xuôi dòng lặng lẽ. Trăng thượng tuần đã lặn mất, chỉ còn sao Bắc Đẩu lấp lánh trên bầu trời. Cha nói một mình cha chèo là được nên bốn người phụ nữ và a Phúc nằm sát nhau trong mui, rầm rì vài câu rồi ngủ thêm một chút giữa tiếng mái chèo khua nước đều đặn. Ghe bên kia cũng chỉ có Lưu bá chèo.

Cha và Lưu bá không nói chuyện, im lặng khua mái chèo. Mấy chén rượu tối qua không ảnh hưởng gì. Tuổi hai người vẫn là trung niên cộng thêm quanh năm làm việc rèn luyện nên thân thể cường tráng. Giữa trời khuya hai người chỉ khoát thêm áo dài tay, đầu quấn khăn, tay chèo vững vàng không thấy cái lạnh của sương, của gió. Trong tâm chỉ có sự bình yên của vợ con ngủ yên trong mui ghe, mắt nhìn cảnh vật mờ ảo nhưng quen thuộc trên đường về làng chài.

Đến gần làng chài trời sáng tỏ, đã thấy nhiều ghe xuồng xuôi ngược, rộn ràng.

– Về sớm vậy, năm mới phát tài.

– Năm nay chắc trúng cá rồi, ta thấy trăng trong hơn mọi năm.

– Ha ha, đủ ăn đủ mặc là đủ vui rồi.

Neo ghe ở bến xong hai nhà chia tay nhau, nhà Lưu ông gần hơn, phải rẽ trước ở gần bến. Trên đường về cha chắp tay chào hỏi người quen, nói chúc Tết may mắn. Năm rồi mưa thuận gió hoà, nhà nông hay người đánh cá đều có cái ăn, cũng tích trữ chút lương thực trong nhà nên tâm tình thoải mái, vui vẻ đón mừng năm mới.

Nhà nội đang có khách, là hàng xóm đến chúc Tết, nói chuyện đầu năm. Chỉ có vài ngày này mọi người mới thong thả cùng nhau nói chuyện mùa màng, gia đạo. Cha dẫn đầu vào nhà, chắp tay chào ông nội và khách, mấy đứa nhỏ theo sau chào, chúc Tết. Nhóm đàn bà con gái lui xuống nhà sau nói chuyện. Ngũ cô mang thịt kỳ đà ra, hỏi cả nhà muốn nấu món gì rồi vừa chuẩn bị món ăn vừa tán chuyện. A Phúc dựa vào người bà nội kể chuyện mấy con gà con.

– Nương muốn nuôi gà không? Quây cái chuồng nhỏ sân sau cũng được.

– Nương, mình cũng nuôi gà đi.

– Nội, mình nuôi đi.

Lục cô và a Lan tỷ đều lên tiếng, bà nội gật đầu:

– Vậy qua giêng nuôi chục con đi, ta nói a Vinh làm chuồng nhỏ ở góc xa kia.

– Bà nội, con sẽ chọn con gà khoẻ mạnh nhất cho nội. Nhà con muốn ấp để bán gà con, nội hỏi xem có ai muốn mua không?

Mai hớn hở nói, xung quanh đây gần hai mươi nhà. Mỗi nhà đều nuôi chục con thì nhà mình cũng bán được hai trăm con gà con rồi.

– Được, bà nội sẽ hỏi cho con.

Lúc ăn cơm cha nói:

– Con kỳ đà không lớn. Nhờ Nguyễn gia chỉ làm bẫy, cũng mời người lớn trong làng ăn nên còn không nhiều.

– Được rồi, cũng không phải chưa ăn qua. Con ở trong đó nên giao thiệp với người xung quanh. Nghe con nói chuyện học chữ, cha cũng mừng. Nhớ để tụi nhỏ theo học, được chữ nào hay chữ đó.

– Dạ, cha. – Ông nội, qua Mùng mười con vô nhà tứ thúc được không?

Hân ca bị thất thúc nháy mắt nên nói.

– Ừ, hai đứa qua Mùng đi đi, ở nhà cũng không nhiều việc.

Ăn cơm xong ông nội dẫn cha đi chào hỏi trưởng làng và mấy nhà thâm giao. Lúc thấy mấy đứa nhỏ đều ra sân chơi, tam bá mẫu nói:

– Gần nhà ngoại a Hân Hồ gia có cô con gái lớn tới tuổi cặp kê mười sáu, ta xem cũng được, nương thấy được không?

Bà nội không vội trả lời, chỉ nói:

– Hôm trước a Hân giận dỗi, ép uổng nó quá cũng không được. Giờ mình vội đi xem nhà người ta, sau này khó ăn nói.

Tam bá mẫu thở dài, than phiền:

– Không biết sao nó không nghe lời.

Nương thuật lại chuyện ở nhà khuyên răn Hân ca làm tam bá mẫu thở dài thêm. Mai cũng thấy hơi lạ. Người ở đây trai mười tám tuổi mà chưa bàn chuyện đính hôn, tìm mai mối như Hân ca rất ít. Giống Vinh ca mười chín tuổi cưới vợ, chị dâu năm nay mười tám đã mang thai hơn bốn tháng. Ngày thường Hân ca làm việc ở nhà cô rất chăm chỉ. Ca ấy không khéo tay như Bình ca nhưng rất khoẻ mạnh. Mấy việc nặng như kéo gỗ, cưa gỗ lớn đều cùng cha Mai làm, cũng chịu đùa giỡn với mấy đứa nhóc trong nhà.

Hân ca và thất thúc muốn vào nhà Mai sớm. Thất thúc thì ham vui, nghe chuyện mấy con gà con thì muốn chạy ngay vào, còn Hân ca vì sao? Thật sự chăm chỉ hay,…? nhà Mai có gì hấp dẫn sao?

Mấy ngày tiếp theo cha và Lưu bá cùng nhau đi đến nhà trong làng uống rượu như lời mời. Lưu tam bá bên kia cũng từ làng chài vào, tháp tùng đi gặp gỡ giao thiệp. Nhà Lưu bá cũng bày tiệc chiều Mùng chín đãi khách. Cả nhà Mai qua phụ giúp một tay nấu nướng.

Ven bờ vũng Đông Hồ gần nhà Lưu bá có hai nhà mới dựng trước Tết, nghe nói là từ Cà Mau đến. Hai nhà họ ít người nên không khai khẩn đất làm ruộng mà đi chài lưới đánh cá. Họ mang theo thói quen sinh hoạt ở vùng sông nước Cà Mau là dựng nhà sàn cách mặt nước mấy thước. Có cầu ván đi vào mảnh sân nhỏ trồng ít rau và đi đường đất vào trong làng.

Nhà hai người dùng hai cái bè nhỏ đánh lưới, chiếc bè được ghép từ những cây đước bằng dây thừng lớn. Hai nhà này mới đến nên chưa quen người xung quanh. Mà Mai để ý thấy họ suốt ngày trên bè đánh cá, ra cồn giữa cũng đặt bẫy chim cò, bắt cua ốc.

Có những hôm sáng sớm Mai vừa ngủ dậy đã thấy hai chiếc bè đã ở giữa sông. Hai chiếc bè nhỏ xíu lạc lõng giữa sương sớm lãng đãng của Đông Hồ, vừa tịt mịt u buồn vừa lãng mạn như những bài thơ xưa.

Sĩ nông công thương đã phân chia các cấp bậc trong xã hội này. Nhà nông làm ruộng còn được coi trọng. Nghề chài lưới đánh cá bị xem là nghề hạ bạc, rất nhọc nhằn mà không được xem trọng. Dân gian có câu ‘lưới chài còn ướt là còn có ăn, khô câu khô lưới khô chài là bụng đói cơm khô’ để nói nỗi vất vả tay làm hàm nhai của nghề này.

Nghề mò ngọc trai cũng xem là nghề hạ bạc. Những lúc mò được ngọc thì huy hoàng, cuộc sống cả nhà khá giả mấy năm. Số lần mò được ngọc hiếm hoi chỉ đếm trên đầu ngón tay, nhưng nguy hiểm thì khỏi phải nói. Sinh mạng con người thật nhỏ bé trước biển cả mênh mông. Mấy nghề đi săn thú, tìm trầm trong rừng rậm cũng không được xem trọng, bị coi là nghề hạ bạc.

Thật ra chuyện phân biệt nghề hạ bạc đã là không công bằng rồi. Nếu không có người đánh cá thì lấy cá đâu cho mình ăn, lại đi coi rẻ người ta? Mà đâu ai muốn chọn nghề bị coi là hạ bạc. Khả năng và sở trường của mình làm được cái gì thì theo đó mà làm.

Giống như nhà Mai trước đây. Cha không đủ sức khỏe đánh cá trên biển nên vào trong này làm nghề nông. Có người thích cuộc sống lênh đênh rày đây mai đó thì làm khách thương hồ, thương lái. Làm nghề gì để nuôi sống mình và người nhà cũng tốt, sao phải coi là nghề hạ bạc.

Chiều Mùng mười thất thúc và Hân ca quá giang xuồng vào. Hai người vừa đến đã chạy đi xem cái bẫy kỳ đà, cùng mấy đứa con trai nói chuyện xôn xao. Nếu gần đó có con vật nào cũng bị doạ chạy mất biệt. Cha đã trả cái bẫy mượn nhà Nguyễn thúc, chỉ đặt một cái ở gần chuồng gà. Trong rừng có mảng đất trũng nước, cây cối rậm rạp là nơi trú ẩn của kỳ đà vào mùa khô. Không biết có mấy con trong đó nên vẫn đặt bẫy dự phòng.

Đàn gà con nở hôm trước đã cứng cáp. Ngũ cô thả chúng vào chuồng, thỉnh thoảng còn gom riêng bọn chúng để cho ăn thêm. Cô nói sợ bọn chúng giành ăn không lại đám gà lớn. Tính ra đàn gà vịt này được ngũ cô coi trọng quá chừng.Chương 76: Tết Nguyên TiêuNgày mười hai cha cúng tổ khai trương đầu năm. Xưởng bắt đầu vang tiếng cưa xẻ, đυ.c đẽo. Sau mấy ngày nghỉ ngơi và Tết vui vẻ, sức lực ai nấy dồi dàu. Mấy thiếu niên vừa làm viêc vừa nói chuyện rất vui vẻ.

Nương và ngũ cô chọn nếp ngon chuẩn bị nấu xôi gấc cúng chùa. Ngày mười lăm tháng giêng là Rằm Thượng Nguyên hay Tết Nguyên Tiêu. Ngày Tết này được tổ chức tại các chùa người Việt, người Hoa và người Chân Lạp nên nhà nào cũng chuẩn bị mâm lễ. Đặc biệt ngày này là ngày hội của các chàng trai cô gái, thiếu nữ thanh tân được phép ra ngoài đi dạo cảnh chùa, xem đốt l*иg đèn mà không sợ tai tiếng, dị nghị.

Hân ca nói năm trước chùa lớn ở Cần Vọt tổ chức rất náo nhiệt. Nam nữ thanh niên nhảy múa thâu đêm, tiếng trống tiếng chiêng rộn ràng khắp nơi.

– Năm nay ca không đi nữa sao?

– Không, ở đây cũng có chùa mà.

– Chắc không có nhộn nhịp như ở Cần Vọt.

– Ừ, không sao, ta lớn rồi, ở đâu cũng được.

Phải không đó? Nghi ngờ của Mai càng lớn, Hân ca rất ham vui, thích náo nhiệt. Sao giờ lại không muốn đi chùa lớn ở Cần Vọt chứ? đáng nghi lắm!

Lễ hội của người Chân Lạp phần lớn tổ chức tại chùa chiền, tụ tập hầu hết người dân trong làng trong sóc. Bản tính người Chân Lạp thích múa hát và sùng đạo nên các lễ hội luôn náo nhiệt và rất được coi trọng. Họ thích hát múa tập thể, ăn mặc rất đẹp. Quần áo trang sức dành cho các ngày lễ hội rất đặc sắc, cầu kỳ và tỉ mỉ. Họ thích dùng các loại mùi hương lấy từ hoa, vỏ cây. Ngày lễ hội sẽ có đủ thanh, sắc, hương.

Nam thanh nữ tú cùng nhảy múa, ca hát chung. Thậm chí nữ giới còn được khuyến khích học múa hát, cô gái nào múa đẹp hát hay sẽ được ca tụng. Ở mỗi vùng họ đều tổ chức các lễ do các cô gái đồng trinh đại diện dâng lễ. Những cô gái này được tuyển lựa rất kỹ, phải đẹp, hát hay, múa giỏi.

Người Việt, người Hoa theo đạo Khổng Nho nên lễ nghi bó buộc hơn, đặc biệt là nữ giới. Tiểu thơ nhà quan lại đều được cho học cầm kỳ thi hoạ nhưng không khuyến khích trình diễn ở chốn đông người. Kiểu như học ‘cho biết’ vậy thôi, có biểu diễn cũng trong phạm vi hẹp và ‘đối tượng’ xem cũng hạn chế. Giống như đồ thêu của tiểu thơ lúc còn con gái thì chỉ thêu cho cha, nương hoặc anh chị em trong nhà. Đến lúc lấy chồng thì chỉ thêu cho chồng con; không cho phép truyền ra bên ngoài.

Làng Đông Hồ dân cư vẫn còn ít, nghèo khó cộng thêm chỉ có tịnh xá nhỏ nên Tết Nguyên Tiêu sẽ không náo nhiệt như các nơi khác. Nghe nói tịnh xá trên sườn núi Tô Châu bên kia sông lớn và náo nhiệt lắm.

Mai theo nương đến chùa dọn dẹp, làm đèn l*иg từ nan tre. Có nhiều nhà cũng đến, chuẩn bị nếp, mâm tre, mâm gỗ, hoa quả, nhang đèn. Cây mai vàng đã nở rộ hôm Mùng tám đến nay đã tàn, chồi lá xanh mướt. Sư ông chọn một cành đẹp cắm trên gian thờ chính. Mai được sư ông cho hai cây cao hơn đầu gối ở gốc sân, đến đầu mùa mưa thì đào gốc mang về trồng.

Lúc đan đèn l*иg, Mai nói nương mang về nhà làm, có ngũ cô và Cúc tỷ giúp sẽ nhanh hơn. Nhà Mai nhận làm hết ba mươi sáu đèn l*иg này.

Trong lúc người nhà đan đèn, Mai ngồi bên cạnh vẽ lên bảng gỗ hình các chụp đèn cầy. Đèn dầu ăn là những cái chén rộng miệng, thấp. Có tim đèn bằng sợi vải, dầu ăn đậm đặc nên chỉ có thể đốt bằng tim vải ngắn, tim dài quá không dùng được.

Mai muốn dùng ống trúc đổ đèn cầy. Mỗi đốt trúc chiều dài cũng vừa phải. Chỉ là phải mài mặt trong ống hoặc có lớp lót để đèn cầy phẳng mặt đẹp, không bị bọt. L*иg đèn như ngũ cô đang làm dùng trong nhà thì được, nhưng xách theo ra đường sẽ dễ bị gió thổi tắt.

– Nương ơi, vải nào giá rẻ nhất?

– Vải bố, con muốn làm gì?

Vải bố không xuyên sáng được, chỉ có thể dùng vải lụa hoặc giấy mỏng. Mai nhớ đến những cái đèn l*иg ở Hội An, lung linh sắc màu thật lộng lẫy. Nếu có thuỷ tinh thì tốt quá rồi. Trước mắt chỉ có thể làm đèn dùng trong nhà.

– Cô, cô đan cho con hai cái đèn theo mẫu này.

Mai chỉ ngũ cô cách xem và ước lượng chiều cao, rộng của đèn. Mẫu một là hình tròn xoay giống cái nôm cá, mẫu hai giống bình hoa không có đáy.

– Cái này nếu đốt đèn sẽ cháy nan tre đó.

Ngũ cô rất nhanh nhìn ra chỗ không đúng, – Dạ, con tính làm mẫu đưa lò gốm làm bằng đất sét.

– À, vậy thì được.

Chụp đèn dùng trong nhà làm bằng đất sét rất tiện lợi. Mỗi nhà chỉ mua vài cái chụp, đèn cầy hết thì mua gắn vào. Giá của đồ gốm thô không cao lắm, người nông dân vẫn mua được. Buổi tối dùng thử chụp đèn, ánh sáng toả ra thành những vệt dài hắt lên vách mang lại cảm giác mờ ảo. Tuy nhiên đèn không đủ sáng để học đọc hay viết chữ, nhưng không lo bị tắt, không chập chờn.

Chất lượng không cao làm Mai nhíu mày, người nhà lại hân hoan. Đốt nhà trên một cái đèn, nhà dưới một cái đèn thì ban đêm trong nhà trở thành không gian ấm áp, vui vẻ. Được một lát thì bầy thiêu thân lao vào và hy sinh thành từng lớp phía dưới chân đèn.

Muốn làm và bán đèn này cần bỏ ra chút vốn, mua sáp ong, đặt làm chụp đèn gốm. Cha nói chợ phiên sau ngày rằm sẽ đi đến lò gốm ở làng trong. Một năm này có vẻ bận rộn hơn rồi.

Tết Nguyên Tiêu luôn có không khí rộn rã hơn Trung thu. Một phần vì mùa nắng, trời khô ráo không lo mưa. Một phần là vụ mùa đã xong, năm mới vừa đến, ai cũng muốn vui vẻ những ngày đầu năm để cả năm may mắn. Đèn l*иg thắp lên làm sáng cả gian thờ. Bên ngoài cắm hàng đuốc do mấy thanh niên trong làng làm. Nhà cửa xung quanh cũng đốt đuốc, đốt lửa ở sân. Ai ở nhà thì ăn vội chén cơm để đi lễ, ai ở chùa phụ giúp cũng vội bày biện gọn gàng.

Trời vừa tối, sư ông gõ chuông cho hồi kinh như mọi ngày. Trong gian chính mọi người đều ngồi chắp tay nghe đọc. Giọng sư ông trầm, nhịp nhàng theo tiếng mõ thanh thanh. Bên ngoài bắt đầu có người đến. Có người mang đèn l*иg nhà làm, nhang, hoa quả chờ sư ông dứt hồi kinh tối thì tiến vào chánh điện cúng dường, đốt nhang khấn vái.

Ngày thường mọi người lo việc đồng, việc nhà ít có dịp tụ tập. Hôm nay đa số đều viếng lễ chùa nên phá lệ đông đúc. Người lớn tuổi thì chào sư ông, trò chuyện vài câu, đốt nhang lễ Phật rồi về. Người trẻ tuổi và con nít thì ríu rít cười đùa, đi vòng quanh các gian thờ, sân trước nhìn ngắm. Mấy gốc lài toả hương thanh khiết, vài vòng hoa lài được kết thành vòng cổ, vòng tay.

Mặt trăng lên đầu ngọn tre là lúc con đường từ chùa ra ao sen sáng ánh đuốc, lá sen xanh mướt dập dờn gợn sóng. Trên con rạch rẽ vào làng có hai chiếc ghe lớn, sáng ánh đèn. Xung quanh đây chỉ có nhà phú hộ Từ giàu có như vậy. Mọi người đều ngưng chuyện đưa mắt nhìn về phía hai chiếc ghe.

Con người ở thời nào cũng có óc tò mò, luôn muốn biết chuyện của người khác. Mai cũng muốn biết cuộc sống của các vị tiểu thơ, công tử nhà giàu là như thế nào.

– Từ tiểu thơ đó suốt ngày chẳng cần làm gì sao? Như vậy rất buồn.

Mai vừa nói xong đã nghe mấy tiếng phì cười, Ngọc tỷ đứng gần đó bĩu môi nói:

– Người ta có người hầu hạ, không động móng tay. Làm gì mà buồn, sung sướиɠ vui vẻ thì có.

– Tỷ không phải tiểu thơ cũng không cần động móng tay mà,

Là tiếng của một cô nương lạ mặt Mai không biết tên.

– Ta, ta … sao biết ta không động chứ.

Vậy là thật rồi. Nghe tứ Mi nói Lưu tam bá mẫu đang tìm mối cho Ngọc tỷ. Tam bá mẫu còn bắt chước nhà giàu không để Ngọc tỷ làm gì cả, sợ chân thô tay thô không tìm được nhà chồng tốt. Trước đây Ngọc tỷ ở làng chài, da không khỏi ngâm đen vì nắng. Mới mấy tháng đã khác nhiều, làn da mịn màng, tóc dài tha thướt. Hôm nay tỷ ấy mặc áo xanh nhạt, mắt to đen láy cài mấy chùm hoa lài trắng nhìn rất sống động, thanh tân. Chỉ là Ngọc tỷ có đôi môi hơi dày, làm cả gương mặt thêm mấy phần quyến rũ mất mấy phần trong sáng.

Nhà Lưu tam bá đông người, việc bếp núc không ít. Mai thấy Lưu tam bá mẫu hay đi chợ phiên, rồi đi quanh mấy nhà trong làng. Giờ Ngọc tỷ không làm việc nhà nữa. Vậy việc nhà đều là con dâu lớn làm? Trời, đúng là bận tối mặt mũi rồi.

Nếu như truyền ra ngoài Ngọc tỷ không đảm đang, giỏi giắng thì các nhà làm nông đâu dám hỏi cưới. Mà chắc Lưu tam bá mẫu không muốn gả Ngọc tỷ cho nhà nông rồi! Vậy muốn gả cho nhà ai? Phú hộ Từ bên kia? Mai nhìn về phía hai chiếc ghe sáng đèn xa xa.

Tương huynh đang đi cùng mọi người thì tách ra, tiến về hướng đường làng. Lúc nãy là huynh ấy cười Mai sao. Huynh ấy có qua lại chở đồ nhà phú hộ chắc cũng biết không ít việc ở nhà đó.

Tiếp đó là tiếng bàn tán xôn xao, nhóm thì nói xem nhà phú hộ đến mấy người, có tiểu thơ, công tử hay lão phu nhân hay không. Nhóm thì nói năm nay trúng mùa, nhà phú hộ nên đến trả lễ thần Phật, trời đất.Chương 77: Tháng Giêng thuận lợiTừ bến ghe vào chùa không xa lắm, một đoàn người tiến về đây. Giữa đoàn có hai người khiêng cái võng điều, trên võng là lão phu nhân tóc đã bạc gần hết. Phía sau có mấy người mặc áo lụa, được mấy cô gái cầm đèn soi đường.

Dương ông cùng sư ông đón tiếp nhà phú hộ, nhóm người đi theo phía sau nghe chuyện đông đúc. Mai không vào trong mà cùng a Vĩnh đi ra phía ao sen xem đèn.

– Chùa Tô Châu bên kia chắc náo nhiệt lắm, đèn đuốc sáng cả một vùng kìa.

Vĩnh ca chỉ hướng núi Tô Châu, lưng chừng núi là mảng sáng ẩn hiện giữa rừng cây. Lúc chiều Hùng huynh và a Báo đến sớm, nghe An ca dặn trứng gà, gà con a Báo gật đầu nhận lời. Hắn sẽ mang đến nhà Mai như lần trước. Hai huynh đệ vội trở về khi trời vừa tối. Cha nương và ngũ cô đã về nhà, còn dặn mấy đứa nhỏ đi đứng cẩn thận, không về trễ quá.

Cảnh cũng đã xem xong, a Vĩnh đi tìm mọi người cùng nhau về. Mai bước lại khóm dừa thân lùn, ai đó đã đặt cái đèn dưới gốc dừa.

– Chút nữa nhờ ngươi. Nhớ không? A Liên, a Liên, nói đi.

– À, a, a, li, li

– Không phải a Li, là Liên, Liên

Là Tương huynh và con sáo sậu, đang hẹn ai sao? A Liên là ai? Mai mỉm cười đi nhẹ ra xa, mình không muốn làm bóng đèn đâu. Đêm nay trăng đẹp, gió hiền thích hợp cho nam thanh nữ tú hẹn hò. Lưu bá mẫu đang sốt ruột tìm mối cho Tương huynh, không biết thì ra huynh ấy có người trong lòng rồi.

Chưa kịp thấy bóng người hẹn hò với Tương huynh thì nhóm nhà Mai và nhà Lưu bá đã ra. Cả nhóm cùng nhau vui vẻ đi về. An ca và Hân ca cầm hai cây đuốc chia nhau dẫn đường và phía sau. Lúc đến ngã rẽ vào nhà Mai, Hân ca nói:

– Ta đưa tam Mi, tứ Mi về.

A An đưa đuốc cho tứ Mi đứng phía trước. Nghe tiếng nói, nương cầm đuốc ra đón mấy đứa nhỏ nói:

– Nhanh, đi ngủ đi, trễ rồi.

Qua Tết Nguyên Tiêu là hết những ngày thư nhàn. Công việc ngoài đồng đang chờ người nông dân. Trước ngày chợ phiên, con gái lớn Nguyễn bá hạ sinh một bé gái. Tỷ ấy rất yếu may nhờ Đỗ lang y bốc mấy thang thuốc mới qua khỏi nguy hiểm.

Hôm nay cha dẫn Mai đi cùng đến chợ làng, gặp nhà bán đồ gốm trong chợ:

– Nhà huynh có làm được giống cái này không?

Vị bá bá xem cái chụp bằng tre kỹ càng rồi nói:

– Ta không rõ lắm, huynh có thể theo về gặp thúc phụ ta được không?

– Được, ta chờ.

– Không cần đâu, giờ ta đi liền.

Nói xong, bá ấy quay vào trong sạp dặn.

– Cha về nhà, qua giờ mùi trở lại. Hai đứa trông sạp cẩn thận.

– Dạ.

Men theo sông Giang Thành về hướng Đông, đi gần hai canh giờ đến đoạn sông hơi hẹp thì rẽ trái vào con rạch nhỏ. Trên ghe Sùng bá nói nhà ông đã ba đời làm nghề gốm. Thúc thúc ông đã qua tuổi lục thập vẫn là thợ cả trong lò. Ngoài sạp chợ ở làng Đông Hồ, nhà ông còn có sạp ở chợ Lũng Kỳ. Đến chỗ rộng con rạch thì bá ấy neo ghe vào bến, đi bộ một đoạn nữa.

Lò gốm rất rộng, trải rộng gần một mẫu đất, đất sét được vun thành mấy đống lớn. có loại thô còn lẫn đá, loại được sàng lọc thì mịn màng. Phía xa là lò nung cao, lửa đã đốt, khói bay lên thành cụm. Lần đầu tiên Mai đến xem lò gốm, không khỏi hiếu kỳ nhìn đông nhìn tây.

Sùng bá đi vào hai gian nhà bên phải.

– Thúc, có khách tìm.

Sau khi chào hỏi, cha Mai đưa cái chụp đan bằng nan tre, diễn tả ý định làm bằng đất nung. Sùng ông xem xét cái chụp, gật đầu nói:

– Được, ta làm được. Lê tứ điệt muốn làm như thế nào?

– Thúc làm trước một cái. Nếu dùng tốt ta sẽ đặt ba mươi cái.

Sùng ông đồng ý làm một cái mẫu. Ông hẹn phiên chợ sau nhà Mai đến sạp ở chợ làng nhận là được. Mai nhìn ông lão râu tóc đã bạc phơ mà vẫn rất tráng kiện, giọng nói sang sảng không khỏi nể phục. Đôi bàn tay ông rất lớn, các ngón tay dài, khớp đầy vết chai. Đôi bàn tay này đã làm ra những món đồ bằng đất đỏ au, đủ dạng đằng kia sao?

Lúc đi ra Mai không khỏi nhìn lại lò gốm lần nữa nơi ba đời nhà Sùng ông gầy dựng!

Xong việc làm chụp đèn bắt đầu đến việc tìm mua sáp ong. Lúc ở trên ghe đi về, hai cha con bàn chuyện cần làm tiếp. Cha đang nôn nao muốn làm xong ghe năm bản mẫu mới, nếu đi nhà Lý thúc sẽ mất hai ngày nữa.

– Cha, nhờ Lưu bá và Tương huynh đi cùng con là được.

– Không được.

Về nhà bàn lại chuyện đi Giá Khê nương cũng không cho Mai đi một mình. Tính tới lui chưa có cách vẹn toàn, đành gác lại chờ cha xong chiếc ghe năm bản trước. Nhờ hôm trước có hai nhà đã đốn gỗ, ngâm nước nên giờ có đủ gỗ lớn để đóng ghe năm bản.

Mũi ghe thuôn dài vươn cao sẽ lướt nhẹ nhàng. Cha chăm chút vuốt từng đường bào, bụi mạt cưa bay theo từng cơn gió thoảng qua, dính trên mặt, tay và lưng áo ông. Bên này Bình ca đυ.c thanh cong, mỗi ghe cần hơn mười cong nên Bình ca đã làm rất thành thục. Ghe lần này dài mười hai thước (1), cần mười sáu cong nên BÌnh ca nhiều việc hơn, từng cái cong được xếp dài cạnh vách nhà. Thất thúc và Hân ca đang chuẩn bị các bước trước khi ghép ván. Nói chuẩn bị vì chỉ hai người rất khó ghép được ván đáy hay ván be. Người đỡ, người làm dấu, người làm mộng, người ghép khớp nên mỗi lần ghép đều cần cả bốn người làm. Mai còn tiến thêm một bước ‘đánh dấu’ các ghe do nhà mình sản xuất. Cô và a An lo chuẩn bị để sơn nhãn hiệu lên thành ghe và làm dấu bí mật trong góc khuất của chiếc ghe.

Rất nhanh đến ngày chợ phiên, hôm nay Mai và An ca đi bán ở chợ làng và đến nhận mẫu chụp đèn ở sạp đồ gốm. An ca cao khoẻ hơn qua mấy tháng. Một mình ca ấy có thể chèo ghe tam bản trôi chảy. Hai đứa không dùng ghe lườn quanh co trong mấy con rạch nhỏ mà xuôi theo men bờ vũng Đông Hồ đến chợ rất nhanh. Vừa ra đến vũng Đông Hồ đã thấy hai chiếc bè cũng đang xuôi dòng phía trước, chắc họ cũng đi chợ.

Chợ họp như thường lệ, Mai tò mò dõi nhìn xem hai nhà ở vũng Đông Hồ bán cái gì. Họ bán mấy con cò, le le, một rổ tôm càng, a một con kỳ đà to nữa. Lúc họ kéo con kỳ đà còn sống đi vào chợ làm mọi người đều nhìn. Thịt kỳ đà bổ dưỡng mà túi mật có thể bán cho lang y hoặc hiệu thuốc. Chỉ là xung quanh đây sẽ ít người mua được.

– Cháu nghĩ thúc đến hỏi nhà phú hộ xem có mua nó hay không? Hoặc thúc đến chợ Sông Lớn chắc có người mua.

Mặc dù chưa quen biết nhưng Mai nghĩ họ mới đến chưa rành thuỷ thổ, giúp mấy lời cũng tốt. Vị thúc thúc hơi dừng lại nhìn Mai, suy nghĩ rất nhanh gật đầu như cảm ơn nàng rồi dặn dò thím đi cùng. Hai nhà họ chọn chỗ bày bán ở phía ngoài gần mé công. Thúc ấy thì đi ra bè đi về hướng nhà phú hộ.

Hai anh em đi đến chỗ cũ thì thấy a Báo đang bán hàng rồi. Hôm nay còn có hai con chồn xám. A Báo vừa giúp tay xếp đường vừa nói:

– Ca ta mang trứng và gà con cho nhà ngươi đó. Ta nói để ta đi mà ca ấy không cho.

Mai nghĩ bụng ‘làm sao mà huynh ấy để ngươi đi’. Cô liếc a Báo mặt mũi sáng láng, đang hưng phấn kể chuyện làm sao cha hắn săn được hai con chồn xám này. Hắn còn hỏi chuyện An ca làm gì tối Tết Nguyên Tiêu, còn hít hà ước gì hắn được ở lại.

A An lớn hơn a Báo một chút nhưng tính khí trầm tĩnh hơn nhiều. Có thể là bản tính của a Báo sôi nổi, nhiệt tình. Ở nhà hắn không phải được nuông chiều, những việc cần làm hắn đều biết làm. Hắn cũng có chí, biết tự kiếm tiền mua cung tên mình thích, biết săn thú, luyện võ cũng coi là có bản lĩnh.

– A Báo, trong rừng có tổ ong không? Nếu có nhà ta cũng muốn mua, sáp ong cũng được.

Đang huyên thuyên nghe Mai hỏi hắn chậm một nhịp mới đáp:

– Có, ong ruồi được không?

– Ong gì cũng được.

– Được, ta gặp sẽ lấy về cho ngươi.

– Ngươi biết lấy tổ ong, phải cẩn thận đó.

– Ha ha, ta đương nhiên biết, không cần lo.

Hắn vỗ tay lên ngực bảo đảm. ‘Phải nói Hùng huynh nhắc chừng hắn mới được’, lỡ bị ong đốt lại mất công a Vĩnh trị cho hắn.

Đợi hơn nửa buổi chợ, Mai đi đến sạp đồ gốm. Sùng bá thấy Mai vội quay lưng vào trong ôm ra khối tròn được gói kín bằng rơm. Mai vui vẻ nhận lấy,

– Cảm ơn bá, cháu mang về cho cha xem. Phiên chợ sau đến gặp bá.

– Được, cháu mang về đi.

A, hơi nặng, Mai dằn lòng không mở ra xem liền. Dù sao về nhà xem cũng không muộn, cũng tránh ánh mắt của nhiều người.

– Cái gì vậy?

– Là đồ của cha ta mua. Bán xong ngươi về nhà ta luôn hay sao?

– Ừ.

Mai chưa muốn lộ chuyện làm đèn cầy, nên lảng sang chuyện khác. Mà a Báo cũng dễ bị gạt ghê!

Bên kia vị thúc thúc quay về, vác con kỳ đà ra bè. Vậy là thúc ấy bán cho nhà phú hộ rồi.

– Nhà phú hộ đãi tiệc khách bên Tô Châu, nghe nói là thông gia tương lai.

– Thông gia? Là cho công tử hay tiểu thư vậy?

– Ta không biết, vài ngày nữa là biết liền.

Mấy thím buôn bán gần đó cũng đoán được nhà ai mua con cự đà, không quên tám chuyện nhà phú hộ. Ra giêng bàn chuyện hôn nhân là đúng lệ rồi.

Trên đường về An ca dạy a Báo chèo ghe. Hắn làm chiếc ghe xoay mòng mòng làm Mai vịn chặt thành ghe.

– Ta học sau, ca chèo đi.

Chiếc ghe lại êm ả lướt về nhà. Chim én về từng đàn bay liệng trên không. Đồng lúa chỉ còn trơ lại rơm khô và gốc rạ. Bọn chúng cũng không ngại, chăm chỉ tìm kiếm thức ăn, nhảy nhót vui đùa.(1): 1 thước = 0.47mChương 78: Mùa khôLúc về đến nhà, con Mực đánh hơi là a Báo chạy ra mừng rỡ quẫy đuôi. Mai ôm chụp đèn để trong buồng của mình rồi đi ra xưởng gỗ. Hùng huynh đang ở trong xưởng xem mọi người làm, cũng phụ một tay đỡ ván, cầm cưa.

– Cha con lấy chụp chỗ Sùng bá rồi, trưa cha nghỉ tay một chút xem.

– Ừ.

Ở nhà bếp ngũ cô và Cúc tỷ đang chọn trứng gà cho đợt ấp tiếp theo. Gà nở lần trước đã lớn, không bán ra ngoài mà chọn chục con gửi ra nhà bà nội. Nương biếu nhà Lưu bá chục con nhưng bá mẫu muốn nuôi ba chục con nên mua luôn. Còn lại mấy con nhập vào nuôi chung cả đàn trong chuồng. Bây giờ đàn gà, đàn vịt có đủ cỡ. Con lớn đẻ trứng, con gion gion chạy kiếm thức ăn, con mới nở thay lông tơ.

– Hùng huynh mang đến ba mươi trứng, thêm mười hai gà con. Cũng may hôm trước bán được ba chục con gà con cho nhà tam Mi.

Cúc tỷ thấy Mai đi vào nói. Lúc bán gà con mấy đứa nhỏ đã chụm đầu tính toán bán giá bao nhiêu, cuối cùng là dựa vào giá mua gà con của a Báo bán ra.

– Ta chọn được hơn sáu chục trứng ấp đợt này, bây giờ đốt lò luôn.

Ngũ cô nhanh nhẹn xếp trứng vào khay, đốt lò, phun ít nước giữ độ ẩm. Rồi ngũ cô còn lấy ống tre mới gạch một gạch làm dấu. Ấp trứng gà cỡ hai mươi ngày là nở, trứng vịt là ba mươi ngày.

Mai còn nhắc khi ấp được một nửa thời gian thì đem trứng ra soi. Trứng nào không có con loại ra. Sau đó đốt lửa nóng hơn một chút, vẩy nước thường xuyên hơn. Cả nhà đều nhớ kỹ, xem số gạch trên ống tre mà làm, không để lò ấp tắt, bếp lạnh.

– Bá mẫu dặn mua hai chục con cho nhà ngoại, hai chục cho nhà nội tam Mi. Còn lại hai chục, không ai mua thì mình nuôi luôn.

Xì, Mai cười nghe ngũ cô tính.

– Con sợ mình ấp không đủ bán, nhà ngoại tam Mi nuôi thì nhà người khác cũng muốn nuôi.

– Phải đó cô, tam bá mẫu bên kia cũng muốn nuôi, nhưng chưa muốn mua mà nói để tam bá vào rừng bắt gà con về.

Đâu có dễ dàng như vậy chứ, tay không vô rừng đi săn sao?

Cha nói hai anh em a Báo ở lại ăn cơm trưa hẳn về. Dù sao người ta cũng giúp làm từ sáng đến giờ, mồ hôi cũng không kịp lau. Đương nhiên là hai người đồng ý. Lúc ăn cơm Mai nói chuyện nhờ tìm tổ ong, rồi tiếp:

– Sắp tới sẽ có nhiều nhà trong làng muốn nuôi gà. Huynh bắt được bao nhiêu cứ mang đến nhà muội, muội sẽ bán giúp, giá giống như nhà muội mua vậy.

Hai huynh đệ vui vẻ đồng ý. A Báo cười ha ha thích chí. Ngũ cô gói theo ít muối, mực khô, đường để huynh đệ hắn mang về. Hùng huynh từ chối không được liền nhận.

Mai ôm chụp đèn, tháo lớp rơm khô bao quanh ra đặt lên bộ ván nhà trên cho cả nhà cùng xem. Để xem rõ hơn Mai kêu đóng cửa, đốt đèn rồi chụp xuống. Ánh sáng được hắt ra từ những khe hở thật lung linh.

– Giống như đèn lưu ly trong chánh điện chùa Xà Xía, nghe nói trân quý lắm, giống không?

Hân ca xuýt xoa nói, còn hướng Bình ca xác nhận.

– Hơi giống.

Cả nhà đang nói chuyện thì nghe tiếng bước chân đi vào nhà.

– Sao đóng cửa vậy? Cúc ơi!

Là nương về, hôm nay sớm vậy. Cúc tỷ đi vòng ra bếp nói:

– Nương về rồi, ở trong này, nương lên xem.

Đợi nương vào xem, mọi người lại bàn tiếp.

– Cái này mỏng hơn một chút, dày quá nặng

– Khoét lỗ to hơn sẽ sáng hơn phải không?

– To quá gió lùa vào đèn sẽ tắt.

Mỗi người một câu, chín người mười ý.

– Đèn này giá không rẻ, nó rớt hết xuống dưới này còn dùng nữa được không?

Nương chỉ vụn sáp rơi xuống mặt ván hỏi, đúng rồi cũng nên để ý cái này, không thể lãng phí vụn sáp.

Lúc a Vĩnh từ nhà lang y về đã bị a Phúc kéo vào buồng chỉ cái chụp đèn kể lể chuyện cả nhà bàn. Đúng là về nhà hỏi trẻ! Cũng không chờ được một lát.

Đã giữa mùa khô, nước mặn theo thuỷ triều tràn vào nhiều. Mấy con vịt gầy hơn, bộ lông không mượt mà bóng loáng nữa. Trứng vịt cũng giảm xuống. Ngũ cô lo lắng không thôi, đành phải chọn mấy con mập mạp bán ở chợ phiên vậy.

Chiều nay thấy cha nương gánh nước từ ao sen tưới cho miếng đất trồng khoai, Mai động tâm tính toán. Ao sen kín, không bị nước mặn ăn. Vậy nhà mình cũng nên đào ao sâu trữ nước ngọt vào mùa mưa.

– Ca, nhắn cha vào giúp đào ao đi. Cả nhà làm sẽ nhanh xong hơn.

– Ừ.

Việc nhắn tin ra làng chài đã nhanh hơn trước, ông nội báo là đầu tháng hai sẽ vào. Người trong làng ra ao sen gánh nước ngọt về dùng cho sinh hoạt ngày càng nhiều nhưng mực nước không xuống, chắc có mạch nước ngầm chảy vào. – Cha, mình xin sư ông và Dương ông đào ao sen sâu hơn bảo đảm đủ nước ngọt cho cả làng xài đến mùa mưa.

– Cha cũng tính nói đó. Cha sẽ gặp Dương ông nói.

Ngày chợ phiên tiếp theo cha gặp Sùng bá để sửa lại chụp đèn và trả tiền cho cả hai mẫu làm thử. Bá ấy hẹn mấy ngày sau mang cái mới đến, còn trả lại mẫu cho cha.

– Thúc ta còn một cái ở nhà. Lê huynh cứ giữ lại.

Tháng hai đến với những ngày nắng gắt gao, chỉ có đàn cò trắng loá kiếm ăn trong nắng. Còn lại đều chui vào bụi rậm, vũng bùn trốn nắng.

Lưu tam bá dẫn con trai vào rừng đốn gỗ, đi săn. Lúc trở về hân hoan kéo theo con kỳ đà lớn. Tuy nhiên tam bá và con trai có mấy vết xướt lớn ở tay, chân. Kỳ đà lớn rất mạnh mẽ, không dễ bắt. Mấy nhà liên tục bắt được kỳ đà làm mọi người háo hức nghĩ sẽ còn mấy con khác trong rừng. Hôm sau hai ba nhà rủ nhau vào rừng, vừa đốn củi vừa tìm kiếm kỳ đà cầu may.

Hôm nay nương và ngũ cô chọn mấy cặp vịt đi bán ở chợ Sông Lớn. Mai không đi chợ làng mà ở nhà phụ Cúc tỷ trông coi lò ấp. Cha đi trong làng gặp Dương ông và Sùng bá xong trở về nói:

– Dương ông đồng ý vận động người trong làng vét ao sen trữ nước ngọt. Nhà Sùng ông có việc, giữa tháng đèn mới xong. Vậy cũng tốt, mình xong cái ghe năm bản này mới đi Giá Khê.

Xế chiều khi nương và ngũ cô về cùng ghe dì dượng năm, đúng là người Mai đang chờ. Bán được đèn cầy hay không phải nhờ dượng. Lúc ăn xong cơm chiều, dì giao tiền bán hàng lần trước, vui vẻ nói:

– Nương dặn muội nhắc hai sáu tháng này là a Sinh thành thân. Nhà tỷ thu xếp tham dự.

– Ừ, nhà tỷ sẽ về, còn chưa biết ai đi thôi.

Nương nhìn thoáng qua cha mới trả lời. Cha dự tính giữa tháng đào xong ao trữ nước sẽ đi Giá Khê và nhà ngoại luôn.

Thấy dì nói xong, a Phúc nôn nóng chạy đi ôm chén đèn và chụp đất nung ra khoe khoang. Mỗi người một câu kể chuyện muốn bán đèn. Dì cầm chụp đèn xem xét, đốt thử rất hứng thú.

– Ta mua trước cái này, rất tiện lợi. Định bán giá bao nhiêu?

A An lấy quyển sổ của hắn, nói cho cả nhà nghe:

– Tổ ong giá hơn nửa quan tuỳ loại lớn nhỏ, cái chụp và dĩa đựng tám mươi lăm văn, thêm công đúc đèn nữa. Mình bán một bộ gồm một chụp, dĩa và bốn cây đèn là một quan. Mua đèn thì bốn mươi văn một cây.

Hôm trước Mai đã thử đốt hết một cây đèn. Từ lúc chập tối đến đầu canh ba thì cháy hết. Nhà nông dân xài tiết kiệm giống cha nương thì cây đèn này đốt được gần ba đêm. Ngoài tiền công làm đèn, nhà Mai còn dư mật ong. Có thể bán riêng mật cho hiệu thuốc hoặc những nhà có người lớn tuổi, ốm yếu để bồi dưỡng cơ thể.

Dượng năm trầm tư suy nghĩ rồi nói:

– Tỷ phu có thể giao hết cho ta bán giá một quan hai, ta giữ hai phần lẻ còn lại là tỷ phu một quan.

Xem ra cái này có khả năng bán rất tốt nên dượng mới muốn ‘ôm’ bán độc quyền.

– Ta có thấy người ở Trấn Biên, Nam Vang dùng đèn loại này. Hình như màu trắng hơn, lớn hơn giá một quan một cặp. Trong mấy ngày lễ hội có loại màu đỏ, khắc rồng phượng, hổ hùng rất lớn cũng hơn mười quan một cặp.

Dượng đi nhiều nơi, tai nghe mắt thấy nhiều làm mọi người đều chăm chú nghe kể.

– Tỷ phu, ta có ý này. Tỷ phu chia ra nhà làm đèn, nhà làm chụp để tránh gây chú ý không tốt. Cái này không giống xưởng đóng ghe.

Đóng ghe kiếm ra tiền nhưng không phải ai cũng làm được, cần tay nghề và sự tỉ mỉ, khéo léo, còn cần nhiều sức lao động. Những nhà ít người là không khả năng làm. Còn việc đúc đèn tương đối đơn giản hơn. Mặc dù trong nhà chưa ai biết tỉ mỉ Mai làm thế nào, nhưng chỉ cần biết nguyên liệu từ sáp ong làm thử từ từ sẽ được. Dùng cách của dượng sẽ làm người có tâm làm theo chậm hơn một bước, nhà mình cũng kiếm thêm chút tiền.

Cha nương không rành buôn bán nhưng nghe dượng nhắc cũng hiểu ra.

– Dượng nói phải, ta làm theo cách này đi.

Cha ngừng một chút rồi nói:

– Để Sùng huynh chở chụp đèn đến nhà ngoại a Bình. Dượng chịu khó qua lại hai bên được không?

– Được, sao không được.

Lần này dì dượng cũng không ở lại lâu. Sáng ngày thứ hai theo cha đi gặp Sùng ông ở lò gốm. Cha kể dượng còn thương lượng là Sùng ông chỉ làm chụp này giao cho nhà ngoại, không làm cho nhà khác, còn nhờ trưởng làng đó làm chứng lăn tay trên văn tự.

Thật đúng là người làm ăn, rất lưu loát, quản thật chặt. Mấy đứa nhỏ mở to mắt nghe cha kể, đúng là mở rộng tầm mắt.

Trăng tháng hai vừa tròn thì nhà nội vào. Giống như lần gặt lúa, người lớn có sức khoẻ đều vào giúp. Cái ao được đào rất rộng, sâu gần sáu thước phía sau vườn rau. Lúc đào tới tầng nước thấp bên dưới, ông nội nếm thử nói:

– Tầng này nước lợ, làm bãi chăn vịt được.

Thế là mở rộng thêm ao nước, chia hai ao ngăn bởi bờ nhỏ. Bên rộng mà cạn là bãi chăn vịt, bên sâu hơn làm nước tưới cây và sinh hoạt.

Mấy ngày này Dương ông cũng dẫn mọi người đi vét ao sen. Nhà nào cũng có người đến làm, ba ngày đã xong. Mấy đứa nhỏ bị cảnh cáo không được đến gần ao chơi nữa, vì bây giờ ao đã sâu hơn tám thước rồi.

Ngày có nhiều người cùng đào ao, Dương ông nói chuyện đầu tháng đi nhờ người mời thầy đồ dạy chữ về làng. Tin này làm cho mọi người vừa phấn khởi vừa lo lắng hỏi han chuyện tiền học. Con học hành đỗ đạt ai chẳng muốn nhưng nghĩ đến tiền bạc hao tốn hơn mười năm không khỏi thở dài.Chương 79: Làng Giá Khê ThượngTrong xưởng gỗ, cha đưa tay lần theo vết ghép trát nhựa cây đã khô,

– Được rồi, hạ thuỷ đi.

Chỉ chờ có vậy, mấy người lớn cùng nhau kéo chiếc ghe năm bản theo ‘ray’ xuống cầu ván trước nhà. Ray này là ‘sáng tạo’ của Mai, thật ra là bắt chước cách người hiện đại làm đường ray để đưa ghe hạ thuỷ nhanh nhẹ hơn.

Chiếc ghe này được đóng lâu nhất, hơn tháng dài. Có điều hơn một tháng có là bao so với mấy năm chứ. Trước đây nhà ông nội phải dành dụm mấy năm mới mua được ghe đánh cá. Giờ con trai chỉ mất hai tháng đã đóng được, ông mừng biết bao nhiêu.

Chiều hôm đó đống lửa lớn ở sân sáng rực, ông nội uống mấy chén rượu nếp cùng Dương ông, Bùi ông kể chuyện xưa chuyện nay. Trời đứng gió, cái nóng ban ngày chưa tản đi, mấy đứa nhỏ không tụm quanh đống lửa nướng đồ ăn như mọi khi mà ngồi trên chiếc ghe mới chèo vòng vèo ngược xuôi trên con rạch trước nhà.

Hân ca dẫn đầu ôm gối chiếu ra muốn ngủ trên ghe tối nay. Trời nóng như vậy ngủ trên ghe đúng là mát mẻ, sướиɠ như tiên. Nhà nội vào đông người nên chỉ có đàn bà con gái ngủ trong nhà kín đáo, còn lại đều tự chọn ngủ ở xưởng gỗ hay trên ghe. Giờ có thêm chiếc ghe mới hạ thuỷ còn thơm mùi gỗ, mùi nhựa cây nên mấy đứa con trai giành nhau ngủ.

Trong bếp nhà sau, nhóm đàn bà đã ăn cơm xong đang ngồi nói chuyện, bà nội nói:

– Đúng dịp này, cả nhà đi thăm nhà sui gia. Ta và tiểu cô a Bình ở lại trông nhà giúp mấy ngày.

Nương đương nhiên là muốn rồi, chỉ ngại có người nói ra nói vào. Ngũ cô hiểu ý cười nói:

– Tẩu ngại gì, lần này cũng không phải đi chơi, có chuyện cần làm. Đi đông người có chuyện gì tính toán bàn bạc mới tốt.

Bà nội nghe ra ngũ cô có ý khác, nhìn nương,

– Mấy hôm trước nhà đông, có khách tới lui nên chưa nói cha nương biết. Lần này đi về nhà ngoại a Bình cũng có chuyện cần làm.

Bà nội nghe xong như không tin, kêu Mai ôm chụp đèn ra cho bà xem. Bà giật mình nhìn cây đèn màu vàng trong tay. Có những hình ảnh trong ký ức tưởng không bao giờ thấy nữa, bỗng nhiên gặp được không khỏi nhắc nhở đến những người xưa, cảnh cũ.

Trăng hạ tuần treo lơ lửng trên cao, Hoàng thị trằn trọc không ngủ được. Đã bao nhiêu năm rồi bà không còn nghĩ đến cảnh cũ, bốn mươi năm có lẻ rồi. Phụ thân, mẫu thân chắc không ai hương khói. Bào huynh, bào đệ còn mất ra sao, còn sống thì lưu lạc phương nào?

Ngày xưa bà cũng từng sống trong lầu son gác tía, bạch lạp (đèn cầy) lung linh, hoa đăng rực rỡ. Tất cả bà đã chôn vùi vào ký ức để yên phận làm người đàn bà lam lũ ở làng chài xa xôi, ẩn dật để tồn sinh. Quá khứ vàng son như là giấc mộng giữa đêm trăng, tỉnh giấc nhìn hiện thực chợt cất tiếng thở dài. Bên kia giường có tiếng trở mình, Hoàng thị khẽ lau hai giọt nước mắt chưa kịp rơi xuống chiếu.

Đêm thật tĩnh lặng. Lòng người ước gì cũng lặng như thế.

Theo lời bà nội, cả nhà Mai sắp xếp đi nhà ngoại. Ngoài bà nội và lục cô, a Bảo cũng ở lại đây phụ giúp làm việc. Ngũ cô dặn dò Vinh ca cách chăm sóc chục gà con, hái rau tươi xếp lên ghe tiễn nhà nội về làng chài.

Cha dẫn Vĩnh ca đi xin phép với Đỗ lang y. Nhìn cái ghe mới đang được xếp hành trang cả nhà lên.

– Tám người nhà ta lên đủ không?

– Đệ thấy đi hai cái mới đủ chỗ, cũng ở mấy ngày trên ghe đó.

– Nhưng ở nhà không có ghe, lúc nương cần làm sao?

– Còn cái ghe lường này, mà nương cần đi đâu có a Tương bên kia, lo gì.

– Nương thấy đi hai chiếc đi.

Bà nội ‘chốt’ lại ý kiến sau cùng. Cúc tỷ chia đồ đạc trên hai ghe, rộng chỗ hơn nên nhét thêm hai cặp gà, hai cặp vịt. A Phúc ôm con Mực, mang nó theo hay không đây?

Tối hôm trước khi đi a An đưa cho thất thúc túi tiền và quyển sổ nhỏ, dặn dò ghi chép chuyện mua bán ở nhà.

– Ca, mình mang theo một ít, mua thêm trứng gà nhà về lai giống.

Ở nhà dưới nương cũng vô phòng nói nhỏ với bà nội, lát sau mới đi ra.

Đêm này thế nhiên Mai mất ngủ, cứ nôn nao trong dạ như là trẻ nhỏ. Lúc trước, lần đầu được đi xa nhà mà Mai còn nhớ là đi Đà Lạt. Năm đó cô học lớp ba, cũng đi cả nhà theo đoàn công ty ba đang làm việc. Lần đó là mùa hè, lên tới Đà Lạt thì trời mưa liên tục hai ngày, trời ẩm ướt mà còn lạnh nữa. Mỗi sáng ba dậy sớm mua sữa đậu nành nóng hổi cho Mai và anh hai. Trời lạnh uống sữa nóng thật ngon! Ký ức giống như dòng nước lũ từ thượng nguồn đổ về, những chuyện tưởng đã quên bỗng nhiên nhớ lại. Lần đầu gặp anh Sơn là khi hai đứa cùng chọn chai Sting ở căn tin. Lâu rồi mình không nghĩ về anh ấy nữa, hai năm trung học rồi hai năm đại học cho mối tình đầu đơn phương, không dài lắm phải không?

Gà gáy canh tư rồi, phải ngủ một chút mới được! Xem như giấc mộng! Ngày mai mới là cuộc sống thực!

Mới chợp mắt một lát đã nghe tiếng nương thức dậy, nấu cơm ăn sáng. Mai lơ mơ làm theo cả nhà, thưa bà nội, lên ghe, chui vô mui ngủ tiếp. A Phúc cũng vậy, hai chị em được nương đắp mền, kéo phên tránh gió, ấm áp chìm vào giấc ngủ.

Đường từ Đông Hồ đi Giá Khê qua chợ Sông Lớn, dọc theo sông Giang Thành một đoạn. Sau đó có ngã ba rẽ vào con rạch hướng tây đi tiếp. Cha chèo ghe lớn phía sau, Bình ca cùng nương chèo ghe nhỏ đi trước.

– Đói bụng chưa, dậy ăn cơm nè.

Thấy hai đứa nhỏ thức dậy, Cúc tỷ kéo phên ra hỏi. Nắng sớm lấp lánh trên mặt sông. Hai bên bờ cây đước mọc thành rừng, thỉnh thoảng chen vào những mảng lau sậy chen chúc. Đi gần một canh giờ mà cảnh vật xung quanh cũng không thay đổi, giống như chỉ có một thước phim được chiếu liên tục. Đương nhiên là có thay đổi, núi Tô Châu ở bên phải đã từ từ chuyển ra sau lưng rồi.

Hơi buồn chán, Mai bẻ vội một nhánh cây chìa ra sông, xếp lá thử thổi, không kêu. Phải chi có con sáo sậu như Tương huynh để chọc nó hót thì hay biết mấy.

Một lúc sau bốn đứa nhóc trên xuồng cũng nghĩ ra được trò chơi chập ăn, trò rất đơn giản chọn mấy lá cây gần bằng nhau, đánh số từ một đến mười, mỗi đứa một bộ, tự xếp theo ý mình. Bốn đứa ra bài, lá nào lớn nhất thì ăn mấy lá kia. Thua là bị nhéo lỗ mũi.

Tiếng cười đùa vang trên bờ sông. Tiếng sủa của con Mực góp vui làm mấy con chim vụt bay lên. Giống như hiệu ứng domino từng nhóm kêu quang quác bay lên, tụi chim này cũng làm quá!

Bữa cơm trưa đơn giản bằng xôi đậu xanh ăn với tôm khô, cá kho. Trong nhà có An ca và a Phúc thích ăn xôi nhất, hắn còn khoa trương nói muốn ăn xôi thay cơm. Hai nải chuối chín ngọt lịm, Mai còn chấm thêm mật ong nữa, ăn thật ngon. Con Mực gặm xong cá khô cúi xuống thành ghe uống lấy uống để nước sông mát lạnh.

– Cha nghỉ chút đi, con chèo cho.

Cúc tỷ vừa rửa nồi xôi bằng nước sông vừa nói.

– Ừ, con giữ lái là được, không cần gắng sức chèo.

– Con biết.

Ghe nhỏ bên kia nương và Bình ca thay phiên chèo. Bên này cha một mình chèo từ khuya đến giờ đã rất mệt rồi. Mai dọn đồ trong mui gọn gàng để có chỗ cho cha ngã lưng. A An chưa đủ sức chèo ghe lớn, hắn trèo qua ghe nhỏ chèo thay Bình ca.

Giữa trưa hai chiếc ghe lặng lẽ, chậm chạp xuôi theo dòng. Tiếng chim cò gọi nhau, tiếng lá tràm xào xạc trong gió như điệu ru con của mẹ thiên nhiên mấy ngàn năm qua.

Mặt trời nghiêng dần về phía tây, bóng rừng tràm từ từ phủ lên mặt nước sông. Khoảng rừng này thưa hơn, thấp thoáng có vài mái nhà. Nương tấp ghe vào bờ, Bình ca bước lên cầu ván lung lay hỏi thăm làng Giá Khê.

– Xuống chút nữa, đến rừng cây giá, có con sông lớn ra biển là tới.

Xem ra gần đến nơi rồi, mấy lần trước Lý thúc cùng a Sao cũng khoảng giờ này đến nhà Mai. Cây giá gần giống như tràm, nhìn từ xa cũng không khác mấy. Nên khi ghe đến ngã ba con sông lớn rẽ hướng biển mới biết là đang ở trong rừng cây giá như người nọ chỉ.

Dòng nước chảy hơi xiết, ánh mặt trời chiếu thẳng vào mắt, Mai lấy nón lá cho cha đội. Mấy gốc cây nhiễm mặn sẫm màu, lớp vỏ ngoài bong tróc. Mùa khô mực nước xuống thấp, lộ ra khoảng thân cây xù xì gần hai thước.

Nhà gần bờ sông được dựng như kiểu nhà sàn, cao hơn mực nước nhiều. Có mấy cầu cây đi vào, đến gần ngôi nhà vang tiếng trẻ con khóc, nương hỏi vào:

– Tẩu cho hỏi đây là làng Giá Khê thượng phải không?

– Phải, thím tìm nhà ai?

– Ta tìm nhà Lý huynh, a Sao.

– Thím là thân nhân? Đằng kia, trong làng.

– Cảm ơn, không phải. Nhà ta ở Đông Hồ, có quen biết thôi.

Thấy nương chào cảm ơn xong, Bình ca chèo lên phía trước, làng Giá Khê thượng hiện ra trong, khói bếp lãng đãng trên vài nóc nhà lá.Chương 80: Bắt đầu một mối thâm giaoLàng này không lớn như Đông Hồ. Vài ngôi nhà dựng sát sông, đa số dựng trên khoảng đất cao phía trong. Thấy hai chiếc ghe nối đuôi neo đậu, vài người ra sân nhìn ngó.

– Tìm nhà ai?

Cha bước lên bờ, chắp tay nói:

– Ta tìm nhà Lý huynh, nhờ huynh chỉ đường.

– Nhà a Sao phải không? Đằng kia. A Sao ơi, có khách.

Vị bá bá này thật nhiệt tình, giọng vang vang cả làng đều nghe. Từ ngôi nhà nhỏ cuối làng, a Sao đi ra, lúc thấy mấy người nhà Mai hắn mới bước nhanh hơn đón. Cách đó mấy nhà, Trương bá ra sân thấy cha rất vui vẻ đi nhanh đến, chắp tay.

– Lê tứ đệ, không nghĩ là đệ đến. Đi, Lý đệ chắc vui lắm.

– Trương huynh vẫn khoẻ, đệ đến không báo trước mong huynh thứ lỗi.

– Không cần khách sáo, đệ đến lúc nào cũng hoan nghênh!

Vừa nói chuyện vừa đi, đến nhà Lý thúc đã chống nạng đi ra. Chào hỏi nhau rồi lần lượt vào nhà. Ngôi nhà ba gian rất đơn sơ, cột cây, mái lá. Để nhóm đàn ông vào nhà trước, nương hỏi a Sao:

– Ta xuống bếp phụ cháu nấu nước, đừng ngại.

– Dạ, cảm ơn thím.

Căn bếp càng sơ sài hơn, mấy cái nồi đất, chén úp lộn xộn trên giàn cây. Haiz, nhà không có đàn bà. A Sao ngượng ngùng nhìn nương và Cúc tỷ dọn dẹp, nhóm bếp. Bình ca, An ca mang theo gạo, nếp, khoai, đậu vào.

– Thím, không cần đâu. Nhà cháu có, ở trong này.

Hắn chỉ vào giàn cây gần vách buồng, trên kệ là mấy bao bố, gói lá, còn có mấy dây gai treo cá khô đủ loại lớn nhỏ, hình như có thịt rừng nữa.

– Không sao, cháu lên hỏi cha cháu xem chiều nay muốn ăn món gì? Xung quanh đây có rau rừng không? Dẫn a Vĩnh, a Mai đi hái sớm kẻo trời tối.

– Dạ.

Tiếng Lý thúc và Trương bá ở nhà trên bàn bạc:

– Nướng thịt cầy muối nhà ta đi, còn bình rượu nữa.

– Được, bắt hai con gà rừng nướng, khô cá lóc bông cho mấy cháu nhỏ.

– Được rồi, vậy đủ rồi.

Trương bá đứng dậy về nhà lấy rượu thịt, lúc quay lại có một vị bá mẫu và một bé gái theo sau.

– Ta và a Thảo đến phụ một tay. Thím cứ dặn.

– Tẩu nói vậy sao phải, tẩu quen việc ở đây. Ta làm theo là được.

A Sao dẫn mấy đứa ra vườn. Nói là vườn nhưng không trồng rau thẳng hàng lối như nhà Mai, mà bọn chúng mọc chen nhau. Mấy cây rau dền đỏ vươn cao hơn đầu người bị ngọn mồng tơi quấn xung quanh. Rau lang bò khắp nơi, còn có một đám rau dáng mọc dọc ven bờ gần tới nước. Con Mực chạy vòng quanh đánh hơi. Cả ngày nay ở trên ghe túng chân, nên lúc nãy lên bờ nó rất hưng phấn.

Ánh nắng bị rừng cây xung quanh che hết nên mặt trời vừa xuống thì trời tối rất nhanh. Đống lửa lớn được đốt lên cháy hừng hực. Trong sân có thêm thúc thúc của a Sao và Trương tam thúc.

Trương bá đi xuống bếp nói với Trương bá mẫu:

– Nàng ướp gia vị cho ngon, ta làm món gà nướng gia truyền đãi nhà Lê đệ.

– Được, chàng lo món cầy muối của chàng đi.

Lúc Trương bá đi lên sân trên, bá mẫu xì cười, nhìn nương thân thiết nói:

– Chàng cứ nhắc nhà thím hoài, nói không biết khi nào có dịp đến thăm thết đãi nhà thím mới hả lòng. Cả nhà ta ghi ơn nhà thím, không biết làm sao trả ơn này.

– Tẩu đừng nói vậy, Mấy nhà chúng ta thật lòng đối đãi là quý nhất rồi. Cái này cũng tính như chúng ta có duyên với nhau, phải không?

– Đúng, đúng, là chúng ta có duyên.

Nương bàn với bá mẫu nấu thêm nồi cháo đậu xanh. Mùa nóng ăn cháo đậu rất tốt, mấy đứa nhỏ không bị nổi mụt trăng trong miệng. Còn thêm nồi cơm nhỏ ăn với rau luộc, khô cá lóc bông. Nồi cơm là cho cha, ngày nào cha cũng ăn cơm buổi chiều tối mới ngủ yên. Nhớ lần trước cha đi làm heo Tết nhà Nguyễn bá, tối ăn tiệc đủ thứ, về nhà chỉ còn cơm, không có thức ăn mặn. Cha chỉ hái mấy trái ớt trong vườn rồi ăn hết chén cơm mới ngủ được.

Thím và hai đường đệ của a Sao đến lúc dọn bàn ăn. Thím có nước da ngăm đen, gương mặt hơi vuông có nhiều nếp nhăn ở trán và mắt, điển hình của người hay ‘nhăn mặt nhíu mày’. Thím ấy có vẻ ít cười ít nói, chỉ đơn giản một câu ‘Ta bận việc nhà’ để giải thích chuyện mình đến trễ.

Lúc hái rau xong a Sao chạy đi ra ven rừng ôm về nhánh lá tràm, hun khói đuổi muỗi. Mai chạy lại giúp hắn làm, cô đang lo tối nay ‘không yên’ với lũ muỗi đói.

– Từ đây đi ngã bảy phải ngủ lại một đêm ở Giồng Riềng hoặc Gò Quao. Mùa này Sông Lớn nước êm nhưng nhà đệ chưa đi lần nào, vẫn nên đi đường trong, xa hơn nhưng an toàn hơn.

– Đệ cũng tính vậy.

Trương bá rờ rờ hàm râu ngắn ở cằm, nói tiếp.

– Như vầy đi, nhà đệ ăn cơm trưa xong hẳn đi, ta và a Trám ngủ một đêm với đệ ở Giồng Riềng.

Ý Trương bá là sợ nhà Mai neo ghe ở chỗ lạ không an toàn. Cha Mai cũng hiểu ý, hơi ngập ngừng rồi đồng ý, chắp tay nói: – Đa tạ Trương huynh.

– Không cần, không cần. Ta nói ba nhà chúng ta đừng khách khí mà thành xa lạ.

– Phải,

– Phải,

Cha và Lý thúc gật đầu nói phải, lại tiếp tục mấy chuyện trên trời dưới đất. Thịt gà nướng thơm lừng, ăn rất ngon, vừa mềm vừa thơm, có vị quế và tiêu.

– Thịt gà ngon quá, đúng là gia truyền nhà Trương bá.

Nghe a Phúc khen ngon, Trương bá mẫu bật cười nói với lên bàn trên.

– Chàng kể món gà gia truyền cho a Phúc nghe đi, nó hỏi nè.

Mọi người cười làm nhà Mai ngạc nhiên, có ẩn tình gì đây. Trương bá e hèm một cái rồi kể. Mấy năm trước, hai huynh đệ vào rừng săn thú, mải theo con mồi bị lạc đường phải ngủ đêm trong rừng.

Sáng hôm sau phát hiện lương khô mang theo bị đàn khỉ tha đi gần hết, đành làm thịt con gà rừng săn được hôm qua đem nướng. Lúc đi ra vũng nước rửa thịt thì thấy xung quanh có mùi thơm, tìm một lát phát hiện mùi thơm từ vỏ cây gần đó, còn tìm được mấy chùm trái nhỏ nhỏ có vị cay nồng. Trương bá cắt nhuyễn vỏ cây, làm dập ít hạt cay trộn với muối rồi xát lên thịt gà. Lúc gà được nướng thì mùi thơm và vị làm người ta muốn chảy nước miếng, thịt ăn rất ngon còn ấm bụng, tinh thần thoải mái, hưng phấn.

Bá ấy mới lấy về nhà chỉ bá mẫu ướp vào thịt khi nướng, ai ăn cũng khen, mấy lúc trời mưa lạnh ăn vào rất ấm áp. Từ đó, mấy nhà trong làng Giá Khê Thượng đều hỏi cách làm.

– Đây là cách làm món ăn đặc biệt ở làng ta, đệ đi nơi khác không có đâu.

Cha Mai gật đầu nói phải, mọi người lại cười cái rần. Buổi tối trôi qua cũng nhanh, ba mẹ con Mai được ngủ trong buồng với a Phúc, mấy đứa con trai cùng a Sao ngủ ngoài ghe. Trương bá, Lý thúc và cha còn chưa nói chuyện xong nên cùng nằm ở ván gỗ nhà trước tâm sự đến khuya. Lạ chỗ nên Mai ngủ lơ mơ, Cúc tỷ cũng vậy, hai chị em xoay qua lại làm giường kêu cọt kẹt. Nương vươn tay vỗ vỗ hai đứa. Trằn trọc mãi cũng ngủ một lát.

Buổi sáng trong rừng xôn xao tiếng chim kêu, tiếng vượn hú, tiếng ong vo ve trên những ngọn cây. Dưới mặt nước là những lớp lá mục, lớp phù sa bồi tụ, qua nhiều năm tháng con rạch nhỏ bị lấp dần chỉ còn là những vũng lầy. Chiếc ghe khó khăn mới tiến dần vào trong.

– A Sao, bình thường ngươi đi vào đây bằng cách nào?

Chiếc ghe nhà a Sao đã bán để có tiền thang thuốc cho Lý thúc, Mưu sinh trong rừng ngập mặn này không có ghe xuồng thì làm sao? Dùng chiếc bè tạm ở con rạch kia sao.

A Sao giả như không nghe Mai hỏi, chỉ dùng cây gạt đi những dây leo giăng ngang giăng dọc để Bình ca chèo tiếp. Cây giá có thân thẳng, mọc san sát thành rừng. Đến điểm cụt của con rạch, mấy đứa theo chân a Sao đi vào khu đất cao có nhiều cây cổ thụ, thân lớn cỡ hai ba đứa trẻ ôm không hết. A Sao vừa đi vừa quan sát mấy tán cây.

– Nhìn kìa, tổ ong này ta để ý lâu rồi. Đợi nó lớn hơn sẽ mang về.

Len lỏi trong rừng, mấy đứa nhỏ lần đầu tiên được dẫn vào rừng rất ngạc nhiên và phấn khích. Theo chân a Sao thu hoạch được không ít, tổ trứng chim, trứng gà rừng, tổ ong mật, mấy loại rau rừng, trái cây nữa. Đang rướn người bẻ nhánh trái ô môi, bỗng độp, mấy trái bần ai chọi trúng vai.

Là đàn khỉ rừng, có ba con khỉ lớn nhỏ kêu chít chít trên cành cây bên kia.

– Không sao đâu, bọn chúng chỉ đùa giỡn thôi.

A Sao vội chạy qua, cành cây trong tay khua khua đuổi chúng đi.

– Trái này ăn được không tỷ?

A Phúc thấy tay Mai còn cầm nhánh trái ô môi nên hỏi, Mai nhìn a Sao như hỏi hắn (cô đương nhiên biết là ăn được).

– Ăn được, ngọt ngọt, nhưng mà ăn xong dính miệng đen thui.

Dù sao cũng ăn được, cứ hái về làm đồ ăn vặt cho vui miệng. Gom hái nhặt được một nửa ghe đủ thứ ‘lộc’ từ rừng mấy đứa mới hài lòng đi về. Lúc đi ra nước bắt đầu lớn, chỉ lờ mờ thấy được con rạch cũ, chốc lát nửa sẽ không nhìn ra, chỉ có thể phân biệt đường đi bằng những dấu vết dây leo bị bị kéo bỏ hoặc những nhánh cây gãy.

Khói bếp lượn lờ trên những mái nhà trong làng, người ở đây chỉ ăn ngày hai bữa nên bữa sáng trễ hơn so với nông dân làm ruộng. Trời khuya canh năm ở đây rất lạnh, sương sớm rất độc hại, nếu không phải bất đắc dĩ thì những người đi rừng không vào rừng quá sớm.

Mai nhìn ống quần bị rách do gai rừng, giờ Mai mới biết tại sao a Sao lấy dây gai buộc mấy nút ở đầu gối, ở vai áo. Giống như cái bếp lạnh tanh tối qua, ngày thường chắc hai cha con ăn đồ nướng trên đống lửa chứ ít khi nấu thức ăn hay nấu nước uống.

Đứa nhỏ không có mẹ như cỏ dại, cây hoang bên đường, dãi nắng dầm sương, một mình lớn lên.

– A Sao, con trèo hái mấy quài cao, chọn quài già, trái lớn.

– Dạ, cha.

Mai ôm rau vào bếp, kéo áo nương nói nhỏ mấy câu. Trong bếp ngoài Cúc tỷ còn có cô bé Thảo nhà Trương bá đang canh bếp. Nghe Trương bá mẫu nói a Thảo chỉ nhỏ hơn Mai mấy tháng, đã chín tuổi mà thấp hơn Mai nửa đầu, gầy nhom. Cô bé này trải qua tai nạn cá sấu lần trước chắc không khỏi chấn kinh, hơi nhút nhát.

Thấy nương và Cúc tỷ soạn kim chỉ vá quần áo cho a Sao, cô bé lại gần chăm chú nhìn. Mai hỏi bé:

– Muội biết may vá chưa?

– Chưa,

Cô bé lắc đầu không dám nhìn nữa, Mai cười nói:

– Để Cúc tỷ dạy muội.

Cô bé nhìn Cúc tỷ mong đợi, tỷ mỉm cười nói:

– Lại đây, để a Mai canh bếp cho.

Trương bá mẫu một mình lo cho a Thảo và hai đứa con trai nhỏ nên không có thời gian chỉ dẫn con gái lớn. Từ ngày gặp tai nạn cá sấu, bá mẫu cũng quan tâm nhà a Sao, nhưng lực bất tòng tâm, không lo đến những việc tỉ mẫn như người nhà được. Nếu a Thảo biết làm, để tâm giúp mấy việc trong nhà thì Lý thúc và a Sao cũng dễ dàng hơn.Chương 81: Khách thương hồMặt trời đứng bóng mọi người lên đường. Ba người đàn ông cầm chèo ba chiếc ghe nối đuôi nhau theo con sông nhỏ về hướng Giồng Riềng. Lý thúc cương quyết cầm chèo chiếc ghe nhỏ nhà Mai. Qua mấy tháng tập luyện cho chân phải cụt đến đầu gối, hai tay thúc ấy đã khoẻ hơn. Thúc ấy khéo léo di chuyển từ cầu ván lên ghe, chậm chạp nhưng thúc ấy không nhờ ai giúp, tự mình chống đỡ.

Hai bên bờ sông hẹp xanh xanh rừng cây. Trương bá cừa chèo vừa kể chuyện xưa ở vùng này. Làng ông trước đây gọi là làng nội, dọc theo con rạch đó hướng ra biển còn hai làng nữa là làng trung và làng ngoại. Tên làng Giá Khê Thượng là gọi chung cả ba làng nhỏ này. Hạ lưu Sông Lớn còn mấy làng lần lượt là Giá Khê Trung, Giá Khê Hạ.

Trước đây làng ngoại Giá Khê rất sung túc, trù phú. Người Việt, người Chân Lạp cùng sống chung hơn năm mái nhà. Còn có ngôi chùa lớn của người Chân Lạp do ông Lục coi sóc. Cách đây hơn mười năm, giặc Xiêm la vào cướp bóc, bắt phụ nữ và đàn ông lên thuyền chở đi. Dân chúng bỏ chạy trốn vào chùa, bọn chúng còn chưa đến mức xông vào chùa gϊếŧ người, nhưng bao vây xung quanh. Ông Lục phải đưa cho bọn chúng chuông đồng, đỉnh bạc và các món đồ quí giá trong chùa bọn chúng mới rời đi.

Trước khi đi bọn chúng ào vào làng trung tìm kiếm, nhưng không thấy được vật quí giá nên quay ra biển giông buồm ra đảo.

Những năm sau đó, dân chúng vẫn còn lo sợ, lớp bỏ đi, lớp ở lại. Ai cũng phải làm lại từ đầu, cuộc sống dân ổn định nhưng không phô trương như trước.

Có những gia đình xứ khác đến dựng nhà sinh sống. Việc mưu sinh trong rừng ngập mặn tuy không đói kém nhưng cũng không dư giả.

– Ta thấy làm nông như đệ ổn định hơn, ít ra không lo đói. Chỉ là dòng họ đều ở đây, đi không nỡ.

Càng đi vào phía trong, cây xanh hai bên bờ đa dạng hơn. Bèo li ti kết thành mảng trôi lênh đênh trên sông. Mấy con rạch lớn nhỏ tạo thành ngã ba ngã tư như đan lược. Nếu không phải quen đi lại trên sông chắc chắn sẽ lạc đường. Bây giờ Mai mới hiểu vì sao người ta gọi tên làng, tên sông theo tên của cây rừng. Vì đi trên sông chỉ phân biệt được khoảng cách khi rừng cây hai bên thay đổi. Có làng tên là làng Bèo vì khúc sông ở làng đó dày đặc bèo từ các nơi trôi về.

– Lần tới đi Trấn Giang ta sẽ đến thăm thúc phụ. Mấy ngày này còn bận chút việc, không theo nhà đệ đến được.

Có lẽ một phần Trương bá biết nhà ông ngoại làm Lễ thành thân Sinh ca nên không tiện đến. Cha nói rõ tên làng và nhà ông ngoại cho Trương bá và Lý thúc biết.

Giống như hôm qua, mặt trời vừa xuống biển thì chỉ còn những tia nắng le lói trên những ngọn cây. Không gian sáng mờ mờ, gió vờn trên mặt nước mang hơi ẩm và lạnh.

– Đó là chợ Giồng Riêng, ngày chợ phiên cũng nhộn nhịp lắm. Lão thê nhà ta hay đi chợ này, mấy lúc săn được đồ quý mới đi Trấn Giang bán.

Trương bá chỉ một khoảng đất gò cao. Cây cối thưa thớt nhưng có mấy cây cổ thụ rễ lồi lên mặt đất. Ba chiếc ghe neo lại ở cầu ván. Nương đưa mấy đứa nhỏ nồi, thức ăn mang lên gò đất. Mấy người lớn lên trước đã làm xong hai bếp lửa, kiếm củi, nhóm bếp.

Người ở đây có mấy loại bếp lửa, bếp ở trong nhà là bếp ba chân là dùng ba cục đá lớn hình chữ nhật kê chụm đầu. Có nhà khá giả thì mua chân bếp bằng đất sét nung, hình dáng thuôn nhỏ thuận tiện khi đút củi vào. Bếp đốt ở sân nhà để nướng thức ăn, hoặc dùng chiếu sáng (tiết kiệm dầu) thì chỉ là những cây củi lớn chụm lại rồi cứ thuận tay ném củi nhỏ vào, nướng thịt cá thì gói trong lá chuối. Bếp ‘dã ngoại’ là loại bếp dùng cho người đi rừng hoặc phải dừng lại ngủ đêm như nhà Mai thì có thêm ba cây gỗ lớn chụm lại phía trên đống lửa để treo nồi nấu thức ăn. Có khi bên dưới mặt đất được đào lỗ nướng gà, cá lóc.

Lúc trưa Lý thúc xỏ mang ba con cá lóc bông lớn, giờ đã được gói lá cây vùi xuống đất dưới bếp lửa. Bữa cơm chiều có cơm, cá nướng, khô mực và nồi nước ấm mật ong gừng. Ăn cơm xong, Bình ca rót chén rượu cho Trương bá, mấy đứa con trai ngồi xung quanh nghe người lớn nói chuyện. Phía xa trong gò đất có mấy bếp lửa bập bùng, cũng có nhiều nhà sống xung quanh đây. Nương và Cúc tỷ dọn dẹp xong tránh lên ghe ngồi. Mai còn nhỏ tuổi nên nương không kéo đi theo để cô ngồi bên bếp lửa ‘hóng chuyện’.

Rượu uống được ba tuần thì cha đằng hắng một tiếng rồi nói:

– Lần này đến thăm là Lý đệ là có chuyện muốn nhờ.

Lý thúc nghe vậy đã đáp ứng:

– Lê huynh có gì cứ nói, đệ sẽ hết sức làm.

– A, là như vầy nhà ta cần mua nhiều tổ ong, đệ cũng hay vào rừng nên bỏ thêm ít công lấy tổ ong được không?

– Trời, tưởng chuyện gì, cái này là đương nhiên, huynh cần nhiều ít cứ nói.

– Cái này là việc làm ăn, ta còn nhờ nhà ngoại a Bình làm cùng, nên a, a … một tổ ong lớn giống như lần trước là nửa quan, đệ thấy được không?

– Hả, không cần, ta không nhận tiền nhà huynh.

Cha giơ tay có ý ngăn lời Lý thúc nói tiếp,

– Thật sự là chuyện làm ăn. Nếu đệ không nhận tiền ta quả thật không lấy tổ ong nhà đệ mà phải tìm nhà khác mua.

– Thật?

Nãy giờ Trương bá nghe hai người nói chuyện, giờ mới chen lời hỏi.

– Thật đó Trương huynh. Như lời huynh nói, ba nhà chúng ta không cần khách khí. Nhưng chuyện này đệ là nói thật lòng.

– Được, đệ cần bao nhiêu tổ ong?

Trương bá rất quyết đoán, thay Lý thúc nhận lời.

– Tháng này là 10 tổ. Nếu cần thêm đệ nhắn người báo qua.

Lần này Trương bá nhìn Lý thúc nói:

– Đệ và a Sao tìm đủ?

– Đủ, cũng không khó, chỉ là,…

– Đệ không nên giữ kẽ, làm mất giao tình mấy nhà chúng ta.

An ca rất đúng lúc đưa cha túi vải xanh leng keng tiếng mấy đồng tiền kẽm chạm nhau. Cha đưa cho Trương bá:

– Nhờ huynh giữ hộ ba quan này, là đệ trả trước sáu tổ ong.

– Cái này, huynh để sau đi. – Ha ha ha,

Trương bá rất sảng khoái cười lớn, cầm túi tiền trong tay.

– Được, được, ta nhận.

Xem ra chuyện này đã quyết xong rồi. Lý thúc cũng biết vậy, rót rượu mời Trương bá và cha nói:

– Đệ cảm tạ hai huynh chiếu cố.

Uống thêm hai tuần rượu nữa có một chiếc ghe lớn cập vào. Mọi người đều đứng dậy nhìn hai bóng người đi vào, người đi đầu chắp tay chào hỏi từ xa.

– Ta họ Trần, ở vũng Đông Hồ, chào huynh đệ.

– Là Trần huynh sao? Đệ là Lê tứ đây,

– A, là Lê đệ, may quá!

Trong giọng nói đều nghe ra vẻ nhẹ nhõm. Trời đã tối chỉ thấy bóng, lúc đến gần bếp lửa thấy là người quen, cả hai phía đều vui vẻ chào hỏi, giới thiệu.

– Là đệ đệ kết nghĩa của ta Trần Si.

Trần bá giới thiệu người đi cùng, trẻ hơn cha nhưng rất vạm vỡ, chắc nịch.

– Ta đi mua một ít lúa gạo ở quanh đây, không kịp về Đông Hồ nên ghé đây nghỉ một đêm.

Chiếc ghe Trần bá chở khẳm, thành ghe gần chạm mép nước. Hai người mới nhập vào uống mấy chén rượu rồi mới thư thả ăn mấy củ khoai lang được vùi trong lửa với cá lóc nướng. Xem ra họ quen thuộc ăn uống như vậy.

– Thời tiết năm rồi thuận lợi, thu hoạch khá nên ta đi mua giá cũng rẻ.

– Vậy huynh bán đi đâu?

Câu hỏi này với người đánh cá, làm ruộng thì rất đúng, nhưng đối với thương lái, thương hồ thì có vẻ ‘ngu ngơ’. Thu hoạch được mùa người nông dân sẽ bán lương thực dư để mua sắm đồ dùng trong nhà. Nhà nào cũng bán thì giá sẽ giảm, thương lái sẽ mua dự trữ để bán giá cao kiếm lời những năm mất mùa. Nhưng cũng không thể dự trữ quá lâu, lúa gạo cũ dễ bị nấm mốc ăn không được.

Năm nay thời tiết cũng khá thuận lợi. Theo lời ông nội xem trăng và kinh nghiệm của những người lớn trong làng thì sẽ có thêm một năm được mùa. Do vậy cha mới không hiểu Trần bá mua lúa gạo bán đi đâu?

Trần bá cân nhắc một hồi mới chậm rãi nói:

– Mấy tháng nay các chành đi Trấn Biên, Đề Ngạn đều ráo riết thu mua lúa gạo. Từ ngày Dinh Trấn Biên (1), Phiên An (2) được lập thì dân cư dần đông đúc. Haiz, ta cũng là nghe nói thôi, trước mắt cứ bán cho nhà chành, lời ít hơn chút.

Tin tức thương lái luôn biết sớm hơn mọi người, Mai nghĩ chắc là đúng rồi.

– Ta nghe nói Nguyễn gia đã đi chành Mỹ Tho rồi.

Nguyễn gia mà Trần bá nói là nhà ngoại Tương huynh, không biết huynh ấy có đi theo lần này không.

Mấy đứa nhỏ nghe được vài chuyện thì cha bảo đi ngủ. Mọi người đều ngủ trên ghe, ba mẹ con Mai và a Phúc ngủ trong mui ghe lớn. Nương đã mang mấy tấm đệm đan bằng lát để trên ghe nhỏ. Đang mùa nắng nóng, mấy người đàn ông chắc ngủ bên ngoài không chui vào mui kín đáo, chỉ cần tấm đệm lót lưng cho êm là được.

Chỉ giữ lại một đống lửa, thảy vô mấy cây gỗ lớn ít ra cũng cháy được đến khuya.

Lần đầu tiên ngủ trên ghe, không có sóng lớn nhưng chiếc ghe cũng dập dềnh. Nước mặn không lấn sâu vào chợ này nên trong không khí chỉ hơi hơi có mùi mặn, chỉ những lúc sắp ngủ thanh tịnh mới nhận ra.

Có thêm Trương bá và cha con Lý thúc làm buổi tối hôm nay trôi qua rất tốt. Nếu không có mình cha ở đây với một nhà đàn bà con nít cũng hơi sợ. Mai thầm nghĩ sẽ ghi nhớ ân tình của hai nhà, có dịp sẽ đền đáp.

Mai không nghĩ là Trần bá làm ăn lớn và đi nhiều nơi như vậy. Nghề thương lái hay thương hồ phải lênh đênh rày đây mai đó. Không phải ai cũng làm được. Nhớ lại sự cảnh giác và căng thẳng lúc Trần bá đến cũng biết nghề này nguy hiểm không nhỏ. Vị nghĩa đệ của Trần bá chắc có võ nghệ. Thúc ấy chỉ nói rất ít, như muốn hòa vào xung quanh. Nhưng Mai cảm giác thúc ấy luôn nghe ngóng từng âm thanh từ xa vọng đến để phán đoán, đề phòng.

A Sao theo mấy đứa con trai ngủ trên ghe nhỏ nhà Mai. Gió đêm thổi lành lạnh qua mặt nhưng hắn không thấy lạnh chút nào. Cảm giác xúc động vẫn còn, nhẹ giơ tay sờ túi tiền trong ngực áo, là ba quan Lê bá đưa. Lúc nãy Trương bá nói là ông say rượu sợ rớt mất tiền nên đưa hắn giữ, thật ra ai cũng hiểu ý nghĩa của nó.

Nhìn mấy ngôi sao lấp lánh trên bầu trời. Hắn nhớ lúc nhỏ nương chỉ vào ngôi sao sáng nhất, luôn đứng ở phương bắc nói: Đó là ngôi sao may mắn, sẽ chỉ đường cho con khi đi rừng, khi đánh cá trên sông. Bây giờ đối với cha và hắn thì ngôi sao may mắn là nhà Lê bá. Mấy tháng trước, trên đường theo cha tìm lang y. Hắn tuyệt vọng nghĩ là cha sẽ chết, hắn cũng sẽ chết. Nhưng rồi ở nhà Lê bá, hắn ngồi trên ván nhìn hai đứa bé còn nhỏ hơn hắn lần lượt băng bó vết thương cho cha, cho hắn, nấu thức ăn bồi bổ cơ thể. Giống như phép màu khi cha tỉnh lại, từ từ hồi phục.

Từ ngày cha và hắn về làng, ai cũng nhìn bằng đôi mắt thương hại. Hắn đã cắn răng bỏ qua, không nghĩ đến. Nhà tam thúc giằng co chuyện hai miếng gỗ trầm hương, nếu không phải do cha tìm thấy chúng chắc thím ba sẽ không chỉ nặng nhẹ mà để mặc cha bệnh tật. Từ lần đó hai nhà gần như không qua lại.

Khi cha đã qua nguy hiểm thì trong nhà cũng không còn gì, lội rừng săn thú, bắt cá đổi gạo qua ngày. Hôm qua nhà Lê bá đến, nhà cửa trống trơn, bếp lạnh tanh không có gì đãi khách làm hắn ngượng cúi mặt. Nhờ Trương bá giúp đỡ mới có bữa cơm thịnh soạn. Bá mẫu để lại gạo, muối, đậu, khoai trên kệ sau bếp, còn vá quần áo cho hắn. Hắn đều thấy đều tự nói với mình ‘sau này, sau này mình lớn sẽ trả ân tình này’.

Việc mua bán tổ ong lần này chính là mang gạo cho người đói kém. Một mình hắn có thể làm được, mấy quan tiền này sẽ cho cha và hắn qua những ngày khó khăn. ‘Mong cho chuyện làm ăn nhà Lê bá thuận lợi’ hắn thầm nhủ rồi dần chìm vào giấc ngủ.(1): Trấn Biên là Biên Hòa ngày nay

(2): Phiên An là Sài Gòn – Chợ Lớn ngày nay.

Địa giới các Trấn, tỉnh ở Nam kỳ thay đổi rất nhiều qua thời gian do chiến tranh, sáp nhập – chia cắt nên tên gọi và ranh giới không thật sự giống nguyên từ xưa đến nay. Độc giả tra cứu chi tiết trong chính sử để hiểu rõ hơn.Chương 82: Dọn cướiBuổi sáng ở đây không có tiếng gà, Trần bá nhìn trăng sao mà đoán thời gian. Cha cảm ơn Trương bá, Lý thúc; chào từ biệt huynh đệ Trần bá rồi xuôi ghe về hướng Trấn Giang. Hai chiếc ghe kia ngược về Giá Khê và Đông Hồ.

Tối qua Trần bá đã chỉ đường rất cẩn thận. Dù hơn hai năm nay nương không về nhà ngoại nhưng hướng đi cũng nhớ rõ, cảnh vật hai bên cũng không thay đổi nhiều. Những rừng cây tràm, cây đước vẫn sinh sôi xanh mát. Chỉ có những ngôi làng hay chợ ven sông thay đổi, nương chỉ vào ngôi làng phía trong rừng cây thưa.

– Mấy năm trước ở đây chỉ có ba ngôi nhà, bây giờ nhiều hơn rồi.

– Phía trong kia có ngôi chùa rất linh thiêng. Mấy nhà phú hộ ở trấn năm nào cũng đến Lễ Phật cầu an.

Nương giống như đang nhớ lại ký ức thời con gái, càng gần đến nhà ngoại nương càng vui vẻ kể rất nhiều chuyện xưa. Chuyện năm lũ về ngập lênh láng, trấn trên cũng ngập sâu. Chuyện lúc tám tuổi cậu hai lạc trong rừng gần một tháng không về, tìm không thấy. Bà ngoại khóc cạn nước mắt định lén lập bàn thờ cho cậu (trẻ con yểu mạng không được thờ). Đến lúc cậu về quần áo rách bươm nhưng rất khỏe mạnh còn gánh theo gà rừng, thỏ rừng về nhà.

Nương rất nhớ quê! Dù đang sống vui vẻ với chồng con nhưng nương vẫn dành riêng trong lòng nỗi nhớ về quê mình. Có lẽ ai cũng vậy, ai cũng có riêng một khoảng trời tuổi thơ trong ký ức, trong tim.

Mặt trời gần xuống biển, ánh nắng gay gắt nhuộm đỏ mấy đám mây phía chân trời. Nương chỉ phía trước nói:

– Đến ngã này rẽ là đến nhà ngoại rồi, phía trước mặt sông rộng là ngã bảy sông đó. Ông ngoại con nói tất cả sông lớn đều chảy về đó, thấy không?

Nhìn theo hướng nương chỉ là mặt sông mênh mông, chỉ thấy mảng xanh ở bên kia bờ, ghe nhỏ chắc không dám sang bên kia. Nếu vào mùa nước lũ sẽ mênh mông cỡ nào? Có phải không nhìn thấy bờ luôn?

Ngôi làng nhà ngoại gần giống làng Đông Hồ. Nhà cửa cách nhau xa, bước chân xuống sau nhà là ruộng lúa, phía trước sân lớn, trước nữa là đường đất ven bờ sông. Không cần nương chỉ, cha và Bình ca đều cập vào một ngôi nhà gần giữa làng. Thật ra dễ nhận ra sự khác biệt vì cầu ván nhà ngoại đã đậu ba chiếc ghe. Hai chiếc trong đó là của cậu và dì dượng năm. Hơn nữa nếu đến gần hơn sẽ thấy hàng cột trước hiên có dán chữ Hỷ đỏ tươi, trong nhà cũng truyền ra tiếng trò chuyện vui vẻ.

Bước qua mấy che ghe đậu trước, An ca dẫn đầu đi lên cầu ván. A Phúc luồn qua chạy vào sân kêu lớn:

– Bà ngoại, bà ngoại,

Trong nhà nghe tiếng im lặng một chút rồi có mấy người đi ra.

– Nhà tỷ phu đến rồi, nương ơi.

Là dì năm ra trước, báo vào trong. Tiếp sau là tiếng chào hỏi, đón tiếp rộn ràng, mang đồ từ ghe lên nhà. Lúc vào nhà thì thấy ông ngoại, cậu hai và Sinh ca vẫn ở nhà trên. Hình như cậu đang dạy Sinh ca các nghi thức đón dâu, quỳ lạy bàn thờ tổ tiên trong lễ thành thân.

Ông bà ngoại có bốn người con, nương Mai là thứ ba, cậu tư vắng số năm lên bốn tuổi, chỉ có nhà cậu hai ở cùng ông bà. Cậu hai có bốn con trai, thật ra là năm, đặt tên rất có vần là Nhân Sinh Hữu Cơ Duyên. Nhân ca bệnh mất lúc chưa tròn một tuổi. Do vậy Sinh ca là cháu nội đầu tiên lập gia thất nên tổ chức trọng hơn bình thường.

Ngày mốt là Lễ đón dâu nên hôm nay cũng chưa có khách. Mâm quả được phủ vải điều xếp trên bộ ván nhà trên. Mợ hai đang nấu cơm nhà bếp, lên chào đón nhà Mai mà tay còn cầm đôi đũa bếp.

Cha và dượng năm bước lên nhà trên thưa ông ngoại, còn lại đều xuống nhà dưới với bà ngoại và dì năm. Dẹp xong đồ thì nương và Cúc tỷ vào bếp phụ nấu nướng. Dì năm thấy quài cau và thúng lá trầu xnh thì tấm tắc khen rồi nói:

– Nương ơi, cau nhà tỷ phu mang đến nhìn ngon hơn, con sắp mâm cau trầu được không?

– Ừ, con chọn đi, trầu để ngày mai dì ba Tầm qua têm.

– Dạ,

Nhà ngoại rộng gần bằng nhà nội, lại ít người nên không ngăn vách nhiều phòng. Nhà sau xếp hai bộ sạp tre lớn, một cái bàn tròn đã cũ nước gỗ lên đen bóng loáng. Bà nội kêu Hữu ca:

– Con lên thưa ông nội nghỉ ăn cơm chiều.

Hai bàn cơm được dọn lên, bụng Mai đã kêu đói từ xế. Vì đi gấp cho kịp nên bữa sáng và bữa trưa đều ăn vội trên ghe. Bà ngoại cười vuốt đầu a Phúc nói:

– Thấy mấy đứa đến giờ này là ta biết không dừng lại nấu cơm. Ba ngày nay ăn nguội uống lạnh phải không?

– Dạ.

A Phúc thật thà gật đầu, bị nương nhéo ngay hông, hắn ngồi sát vào bà ngoại. Nhà ngoại có con Vàng to lớn, làm con Mực từ lúc đến đây hơi lép vế, im lặng theo sau đuôi a Phúc. Nó thấy bắt đầu ăn cơm cũng mừng quýnh, vẫy đuôi rối rít.

Bữa cơm chiều ăn sớm nên ăn xong trời còn sáng rỡ. Nhóm đàn ông con trai lo sắp xếp nhà trên. Nhóm đàn bà con gái lo nhà dưới, thức ăn nấu món gì, ai làm.

– Ta có nhờ mấy dì mấy cháu gái qua phụ, sáng mai mới qua. Giờ nhà mình làm được gì thì cứ làm. Đãi chín mâm, coi đủ chưa, sáng mai đi chợ nhớ mua cho đủ.

– Dạ,

Mợ hai đáp lời ngoại rồi kéo nương, dì năm ngồi xuống sạp tre bàn tính. Mai nói: – Mợ nói các món ăn ra đi, cháu ghi lại sẽ không quên.

Mai kêu An ca, Vĩnh ca đi làm nhanh bảng đất sét, bắt đầu công việc ‘thư ký’.

– Hai món khai vị, ba món chính sau đó là trà rượu trái cây,…

Tiếp theo là nhìn xem mỗi món cần nguyên liệu gì, ở nhà có chưa, cần mua bao nhiêu. Đúng là không dễ dàng chút nào. Ba đứa nhỏ chỉ biết vài chữ, làm sao ghi được. Nhiều lần Mai bí quá xém chút viết chữ Quốc Ngữ xuống bảng.

Ba đứa nhỏ thì không nhớ nhưng người lớn nhớ rất nhanh. Nói một lát đã tự phân ra ai mua gì, bao nhiêu, không cần ghi chép gì cả. Cuối cùng bảng đất được tụi nhỏ dùng chơi ca rô. Hữu ca bằng tuổi Bình ca nên theo nhóm đàn ông lo chuyện nhà trên. Chỉ còn a Cơ và a Duyên thấy trò chơi mới lạ nên ngồi chơi rất hứng thú. Trời gần tối cũng không còn nhiều việc, người lớn cũng để mặc mẫy đứa nhỏ chơi đùa vui vẻ. Còn mang bảng ra gần đống lửa ngoài sân tiếp tục ‘chiến đấu’ đến khi đi ngủ mới thôi.

Sáng hôm sau, mợ hai và dì năm đi chợ rất sớm. Mấy bà, mấy thím nhà gần đó lần lượt qua làm giúp hái rau, làm gà, vịt, làm bánh kẹo. Nhà sau nhộn nhịp, nhà trước cũng không thua kém. Tối qua ông ngoại nói mượn ghe nhà Mai đi rước dâu nên sáng nay bắt đầu thắt lá dừa trang trí, dán chữ hỷ đỏ trên ghe. Nhóm đàn ông trong làng cũng đều đến giúp dọn bàn ghế. Mai không thấy dựng rạp làm mái che, có lẽ là mùa nắng nên không cần. Bàn cũng không phải chín cái cho chín mâm đãi khách mà là bốn cái bàn xếp ở hiên trước, cái bàn dài chính trước bàn thờ.

Bà làm mai và người lớn đại diện đàng trai đã đến, ông bà ngoại lên nhà trên tiếp khách. Cậu mợ hai và Sinh ca đứng sau nghe nói chuyện ngày lễ ngày mai. Mấy đứa nhỏ rón rén rình nghe đều bị Bình ca nhéo lỗ tai xách đi ra.

Ăn cơm trưa xong có sáu thiếu niên cỡ tuổi Sinh ca bắt đầu được cậu hai hướng dẫn cách bưng mâm quả, còn có một thiếu niên sáng láng làm rể phụ nữa. Chú rể Sinh ca sẽ mặc quần áo vải đỏ, đầu quấn khăn. Có dải lụa đỏ thêu mấy chữ Nôm đang được bà mai xem, bà thắt thành dạng hoa rất cẩn thận. Quần áo của Trưởng họ ông ngoại cũng là màu đỏ, nhưng sậm hơn cũng được mang ra hong nóng, làm thẳng.

Bên kia mấy thiếu niên đang xem quần áo, khăn giày. Bên này Trưởng họ hỏi bà mai:

– Nhà gái là ai đại diện vây?

– Thưa, là ông cố nội cô dâu, cũng là trưởng họ Lâm miệt này.

Ông có vẻ hài lòng gật đầu, ngang vai vế với ông. Theo Mai biết ông là thúc phụ ông ngoại, cũng đang là trưởng họ Nguyễn ở nơi này. Mai là cháu ngoại chắt của ông. Lúc hai mâm trầu cau mang lên bà mai xin phép đến xem. Cau tươi, trái đều đặn còn giữ nhánh mập mạp, trầu được têm khéo léo làm bà hài lòng, đậy nắp rồi phủ khăn đỏ lên. Cặp đèn cầy đỏ lớn được đắp hoa văn giống hình chữ hỷ mà không phải khắc rồng phượng như hiện đại. Thời này rồng phượng là đại biểu của hoàng tộc; giống như màu vàng không được dùng phổ biến vì sẽ phạm huý kỵ

Đến chiều mọi việc đã gần xong, ông bà ngoại dọn mâm cơm mời mọi người. Mấy đứa nhỏ không được ngồi bàn như ngày thường mà đợi khách dùng xong mới ngồi ăn ở sạp tre. Còn nghe người lớn dặn dò ngày mai không được lên nhà trên làm rộn.

Nhà gái cách đây mấy con rạch nhỏ, đi bộ chừng nửa canh giờ, đi ghe khoảng hơn hai khắc là đến, là ở cùng làng của mợ hai. Theo tục lệ thì hôm nay nhà gái đang đãi tiệc họ hàng, bà mai ngồi ăn trầu với bà ngoại nói:

– Chút nữa ta qua bên đó báo là nhà trai chuẩn bị chu đáo rồi. Sáng mai ta qua sớm, đến giờ lành mình khởi hành.

– Đa tạ thím.

– Khách khí cái gì, hai nhà đúng là môn đăng hộ đối, là do Nguyệt lão se duyên. Thôi ta đi đây.

Bà ngoại đứng dậy, kêu Hữu ca mượn ghe đưa bà mai đi. Sở dĩ phải mượn ghe vì năm chiếc dùng đi rước dâu ngày mai đã cột vải đỏ không thể dùng được. Tân phòng của Sinh ca cũng bị khoá lại. Mấy đứa nhỏ bị răn đe không được lén nhìn vào, là kiêng kỵ rất nghiêm.

Lúc Hữu ca về, bà ngoại kéo ca ấy hỏi tình hình nhà gái. Hữu ca nói nhà gái đang đãi khách. Hiên nhà có ba bàn, trong nhà trên cũng có nhiều người lớn trong họ.

– Con không nhìn lâu.

– Ừ, vậy mới phải.

Bà ngoại gật đầu, chỉ là tò mò hỏi cho biết vậy thôi. Có bà mai ở giữa qua lại nên cũng biết đôi chút tình hình hai nhà.

– Nương ơi, tối nay nấu nồi cháo vịt lớn để cha mời khách phải không?

– Ừ, làm thêm mấy con cá lóc nướng để cha con mời rượu hàng xóm. Nhớ nấu bình nước nóng pha trà.

– Dạ.

Nghe bà ngoại sắp xếp thì nương Mai, Cúc tỷ xuống bếp chuẩn bị. Mợ hai đang hong quần áo cho ông bà ngoại, cậu mợ để mặc vào ngày mai. Quần áo vải gai mặc ngày thường thì không cần hong. Hơn nữa nhà nông tay lắm chân bùn cũng không để ý cái này. Nhưng quần áo vải hoặc lụa mặc trong các dịp lễ quan trọng phải được phun nước rồi hong nóng cho thẳng thớm. Lúc trước nhà Mai làm mấy cái móc gỗ cho nhà ông bà ngoại dùng rất thích. Quần áo tốt, ít mặc được treo lên sẽ không bị nhăn nhúm, giờ mang ra hong rất nhanh.

– Mang khăn đầu ra đây nương vấn.

Bà ngoại nói với mợ. Mai tò mò đi lại ngồi gần xem ngoại làm. Công việc này không dễ dàng, cần có sự khéo léo, nương, dì năm và Cúc tỷ đều đứng gần đó xem.Chương 83: Lễ Thành HônĐàn ông hoặc thiếu niên qua mười sáu tuổi đều có khăn quấn đầu. Ngày thường là dùng khăn nâu hay chàm, ngày lễ dùng khăn hồng hay lục.

Sau khi hong xong khăn vải, mợ hai mang đến cho bà ngoại. Mợ ngồi xuống phía trước để ngoại vấn khăn. Bên cạnh bà là chén đựng bột gạo hồ còn âm ấm và mấy cây kim nhỏ.

– Ngày mai bận rộn, ta hồ sẵn khăn.

Bà ngoại xếp vải thành dải rộng gần một gần một tấc. Bắt đầu từ sau ót bên dưới búi tóc vấn lên trên đỉnh đầu, từng vòng từng vòng chồng lên nhau, cứ mỗi vòng bà lấy kim cố định, trét một ít hồ gạo lên.

– Có chặt quá không?

– Dạ không nương.

– Lúc vấn phải đều tay, búi tóc chặt trước. Nếu mình tự vấn có thể lên cao gần trán chút, làm việc cũng không sợ xổ ra.

Đến vòng cuối ngoại ghim kim và dán chặt ở phía trong, chưa một khoảng đuôi vải lòn ra phía sau giấu vào búi tóc. Cách này làm khăn dính vào búi tóc khó rớt hoặc dịch qua lại trên đầu.

– Lúc vấn khăn cho trượng phu thì búi tóc cao lên. Phía trước ở trán xếp hình chữ nhất cho khéo, các nếp phải đều đặn, bề bản cỡ hai ba thốn tay là được.

Đúng là không dễ dàng. Mai còn nhỏ nên cô hay vuốt hết tóc ra sau gáy, buộc túm lại rồi xẻ đôi đuôi tóc qua hai vai là xong. Có hôm cô kéo tóc thắt thành bím để ở một bên, nương chỉ nhìn rồi cũng không quản.

Trời tối dần, chỉ còn vài người khách là hàng xóm được cha Mai, dượng năm tiếp đãi trước hiên. Nhóm này vừa nói chuyện vừa nhìn vào trong xem cậu hai dạy Sinh ca cách hành lễ trước bàn thờ tổ tiên ở nhà gái và nhà mình ngày mai. Ông ngoại ngồi tiếp Trưởng họ trên bộ ván gỗ quan sát. Chú rể phụ đứng sau lưng Sinh ca cùng nghe dạy. Nghe nói huynh ấy cũng đã đính hôn, tháng tư này sẽ thành hôn với cô dâu ở trấn trên.

Sáng nay mặt trời lên sớm. Giờ lành khởi hành rước dâu thật nhộn nhịp. Ai nấy vui vẻ hỏi nhau xem đã đầy đủ chưa, còn thiếu cái gì không. Rể phụ được trưởng họ báo giờ lành thì đốt phong pháo nhỏ trước cổng nhà rồi cụ ấy dẫn đầu đám rước ra cầu ván xuống ghe. Cha, dượng năm và ba người hàng xóm làm người chèo, năm chiếc ghe cột vải đỏ phất phơ theo con sông thẳng tiến.

Mai kéo tay không cho a Phúc chạy lại nhặt pháo. Lúc cô lớn lên thì không đốt pháo vào dịp lễ Tết nữa nhưng tai nạn của pháo cô vẫn có nghe. A Phúc nhăn nhó nhìn mấy đứa nhỏ khác hí hửng nhặt pháo lép. Đợi khi Mai buông tay hắn thì trên mặt đất chỉ còn lại xác pháo bằng giấy đỏ rải rác. Hai phong pháo dùng cho lễ rước dâu này không rẻ tiền chút nào. Chỉ có thương lái từ Chánh Dinh vào đây mới có.

Đám rước dâu đi thì những người ở nhà thở nhẹ một hơi, đã hoàn thành một phần lễ rồi. Giờ tiếp tục cho phần lễ tiệc cho nhà gái và khách. Gần hai canh giờ đám rước về đến, từ xa Hữu ca chống ghe nhanh về báo cho bà ngoại. Ghe đầu tiên có trưởng họ, người lớn hai họ và tân lang tân nương, bốn ghe sau có một ghe đàng trai, ba ghe đàng gái.

Tân nương mặc quần áo đỏ, đầu đội khăn đỏ được bà mai và dâu phụ dìu lên bờ. Tiếng pháo đùng đùng vang dội làm không khí thêm vui tươi. Ai cũng hiếu kỳ muốn xem mặt cô dâu. Thiếu nữ nhà nông cũng ra đồng làm việc, ra chợ mua bán nên nhiều người biết mặt. Tuy nhiên ngày cưới tân nương được trang điểm, ăn mặc khác ngày thường nên mọi người cũng muốn xem.

Hơn nữa việc cùng nhau trêu ghẹo tân lang tân nương trong ngày thành hôn đã thành lệ. Cặp đôi càng được yêu quí thì mới được trêu ghẹo, chúc mừng uyên ương phỉ thuý, cầm sắc hoà minh. Lễ bái bàn thờ tổ tiên diễn ra tuần tự, long trọng.

Mai bị nương kéo xuống nhà sau phụ việc lặt vặt không cho chen vào xem. Cô chỉ thấy thoảng trong không khí có mùi nhang trầm và tiếng nói chuyện giữa hai trưởng họ.

Tân nương được dẫn vàp phòng tân hôn thì Hữu ca xuống bếp nói với mợ:

– Nương, bắt đầu đãi khách đàng gái.

– Ừ, con nói Bằng ca xong rồi.

Bằng ca là rể phụ cũng là cháu họ của mợ hai. Phần nghi lễ đã xong, mọi người đều vui vẻ dự phần tiệc. Thức ăn, trà rượu được mang lên, theo vai vế của người đàng gái mà được xếp ngồi vào các bàn. Trong lễ thành hôn ngoài cô dâu và bà mai chỉ có sáu thiếu nữ bưng mâm quả, phụ dâu đàng gái đi theo, còn lại đều là đàn ông con trai. Đàng gái đưa dâu cũng không nhiều, một bàn nam, một bàn nữ và mấy vị đại diện như trưởng họ, ông, cha tân nương ngồi bàn chính nhà trên. Nhà gái dùng tiệc xong đứng dậy ra về, khách đàng trai cũng vừa đến.

Mai và mấy đứa nhỏ đói bụng được Cúc tỷ dọn một ít thức ăn trên cái chiếu lát sân sau. Thức ăn rất phong phú có thịt heo, gà, vịt, cá tôm. Bình ca, Hữu ca cũng chạy ra ăn chung. Hai người chạy việc vặt hai hôm nay đều mỏi rã rời; tuổi lại không đủ lớn để mời rượu khách hay ngồi mâm nên đương nhiên rất đói.

Lễ thành hôn thường đàng trai vất vả hơn, dù sao cũng là rước con dâu về. Sau này tân nương là người nhà mình, cả đời làm việc cho nhà mình, cái này có tính là mệt một lần lợi một đời không đây?

Ăn xong mấy đứa nhỏ cũng không vội lên nhà trên, An ca lôi mấy viên pháo nhặt được ra xem, mấy đứa con trai đều bu lại xem viên nào còn, viên nào hư. Cơ ca nói:

– Hôm Mùng một Tết, trấn trên có nhà đốt phong pháo lớn, dài gần hai thước đó.

– Thiệt?

– Thiệt, Sinh ca nói họ khai trương tửu lâu cũng đốt một phong dài, còn có múa lân nữa, nhưng mà cha nương không cho đi xem. Sinh ca đi bán gà có xem một chút. Haiz, mấy đứa nhỏ đều than thở tiếc nuối. Tụi nó mới chỉ nghe chưa được xem múa lân. Mai nghĩ lúc làm lễ thành hôn sẽ có trống lân nhưng cũng chỉ nhà giàu mới có.

Mặt trời vừa tắt là lúc bắt đầu lễ dâng trà rượu ra mắt song thân của tân lang tân nương. Ông bà ngoại ngồi hai ghế đầu, kế đến là cậu mợ hai, cha nương Mai, rồi dì dượng năm. Sinh ca lớn nhất nhà trong hàng cháu nên mấy đứa còn lại đều đứng sau lưng ghế.

Sinh ca dẫn tân nương từ tân phòng ra, đã tháo khăn đội đầu xuống, chỉ còn mặc trang phục tân nương màu đỏ. Gương mặt tân nương hơi ửng đỏ, là thẹn hay căng thẳng?

Ông ngoại bước lên đốt nhang bàn thờ, nói lớn:

– Hôm nay ngày lành, tháng tốt, đích tôn Nguyễn Văn Sinh cùng đích nữ Lâm thị kết thành phu phụ. Dâng cúng tổ tiên trà rượu, lễ bái. Cầu xin tổ tiên gia hộ hai trẻ vĩnh kết đồng tâm, trăm năm hảo hợp.

Nói rồi ông quay sang nói tân lang tân nương,

– Dâng hương rồi lạy tạ tổ tiên bốn lại.

Mai thấy Sinh ca phải đứng lên quỳ xuống liên tục bốn lạy rất vất vả. Cả ngày hôm nay cũng mấy chục lạy rồi. Tân nương thì đỡ hơn, tẩu ấy chỉ ngồi bên cạnh lạy cùng Sinh ca.

Sau đó là dâng trà cho ông ngoại, miếng trầu cho bà ngoại, quỳ nghe hai người răn dạy đạo hiếu, đạo làm chồng làm vợ. Tiếp là cha nương (cậu mợ hai) cũng nhận trà, trầu, cũng nói mấy câu; đến phiên hai gia đình cô dượng, cha và dượng chỉ đơn giản nói tân nương tân lang cố gắng làm tròn đạo hiếu với ông bà rồi đứng dậy để vào mâm trầu rượu hồng bao làm quà tặng. Đến phiên mấy đứa nhỏ vui vẻ chào tam tẩu (1). Lễ xong tân nương chính thức làm dâu trong nhà, thay hỉ phục rồi xuống bếp giúp dọn dẹp. Thật ra cũng không có gì nhiều, mọi việc đều tranh thủ làm lúc trời còn sáng.

Mợ hai chỉ mấy việc cần làm rồi nói:

– Làm xong con dọn mâm cơm, lúc chiều vội vã tam cô và ngũ cô chưa ăn no.

– Dạ nương.

Tân nương có giọng nói dịu dàng, dáng người thon cao. Mái tóc vẫn còn búi cầu kỳ theo kiểu tân nương, bộ quần áo vải xanh còn mới tinh. Cúc tỷ phụ dọn mâm cơm nói:

– Tẩu lên mời ông bà đi, cậu mợ, dì dượng nữa.

– Được.

Mời hết một vòng chỉ có mợ kéo nương Mai, dì năm, Cúc tỷ ngồi xuống ăn. Tân nương đứng sau lưng mợ giúp bới cơm. Cúc tỷ không quen nên tự mình bới cơm, ăn hết một chén cũng đứng dậy. Mợ hai nhìn về phía bà ngoai một chút rồi đằng hắng nói:

– A Cúc, ăn thêm chén nữa đi, con dâu cũng đói rồi, ngồi xuống ăn chung đi.

– Dạ con no rồi,

– Dạ con ăn sau.

Hai người Cúc tỷ và tân nương đều nói cùng lúc. Bà ngoại ngồi ở góc sạp tre chọn lá trầu nói:

– Nương cháu có xin với bà là không cần hầu hạ. Nhà mình nông dân cũng không nhiều lễ tiết gì. Ta nói cháu biết sau này hiếu thảo người lớn, chăm sóc đệ muội.

– Dạ, cháu nghe lời bà.

Tân nương lễ phép nói rồi từ từ ngồi xuống bàn ăn cơm.

Tính ra bà ngoại và mợ hai đã bàn trước rồi, không cần con dâu mới hầu hạ cơm nước như gia đình khác. Thật ra Mai không rõ ‘hầu hạ’ là làm những gì, có giống nô tỳ trong mấy phim cổ trang không. Nhưng lúc nãy thấy tẩu ấy đứng bới cơm trong khi người khác ngồi ăn cơm đã thấy khó chịu, cũng may là bà ngoại và mợ lên tiếng bỏ đi.(1): gọi là tam tẩu vì người ta vẫn tính đứa con trai đầu tên Nhân đã mất.Chương 84: Ngã bảy – Nơi sông và người tương hộiSáng hôm sau, tân nương dậy thật sớm, khi gà còn chưa gáy canh năm. Lúc Mai dậy thì đã có cơm sáng rồi, hai bàn ăn nhà trên, nhà dưới đều vui vẻ. Lúc ăn cơm xong dượng năm bước xuống mời bà ngoại và mấy người lớn lên nói chuyện, đám nhỏ cũng đi theo.

Dượng mở đầu:

– Hôm trước trong nhà lo việc thành hôn của a Sinh nên nhà tỷ phu và con chưa nói với cha nương và nhị cửu ca. Giờ có mặt cả nhà con xin thưa chuyện.

Ông ngoại và cậu hai thấy dượng nghiêm trọng vậy cũng thẳng lưng nghe. Mai nháy mắt cười với cậu hai làm cậu vui vẻ ngoắc tay. Mai chen lên đứng sau lưng cậu. Cha nương thay nhau kể chuyện làm đèn cầy, rồi chuyện dượng năm định nhờ nhà ngoại nhận chụp đèn để phân tán chú ý bên ngoài.

– Theo ước hẹn với Sùng thúc ở lò gốm, ngày mai thúc ấy làm xong, chở đến đây cũng mất ba ngày. Xin cha nương cho phép.

Nghe xong ông bà ngoại đều cầm xem cặp đèn cầy vàng nhạt Bình ca để trên bàn.

– Ta thấy chuyện này làm được. Hai đứa phải đi lại nhiều từ đây xuống Đông Hồ, vậy mấy chuyện buôn bán khác thì sao?

– Nếu buôn bán thuận lợi, mỗi tháng xuống Đông Hồ một lần. Con xin cha cho a Sinh đi. Mấy lúc thu hoạch thì vợ chồng con đi, cha đừng lo.

Dượng năm quả là khéo tính toán. Sinh ca vừa thành thân, cái này cũng tính là để ca ấy ra làm ăn, ông bà ngoại và cậu mợ đương nhiên đồng ý. Dì năm vui vẻ nháy mắt với Sinh ca, biết chuyện này tốt nên ca ấy cũng nhếch môi cười. Xem ra công lao dì năm không nhỏ, có câu ‘thổi gió bên tai’ của đàn bà công hiệu khôn lường.

– Là con nghĩ ra cách làm bạch lạp này sao?

Mai giật mình nhìn cậu, sao hỏi đúng ngay chỗ cha nương lơ mơ.

– Là có người cúng dường đèn này cho sư ông. Cháu đốt lên ngửi giống sáp ong nên thử.

Mai nhanh nhảu trả lời, rồi đánh trống lãng:

– Ở trấn trên có bán đèn này chưa dượng?

– Có hai nhà bán, một nhà bán hồng lạp, một nhà có bán thêm bạch lạp. Đều là thương lái mua từ Chánh Dinh hoặc Hội An Phố do các thương nhân ngoại bang mang sang.

Mai đoán đúng chuyện dượng năm đã thăm dò tình hình mua bán đèn này. Tin tức dượng có còn chi tiết hơn mình nghĩ.

– Ba mươi chụp đó con định cất giữ ở đâu?

Nhà ngoại tuy rộng nhưng cũng không thể để mấy chục cái chụp ở nhà trên hay nhà dưới được. Ông ngoại nghĩ nghĩ rồi đứng dậy.

– Theo ta ra xem chái nhà đi.

Thấy việc chính đã xong, nhóm đàn bà không đi theo ông ngoại mà xuống nhà dưới vừa dọn dẹp vừa nói chuyện. Chén dĩa hôm qua dùng có một ít là mượn của mấy nhà quen trong làng, rửa xong mang ra phơi nắng khô ráo đem trả. Bàn ghế cũng vậy, Sinh ca chỉ dẫn mấy đứa con trai khiêng lên ghe trả lại.

– Nhà con đóng ghe rồi giờ làm bạch lạp nữa, chịu nổi không?

– Dạ cũng ráng làm, có thất thúc và đường ca của a Bình làm phụ, rồi ngũ cô nữa. Lần này đi cũng nhờ nhà nội a Bình vô trông nhà. Đàn gà, đàn vịt không lỡ bữa được.

– Ừ, may có nhà sui gia hỗ trợ, con phải biết qua lại, biết không?

– Con biết nương, mấy đứa nhỏ hiếu thuận lắm.

Mai thấy Bình ca chống ghe ra cũng nhảy lên theo. Dù sao việc nhà cũng không cần cô làm, cô muốn đi xem khung cảnh xung quanh.

Mùa khô nên mực nước sông không cao, mấy bụi cây lát, dừa nước ven sông đều phô ra phần gốc ngập nước đen thui, xơ xác. Trên cánh đồng rải rác bóng người đang cuốc đất, làm cỏ. Có người đang gom cỏ khô, mồi rơm đốt đồng.

– Tới rồi a Bình,

Hữu ca kêu lên, xách năm cái ghế bước lên cầu ván mang vào trả. Mỗi nhà chỉ có bàn ghế đủ dùng hàng ngày, mỗi khi có tiệc đãi khách sẽ đi mượn xung quanh, đã thành nếp sống trong làng xóm. Đi xa hơn một đoạn Hữu ca lại trả thêm mấy nhà thì xong.

– Ca, mình ra ngã bảy kia chơi một chút đi.

Từ ngã rẽ ra ngã bảy con sông rộng hơn, a Bình chèo dọc theo bờ. Mai nhìn mấy con còng gió đủ màu chạy nhanh như gió vô hang, con mắt râu thậm thụt ở miệng hang như canh chừng kẻ thù. Mấy con cá thòi lòi nhảy lạch chạch trốn trong mấy bẹ dừa nước, loại ở đây nhỏ hơn ở Đông Hồ nhiều.

Gió từ sông lớn thổi vào mát rượi, mang theo vị ngọt, không làm rát da như gió biển. Ngược dòng bên kia sông có hai chiếc bè. Chiếc trước do người đàn ông chống kéo chiếc sau có hai đứa bé vui vẻ giỡn nước, đi được một đoạn họ rẽ vào nhánh sông nhỏ.

Đến gần ngã bảy, gió lộng tứ bề. Rìa đất rộng bên trái có gò đất cao, cây cối xanh um, có mấy gian nhà và vài chiếc ghe đang neo đậu.

– Chưa đến chợ phiên mà,

Mai nửa hỏi nửa nói với Hữu ca.

– Ừ, hai ngày nữa mới là chợ phiên. Thương lái thường đến đây mua bán nên họ neo lại chờ chợ phiên luôn. Chiếc lớn đó là họ hàng của dượng năm đó.

Ba đứa nhỏ không dám băng ngang sông mà theo lời a Hữu cập theo vàm sông quay lại nhà. A Hữu chỉ tay phía trước mặt nói:

– Theo sông này một đoạn là đến đầu nguồn lũ. Mấy năm nước lũ tràn bờ từ đó, đi ra đó hoặc theo phía trong này đều lên trấn trên.

– Ca lên trấn trên nhiều lần lắm hả?

– Không nhiều như cha với Sinh ca. Vừa rồi cha nương đi nhiều lần để chuẩn bị đồ cưới của Sinh ca.

Lúc về đến nhà thì thấy nhóm người lớn đang chuẩn bị cột, lá phía sau vườn. Ông ngoại muốn dựng thêm chái nhà làm chỗ đặt chụp đèn. Theo Mai nghe được, nhà Mai và dì dượng đều ở lại thêm hai ngày mới đi, dù sao cũng đã mấy năm mới có dịp gặp nhau.

Mai càng thích, cô muốn nhìn thêm xung quanh nơi đây. Lúc nãy ngồi trên ghe loáng thoáng thấy nhà nào ở đây cũng có nhiều cây cau, xoài trong vườn. Có thể tìm xem có cam, bưởi nữa không? Ở đây đất đai màu mỡ, phì nhiêu, cây trái sẽ đa dạng hơn ở Đông Hồ.

Sân sau phơi đầy những tấm vải màu chàm, lục, đỏ trên dây thừng giăng ngang dọc. Chen ở giữa là giàn cây phơi chén, dĩa, nồi. Ra đến vườn đã thấy Vĩnh ca và Cúc tỷ ở đây. Cúc tỷ đang hái mướp, rau dền xanh. Vĩnh ca thì săm soi đám cây bạc hà, cạnh chân là cái rổ nhỏ trống không, thấy Mai ra ca ngoắc tay nói:

– A Mai, mang bạc hà về nhà trồng?

Bạc hà có rất nhiều công dụng, làm gia vị rau mùi nấu ăn còn có thể trị bệnh vặt, chiết xuất tinh dầu.

– Được, mình đào cả gốc về chắc được, ca nhìn nè.

Trong vườn còn có cây lá quế, bụi ngò, bụi thơm còn có cải xanh nữa, trúng mánh rồi! Mai cười hớn hở nói:

– Ca, mình xin hết luôn đi, chút ca hỏi ông ngoại, cậu hai cách trồng.

– Được.

– Đi ra ngoài xem, lúc nãy muội thấy có mấy cây có trái to ăn được.

Cách vườn rau một đoạn là miếng đất gò trồng cây lớn theo hàng, hai đứa nhỏ đi vào trong. Vĩnh ca nhìn mấy hàng cây nói:

– Muội không nhớ à? Vườn này có lâu rồi, cây sa bô chê nè, cái này mãng cầu.

Vĩnh ca rành rọt chỉ từng cây nói.

– Cây này giống cây ô môi ở nhà Sao ca, phải không?

Trong góc vườn có hàng cây tán rộng, lá xanh um, đúng rồi, là cây ô môi. Những trái ô môi nâu nâu, cong cong, rụng xuống đất cũng sẽ lẫn vào trong đất. Đặt Mai vào giữa rừng cây xanh lá này cô sẽ không phân biệt được cây nào là nào. Chỉ khi nào chúng ra trái thì mới biết, đáng trách hay đáng thương cho những người trẻ sống ở thành thị!

Cúc tỷ hái rau xong đã vào bếp. Lát sau thấy a Phúc và con Mực lăng xăng chạy ra, a Duyên cũng theo sau. A Duyên lớn hơn Mai một tuổi, nhưng do vai vế nên Cúc tỷ cũng phải gọi hắn là Duyên ca. Dáng người hắn hơi giống cậu, kiểu thon dài nhưng gương mặt thì hơi giống bà ngoại Mai.

Theo lời nương kể, cậu rất mong có con gái nên hơi thất vọng lúc a Duyên sinh ra; còn bị ông bà ngoại la rầy chuyện này. Thời này có con trai nhiều mới tốt. Năm sau đó nương sinh Mai, lại có gương mặt hơi giống cậu nên được ưu ái.

Xế chiều mấy món đồ mượn hàng xóm được rửa sạch, phơi khô nên bà ngoại dẫn theo nương Mai đi trả, sẵn dịp nương thăm hỏi người quen trong làng. Có nhà của dì ba Hương ở chợ Sông Lớn. Mai nhờ Cúc tỷ giúp làm mấy sọt tre lớn nhỏ để đào gốc cây con mang về, tam tẩu cũng đến giúp.

Dù là ở Đông Hồ, Trấn Giang này hay trên dải đất rộng hơn của vùng sông nước hạ lưu sông Mekong đâu đâu cũng có tre. Đất màu mỡ phù sa hay đất nhiễm mặn tre đều có thể mọc thành rừng, thành luỹ, thật đáng nể!

Nhà nông luôn có sẵn trong nhà mấy bó lạt làm dây cột nhét trên vách lá. Mấy cây tre thẳng thớm phơi dốt trên sân. Thậm chí những lúc rãnh rỗi cũng đi chặt lá dừa lấy gân làm đủ loại chổi. Thấy mấy đứa nhỏ xúm nhau ngồi làm sọt tre, mợ lấy mứt gừng ra dĩa, chặt sẵn mấy trái dừa lấy nước. Mợ cũng ngồi xuống làm chổi bằng cọng lá dừa.

– Mợ, con thấy Lưu bá mẫu làm chổi rơm quét bếp, mợ dạy con làm đi.

– Ừ, chiều mát ra cây rơm với mợ.

– Dạ.

Chưa được nửa canh giờ thì có tiếng chân chạy bịch bịch xuống sân. Là hai bé trai cỡ tuổi Duyên ca, mặt mũi đen nhẻm, tóc dài qua vai buộc túm ra sau đầu, ánh mắt sáng lấp lánh, còn cười đưa hai cái răng cửa như răng thỏ. Mợ hai khoát tay nói:

– Đi chơi đi, ở đây làm rộn.

Vừa nghe mợ nói a Cơ, a Duyên đã đứng dậy, kéo theo a Vĩnh, a Phúc cùng đi. Sáu đứa nhóc và hai con chó thi nhau chạy bịch bịch ra hướng con sông trước nhà.

Vợ sinh ca cũng là người khéo tay, nhanh nhẹn vót nan tre, còn nhanh hơn Cúc tỷ. Mai nhìn mấy cây tre còn lại trên sân, sợ là không đủ làm, mợ cũng thấy vậy nói:

– A Mai ra nhờ cậu chặt thêm đi, cậu đang ở gò dừa nước bên kia.

Mai chưa kịp đi đã thấy An ca ôm tre vào, theo sau là cậu hai ôm bó lớn hơn. Cậu còn trêu Mai.

– Muốn nhổ hết cây vườn nhà cậu về Đông Hồ hả?

– Ha ha, cậu, mấy cây ăn trái kia làm sao?

Mai cười ha ha như là đúng ý, còn chỉ vườn cây ăn trái lớn.

– Để cậu tìm xem có cây nào còn nhỏ đào về trồng trước. Không có thì phải nhờ ông ngoại ươm hạt mới được.

– Vậy cậu dựng chái nhà xong, mình đi.

– Ừ, ha. Ta thấy a Phúc lội cũng giỏi hả,

Lúc trước cậu mợ đến nhà Mai còn thấy a Phúc bập bễnh kè bập dừa mới dám qua con rạch. Bây giờ thì không cần rồi, hắn còn lội đua với con Mực nữa. Trời còn nắng như vầy mà tụi nó cũng ào xuống sông, chẳng trách hai đứa bé kia đen nhẻm.

Khoảng qua giờ thân thì bà ngoại và nương về, chuẩn bị nấu cơm chiều. Nhìn hai nồi cơm lớn sôi sục sục trên bếp, Mai nghĩ về làm dâu nhà người ta mà không đủ sức nhắc nồi cơm sẽ ra sao? Chỉ có những nhà mới ra ở riêng thì mới ít người, chứ con cháu cưới dâu rồi thì nhà cũng đông. Cơm nấu bằng nồi đất thường sẽ cho nước hơi nhiều, lúc cơm sôi canh đúng lửa, gạo vừa nở thì ‘chắt’ nước cơm ra. Nước cơm này để dành cho mấy đứa bé trong nhà uống, rất bổ dưỡng. Người mẹ không đủ sữa cho con bú cũng hay dùng nước cơm thay sữa.

Có con dâu, giờ thêm cháu dâu và con gái nên bà ngoại không cần lo cơm nước. Bà ngồi xếp lại mấy lá trầu, chọn cau trên sạp tre. Bà ngoại, bà nội đều thương mấy anh em Mai nhưng cô cảm thấy thân thiết với bà nội hơn, có lẽ do thường xuyên ở chung. Hơn nữa bà ngoại cũng có vẻ thân thiết với Cúc tỷ. Cúc tỷ là con đầu lòng nên nương ở nhà ngoại lúc sanh, Cúc tỷ được bà ngoại chăm sóc khi vừa lọt lòng nên lưu luyến nơn.

Còn một nguyên nhân nữa Mai hơi ngại khi thân cận với bà ngoại là bà ngoại hay ăn trầu. Thời này đàn ông đàn bà lớn tuổi đều biết ăn trầu, đặc biệt trong lễ cưới gả. Hôm qua đãi khách, trưởng họ hai đàng, ông ngoại, cậu mợ đều ăn mấy miếng trầu. Lúc nãy nương theo bà ngoại đi thăm hỏi mấy nhà trong làng cũng có ăn ít trầu, theo thói quen Mai sẽ cách hơi xa chút.

– Con, sao không biết lớn nhỏ!

Nương phát tay vô hông Mai mắng nhỏ, ‘Nương nhận ra sao!’

– Miếng trầu là lễ là nghĩa với nhau, sau này gặp khách không được như vậy.

Mai dạ nhỏ, cô không bài xích chuyện ăn trầu, nhưng chắc chắn sau này cô sẽ không ăn. Tam tẩu có vẻ không hiểu sao ngoại lại rầy Mai, làm Cúc tỷ nhỏ giọng giải thích. Xem ra ở nhà ai cũng biết Mai không thích chuyện ăn trầu.

– Muội ấy có mấy tật lạ lùng, tánh kỳ, tẩu đừng để ý.

‘Ta thì dám ý kiến gì chứ’, Lâm thị tự nhủ, ‘cha chồng rất thương a Mai. Trong nhà cũng dung túng muội ấy, ai cũng nhận ra. Mình mới về làm dâu, nào có ý kiến. Mà muội ấy cũng không phải càn quấy, chỉ hơi lạ lùng chút. Ừ, đúng là lạ lùng, không giống mấy tiểu cô nương nhà khác, nhưng nghĩ kỹ ra không giống chỗ nào thì thật khó nói.’

Nghĩ như vậy nhưng Lâm thị cũng mỉm cười với a Cúc nói ‘ không có gì’.

Nhóm đàn ông đã mang cây, lá về sân trước. Cha và Bình ca thuần thục đυ.c đẽo đầu cột, làm mộng gác kèo. Ông ngoại có chút ngạc nhiên, không nghĩ con rể và cháu ngoại có tay nghề khá vậy. Ừ, đã đóng được ghe tam bản, ngũ bản rồi, tay nghề đương nhiên không tệ. Ngày mai dựng cột kèo, lợp lá một ngày chắc xong được rồi.

Cậu hai cũng ngạc nhiên nhìn hai người làm. Thấy sắc trời còn sớm, cậu gọi lớn:

– A Mai ơi, có đi với cậu không?- Dạ.

Mai vội chạy ra, còn kéo theo An ca đi chung.

– Cậu, mình đi ra vàm, chỗ chợ phiên đi.

– Ừ, gò đất ngoài đó có mấy cây con hồi mùa mưa mới lên.

Lúc sáng Mai cũng thấy nhiều cây con, cao cỡ hai thước mọc ven sông. Hơn nửa có một việc Mai muốn hỏi cậu để xác định thêm. Chưa đến một khắc đã cập ghe vào cầu ván đầu chợ. Trên gò đất cao giữa chợ, có mấy đống lửa làm bếp của khách ở lại.

– Hữu ca nói mấy sông lớn đều đổ qua đây hả cậu?

– Ừ, từ đây có thể đi về các vùng khác.

Rồi cậu chỉ hướng sông đi về trấn trên, có thể đi tiếp đến Trấn Biên. Hướng sông kia đi về Giá Khê, hướng ra biển. Mỗi ngã đi đến một nơi, mình cũng sẽ theo các con sông “thăm lại” vùng đồng bằng châu thổ này.

– Mùa khô, nước kém mới có thể đi, đến lúc nước lên thì có nguy hiểm. Mấy chỗ cửa sông phía dưới kia rất xiết, có nhiều ghe bị lật, lũ cuốn đi luôn.

Vừa nói cậu vừa sải bước tìm mấy cây con trong vườn chưa có, nói tiếp:

– Nhà cháu nước mặn, chưa chắc cây này sống được. Ta nghĩ cháu trồng chỗ gò đất cao, mùa khô thì hai ba ngày phải tưới nước ngọt.

– Dạ.

Hai đứa nhỏ gật đầu nghe cậu dặn, cậu biết rất rõ mấy cây này. Tuy là không trồng trong vườn nhưng cậu hiểu rõ làm sao để chúng lớn lên ra trái. Có lẽ chung quanh có rất nhiều, nên không thấy hiếm lạ. Mà bọn chúng mọc hoang cũng rất say trái, không cần người chăm sóc vẫn ra hoa kết quả.

Cậu đào xong mỗi gốc thì Mai dùng dây cột cành lá cho gọn, An ca ôm xuống ghe. Đất ẩm nhão làm quần áo ba cậu cháu đều dính bùn. Lúc trở ra ghe, cậu lên tiếng chào người quen gần đó. Đợi ghe đi xa ra khỏi vàm một đoạn, Mai hỏi:

– Cậu, mình neo ghe bán ở đây được không? Ở đây nhiều người qua lại hơn.

Mỗi năm nhà Mai đóng cỡ mười hai chiếc ghe. Nếu chỉ bán ở Đông Hồ, sẽ khó bán hết nên Mai vẫn để ý tìm thêm khách. Vị trí này giao giữa các dòng sông, rất thuận lợi.

A An nghe Mai hỏi cũng chăm chú nhìn quanh vàm. Lúc nãy cô kéo a An theo là có ý muốn hắn biết chuyện này. Thấy cậu hai nhìn ra mặt sông ngã bảy phía xa, Mai yên lặng chờ cậu quay mắt lại nhìn cô mới nói ‘kế hoạch sản xuất’ ghe.

– Cậu thấy ghe lớn năm lá đó. Thành ghe cao có thể vượt sông lớn nhưng giá khoảng hai mươi lăm quan nên ở Đông Hồ khó tìm khách mua. Nếu dượng năm có thể bán bạch lạp xung quanh đây, ghe lớn cũng có thể bán được.

– Trấn trên đã có xưởng đóng ghe hai ba chục năm rồi, nhà mình ra bán có sao không?

– Dạ, con có thấy chiếc ghe nhà Lưu bá mua ở xưởng đó. Con nghĩ có thêm xưởng nhà mình, người ta sẽ dễ dàng chọn lựa. Hơn nữa nhà cháu có tới ba cỡ ghe, mười lăm quan, hai mươi quan và hai mươi lăm quan.

Cả cậu và An ca đều giật mình, đúng rồi. Quả thật xưởng ở trấn trên chỉ có một cỡ ghe giống nhà Lưu bá giá hai mươi hai quan. Chỉ là a An chưa hề nghĩ đến lợi thế này. Mai thêm một liều thuốc an thần nữa:

– Con đã nghĩ ra một cỡ ghe nữa dùng cho mùa nước nổi. Lúc về nhà con sẽ vẽ để cha và Bình ca làm thử trước.

Cậu cười ha ha:

– Giỏi, a Bình nói con vẽ rất giỏi.

– Đương nhiên, con học chữ cũng rất nhanh.

Mai nghênh cằm nhỏ nói làm cậu, An ca đều cười.

– Cái này là chuyện lớn, để cậu bàn với ông ngoại đã. Trước mắt để xem dượng con bán đèn cầy như thế nào.

Mai hiểu chuyện gật đầu, vẫn còn thời gian để chuẩn bị.Chương 85: Về nhàLúc ăn cơm chiều a Phúc chạy vào ngồi kế Mai. Trời, đầu tóc hắn còn hôi mùi bùn non, chắc cả buổi chiều lặn hụp dưới sông.

– Tỷ, nhà kia có nuôi mấy con vịt, chúng khác vịt nhà mình. Với nữa, nhà ngoại nuôi ít gà hơn nhà mình.

Dì năm nghe hắn nói cười vui vẻ trêu:

– Đâu có ai nuôi gà giỏi như a Phúc. Năm nay a Phúc chắc kiếm được nhiều tiền lắm. Sắp là tiểu phú hộ rồi.

Tiếp theo mọi người hỏi thăm a Phúc đàn gà, đàn vịt của hắn. A Phúc rất hoạt bát, vui vẻ kể chuyện làm a Duyên rất hâm mộ dựa vào mợ xin cho hắn nuôi gà vịt. Ngoại nói với nương Mai:

– Ta có dặn nhà thím sáu Điền làng bên. Heo nái nhà thím tháng sau đẻ con, thím ấy giữ lại ba con nuôi, còn lại đều bán. Ta đi xem nếu heo con khoẻ mạnh thì mua cho nhà con.

– Dạ.

Bàn trên của đàn ông ăn xong thì Sinh ca, Bình ca dọn rượu và mấy món ăn ra sân trước, đốt lửa vừa uống rượu vừa nói chuyện. Ở đây nước chưa nhiễm mặn nên chuyện tắm rửa cũng thoải mái. Múc nước sông vô lu, lắng cặn phèn hai ba ngày là dùng được.

Ngày mai là ngày lại mặt (phản bái) của tân nương. Mợ và tam tẩu soạn mấy món lễ gồm trầu cau, trà rượu và bánh da (là bánh ngọt làm từ bột nếp, nhân đậu xanh hình tròn cỡ lòng bàn tay a Phúc). Nhà tân nương gần nên cũng thuận lợi đi lại.

Mấy đứa con trai không đùa giỡn bên đóng lửa mà theo Mai học viết chữ. Lúc chiều Mai nghênh cằm nói cô học giỏi nhất là có cơ sở. Từ hôm có quyển chữ mẫu sư ông đưa Mai đã tự mày mò học, chữ nào không hiểu sẽ hỏi sư ông và Đỗ lang y. Ba ca ca nhỏ nhà cậu rất hâm mộ nhìn Mai viết từng nét lưu loát trên bảng đất. A Phúc kế bên rặn từng chữ một, bị cô nhéo lỗ tai nhăn nhó.

– Ca muốn học không? Không khó lắm đâu,

Mai cào lớp đất phẳng lại, đưa que cho a Hữu ca. Cô chỉ cách viết mấy chữ số đếm, giải thích từng chữ. Mấy ca nhà cậu cũng cần học giống a An để lo việc buôn bán sau này, cùng nhà Mai phát triển. Hai nhà cách nhau xa như vậy, cô không thể chỉ dẫn được. Trấn trên chắc có thầy đồ, đợi khi bán ghe có thêm tiền sẽ xin ông ngoại và cậu cho đi học.

Người nhà Mai đã quen cảnh mỗi đêm Mai sẽ nhắc mấy đứa con trai ôn chữ. Người lớn nhà ông ngoại đều ngạc nhiên nghe Mai nói rành rọt từng chữ. Cậu hai buông chén rượu lại xem. Cha nhỏ giọng kể chuyện quyển sách chữ mẫu và Dương ông đang tìm thầy đồ về làng cho ông ngoại nghe. Ông gật đầu nói cha làm tốt, được ông ngoại khen cha hơi ngại ngùng đứng dậy châm rượu thêm vào chén cho ông. Ha ha, mấy ngày nay cha rất áp lực! Làm việc còn ra sức hơn so với làm ở nhà.

Tân lang tân nương lại mặt tuy không trang trọng như trong lễ thành hôn nhưng cũng không ăn mặc giống ngày thường. Tam tẩu mặc áo hồng váy xanh nhạt, vấn khăn hồng, gương mặt phụ nữ mười bảy tròn đầy vẫn còn nét trẻ con nhìn thật rạng rỡ. Trên tai là đôi bông nhỏ bằng bạc, vòng cổ bằng đồng sáng loáng. Tân lang Sinh ca trong bộ quần áo xanh chàm mới tinh, khăn vấn và thắt lưng màu xanh chuối, dáng người khoẻ khoắn, da ngăm răng trắng. Hai người đốt nhang bàn thờ tổ tiên, xin phép người lớn trong nhà xong thì lên ghe chèo đi.

Hôm nay nhà ngoại cũng bận rộn nhiều việc, từ sáng sớm nhóm đàn ông đã tranh thủ dựng cột, gác kèo, lợp mái xong trong ngày luôn. Mấy đứa nhỏ cùng nhau đặt từng cây con vào sọt, vun đất rồi mang xuống ghe trước. Lúc đi cũng nhiều đồ, lúc về cũng không ít.

Lúc ăn cơm trưa, cậu hai nói sẽ tiễn một đoạn, không ngủ đêm tại Giồng Riềng mà tại Chợ Lớn sông Xà No. Từ đây đến đó mất hơn nửa ngày, hôm sau không cần khởi hành sớm, đầu giờ tỵ đi vẫn kịp.

Qua giờ cơm chiều thì đôi vợ chồng mới về. Ngoài phần trả lễ tam tẩu còn mang theo mấy loại trái cây, mấy cây con cho nhà Mai mang về nữa.

‘Trả lễ’ là hình thức mà người nhận lễ chỉ nhận một nửa, một nửa gửi về người cho. Như hôm lễ cưới Sinh ca, đàng trai mang sáu mâm lễ qua đàng gái thì người nhà đàng gái nhận xong cũng chỉ lấy một nửa ở mỗi mâm. Sáu mâm mang về còn lại một nửa gọi là trả lễ. Đương nhiên không chính xác ‘một nửa’, nhiều ít hơn một chút cũng không sao. Nếu trả về nhiều quá thì xem như là ‘chê’ lễ không nhận, trả về ít quá cũng mang tiếng không tốt.

Sáng ngày về Đông Hồ, nhà ngoại theo dặn dò đủ thứ, hiếm có dịp cả nhà được ở chung như mấy ngày này. Bà ngoại nhỏ to mấy chuyện với nương rồi cũng quyến luyến nhìn theo mấy chiếc ghe rời đi.

Chợ Lớn sông Xà No nằm bên cạnh ao sen thật lớn, cách bờ sông một đoạn. Lúc ba chiếc ghe đến thì trời đã gần tối. Có đống lửa nhỏ trước cửa sạp bán đồ đất nung, có người ở lại đây.

– Lần sau đi ngủ lại đây, sạp này ta quen, cũng an toàn hơn.

Vừa nói cậu dẫn cha sải bước đến trước sạp, kêu lớn:

– Thon, có nhà không?

– Ai?

Có tiếng đáp lại từ phía sau sạp, một người đàn ông trung niên đi ra. Ông mặc váy màu chàm, thắt lưng được quấn cuộn vắt bên hông kiểu người Chân Lạp, lưng trần, đi chân không.

– Ăn cơm chưa?

– Rồi, ai đó?

– Là, muội phu, em rể ta.

Cậu và người tên Thon nói chuyện rất thân mật. Giọng nói bá ấy ngang ngang, lơ lớ, mà dùng từ rất ngắn gọn, chắc là ít tiếp xúc với người Việt. Thói quen đàn ông Chân Lạp ở trần lúc ở nhà, ra đồng, thậm chí tiếp khách hay lúc múa hát trong làng. Người Việt thì chỉ ở trần lúc ở nhà, còn tiếp khách hay ra ngoài đều khăn áo chỉnh tề. Mùa khô ở những vùng phía trong đất liền rất nóng nên con người thích nghi thành thói quen.

Cả nhà vội vàng nhóm lửa, nấu cơm. Hữu ca quen thuộc dẫn a An chạy đến ao sen hái lá sen lớn, gói cá lóc, rắc chút muối rồi vùi dưới đống lửa. Bà ngoại đã hầm nồi canh xương từ khuya, múc mang theo, giờ được hâm nóng, không đến nỗi ăn thức ăn ‘dã chiến’ như bận đi.

Qua lần này mấy đứa nhỏ được dạy cách nhìn con nước, nấu nướng dọc đường, đi một ngày đàng học sàng khôn. Lúc trưa tụi nhỏ còn nài nỉ cậu hai kể chuyện cậu bị lạc trong rừng lúc nhỏ như thế nào. Cậu cười ha ha nói đại khái mấy câu rồi thôi, làm cả đám cụt hứng. Đêm ba mươi, bầu trời đen thẳm chí có vài ngôi sao lẻ loi nhấp nháy. Thon bá bá mang cho cậu mấy cục than gỗ lớn, có thể âm ỉ cháy cả đêm. Văng vẳng giữa màn đêm có tiếng sáo ai đang thổi, con Mực nghênh cổ sủa vu vơ.

– Trong kia là làng người Chân Lạp sống, cũng hơn hai chục nhà. Mỗi tháng vào ngày trăng rằm và ngày trăng mới đều cúng trăng, gõ trống hay thổi sáo nhảy múa. Con trai Chân Lạp phải có tài nhảy đẹp, thổi sáo hay mới kiếm được vợ.

Cậu còn kể thêm mấy tập tục khác của người Chân Lạp.

– Họ truyền nhau kinh nghiệm sống trong rừng, dưới biển, trồng bông, dệt vải. Mình phải để ý học mới được.

Trời sáng, cậu dặn dò mấy câu mới quay ghe đi về. Đường từ đây về Giá Khê đúng một ngày, không thể chậm trễ được. Tính ra quen biết nhà Lý thúc rất tốt. Trước đây cậu và ông bà ngoại chỉ neo ghe ngủ bên ngoài làng.

Xa nhà gần mười ngày rồi, dù không nói ra nhưng ai cũng trông nhanh về. Những hàng cây xanh ngút ngàn hai bên bờ không thu hút như lúc đi, chỉ kéo dài thêm thời gian chờ đợi. Tiếng bìm bịp kêu xa gần như hối thúc tay chèo.

Chạng vạng đến nhà a Sao, đống lửa lớn được đốt trước sân. Lý thúc và a Sao đang ngồi ăn cơm trên bàn. Thấy mấy người nhà Mai từ xa đã dứng dậy, chào hỏi nhau:

– Làm phiền nhà đệ nữa rồi.

– Làm gì có, mấy hôm nay trông nhà huynh đến đó, vào nhà tắm rửa trước.

Con Mực được thả lên bờ chạy lăng xăng, a Sao đốt ngọn đèn ở bếp để nương nhóm lửa. Dọn cơm ăn thì trời đã tối hẳn, Lý thúc rót cho cha chén rượu nói: – Từ lúc thành thân, phu thê đệ cùng nhau vất vả, dành dụm mong con cháu cơm no áo ấm. Giờ xem đệ còn liên luỵ a Sao, haiz,

– Sao đệ nói vậy, ai có thể dạy dỗ a Sao thay đệ được, đừng nghĩ quẩn.

Không biết có chuyện gì mà Lý thúc cảm thán vậy, mấy hôm trước vẫn vui vẻ mà. Câu tiếp theo của Lý thúc giải thích thắc mắc. Thì ra sau khi nhà Mai đi một ngày, có người từ Nam Vang xuống tìm mua trầm hương, còn mua giá rất tốt. Miếng trầm hôm trước bán gấp mua thuốc cho Lý thúc giá không tốt. Thúc thẩm của a Sao còn qua dông dài nói phải chi để lại hôm nay thì hay biết mấy.

Trời, bệnh tới chân mà còn tiếc giá cao giá thấp gì, vậy mà cũng dám nói, thiệt tình!

– Trương huynh và mấy người nữa hợp sức vào rừng sâu tìm trầm rồi.

À, hèn chi lúc nãy đi ngang qua nhà không thấy Trương bá. Lý thúc nói với a Sao:

– Con mang chậu mật ong cho Lê bá xem đi. Là a Sao tự mình đi tìm, đệ thiệt là không giúp được gì.

A Sao nhanh nhẹn ôm mấy chậu lớn để trên sạp tre nhà trước, tìm được sáu tổ luôn rồi. Cái này là cả ngày hắn đều ở trong rừng sao?

Mai đoán đúng rồi, từ hôm nhận ba quan tiền nhà Mai. A Sao liền chống bè vào rừng, tìm tổ ong lớn, hun khói, lấy mật. Nói đơn giản nhưng không dễ dàng chút nào, có tổ phải kiên trì mấy canh giờ, cả ngày mới đuổi hết ong đi, chịu vất vả biết bao nhiêu!

– Sau này đệ yên tâm rồi.

Cha vui vẻ nói, còn khen ngợi a Sao mấy câu. Mai suy nghĩ một lúc, nói nhỏ với nương xong mới cầm hai xâu tiền lớn đưa cho a Sao nói:

– Cái này là hai quan, bốn tổ ong sau không cần gấp, cuối tháng này mang đến là được.

A Sao không nhận tiền, nhìn qua cha hắn rồi nói:

– Đến cuối tháng giao tổ ong rồi nhận tiền.

Cuối cùng cha lên tiếng kiên quyết thì Lý thúc mới nhận, còn nói tiền này thúc ấy giữ ở đây, chưa cần dùng. Ý thúc lo ngại chuyện làm ăn nhà Mai không thuận lợi, có thể không mua tổ ong mà nhận lại tiền vẫn được.

Mặc dù chưa bán được cây đèn nào, nhưng Mai tin vào khả năng của dượng năm. Nếu không phải chuyện này rất tốt dượng ấy sẽ không sốt sắng như vậy. Còn về việc dặn a Sao cuối tháng mới đến là vì Mai còn nhớ có một loại ghe chuyên dùng cho các vùng có rừng ngập mặn hay mùa nước nổi. Loại ghe này có đáy nhỏ, để bớt lực cản của mặt nước, thành cao chứa được nhiều thứ linh tinh, phù hợp cho một người dùng. Về nhà Mai sẽ vẽ cho cha và Bình ca đóng mẫu, để a Sao dùng thử; đúng như kế hoạch nói với cậu hai.

Đi hết hôm nay, chiều là về đến nhà rồi, không kịp ăn sáng ở nhà Lý thúc mà vội lên ghe. Sương sớm lãng đãng trên ngọn cây, giăng giăng trên mặt sông. Phía trong rừng cũng mờ mờ ảo ảo, chẳng trách người đi rừng dậy muộn hơn nhà nông, vào rừng giờ này lạnh thấu xương.

Vĩnh ca lấy gáo múc nước sông tưới cho đám cây con. Cả nhà vui vẻ nói chuyện, cảm giác sắp về đến nhà thật dễ chịu. Có chiếc ghe của ai ở phía trước, cha cũng không muốn vượt lên.

Mai nhàn nhã dựa thành ghe ngắm hai bên bờ. Sau này sẽ thường xuyên đi lại trên ghe, tìm cách gì để giải trí cả ngày mới được, cũng không thể chơi cờ, đánh bài suốt. Mà giống nương, Cúc tỷ ngồi may vá, đan giày đan đệm cũng chán! Đúng là người ở đây không có nhu cầu giải trí gì sao? Không thấy buồn tẻ sao?

– Ca đang nghĩ gì?

Mai tò mò kéo tay a An gần đó hỏi, hắn cũng đang nhìn mông lung ra mặt sông. Lúc quay lại nhìn Mai ánh mắt đen dần thu lại suy nghĩ:

– Ta nghĩ chuyện muội nói với cậu hai hôm trước. Nếu nhà mình không nhanh chóng tìm được khách mua ghe thì sao? Lúc trước Lưu bá phải đến xưởng đặt mua người ta mới đóng, nhà mình nên làm giống vậy không?

Tuy là đóng ghe bán rất có tiền, nhưng phải có người mua mới được. Hai chiếc ghe này để ở nhà xài, giờ đóng thêm bán cho ai? Nếu không đóng tiếp thì cũng tiếc, chưa vào mùa lúa nên tranh thủ đóng. Cũng may là ghe đóng xong không cần hạ thuỷ cũng không hư hại gì, chỉ hơi chiếm chỗ. Đó là cách hắn nghĩ lúc trước nhưng lúc nghe Mai bàn với cậu hai hắn mới giật mình nghĩ. Đúng rồi, mình có thể nhờ người khác lo tìm khách mua. Nhà ngoại có dượng năm giao thiệp rộng, thêm nhà nội nữa.

Hắn định chờ lúc về nhà sẽ nói với cha nhờ ông nội. Mà thật ra chắc ông cũng đã nói với những người trong làng chài chuyện cha đóng ghe rồi. Tính tình a An cẩn thận, hơi chậm chạp, hắn luôn nghĩ tới lui mới nói.

Nghe a An nói ra Mai không khỏi khen ngợi, ‘giao tiền quỹ nuôi gà cho hắn là đúng rồi, vừa cẩn thận vừa keo kiệt’ cô nhủ bụng. Ha ha nói a An keo kiệt không ngoa chút nào. Hôm đi chợ Tết hắn chỉ nhìn đồ người ta bán, hỏi giá, rồi im lặng, chẳng có vẻ ham muốn món gì.

Hai đứa nhỏ rì rầm nói chuyện, gút lại là đợi về nhà sẽ nói cha nương. Hai ghe cách không xa nhưng nói chuyện phải lớn tiếng, cũng không gấp gáp gì.

Xế chiều đã đến đoạn sông chợ Sông Lớn, có mấy chiếc ghe xuôi ngược, nương còn gặp mấy người quen nữa. Chiếc ghe phía trước suốt đoạn đường thì ra là ghe của Trần Si thúc. Hôm nay không có Trần bá đi chung nên từ xa không nhận ra nhau. Con Mực không biết có nhận ra gần nhà không mà cũng quắn quít vẫy đuôi.

Vũng Đông Hồ vẫn êm đềm chờ đợi. Sóng nhỏ lăn tăn, nắng chiều gay gắt dát vàng từng mảng trên mặt sông. Gió biển mặn làm rát da. Xa xa là hai dãy núi thấp, bên kia là Tô Châu, bên này Bình San như vòng tay che chở Đông Hồ khỏi phong ba bão táp. Mai xem nơi này là nhà là quê của mình rồi!

Chiếc ghe chưa tới cầu ván, a Phúc đã kêu to:

– Bà nội, cô ơi!

Con Mực theo đó sủa ầm ĩ.

Bà nội từ trong nhà đi ra, miệng cười. Nếp nhăn ở khoé mắt tô điểm cho ánh mắt thương yêu tràn đầy từ đáy lòng.

– Về rồi à,

Con Mực dẫn đầu nhảy phóc lên cầu ván. Nó chạy loạn xung quanh sân rồi vào nhà đánh cái vòng như tuần tra lãnh địa, còn sủa gâu gâu.

– Nương để con mang vào, không có gì nhiều.

Nương Mai nói với bà rồi nháy mắt a Phúc, hắn hiểu ý nắm tay bà nội đi vào nhà. Vừa đi vừa hỏi đủ chuyện ở nhà, đương nhiên là chuyện đàn gà, đàn vịt của hắn. Trong nhà chỉ có bà nội, xưởng đóng ghe cũng không có ai, bà nói:

– Thấy trời mát nên mấy đứa ra ruộng nhổ cỏ, lùa vịt đi ăn rồi. À, còn nhổ khoai bên đám ruộng mới.Chương 86: Duyên phận là phải đi tìm hay tự đến?Cả ngày trên ghe nên ai cũng muốn dãn gân cốt, dọn dẹp đồ xong thì chạy đi làm việc của mình. Có Bảo ca và Hỉ ca vào nữa, bà nội nói hai hôm trước nhị bá vào thăm chở theo a Bảo, a Hỉ vào chơi rồi ở lại sẽ cùng về với bà nội.

A Hỉ đi theo thất thúc chăn đàn vịt mặt đỏ hực vì nắng. Lúc nãy về lấy trong rổ ra mấy cái trứng vịt nói:

– Vịt đẻ rớt nè, trong chuồng có ổ không đẻ, thiệt tình.

Miệng phàn nàn nhưng hắn rất thích lượm mấy trứng đẻ rớt này. Lần đầu tiên hắn đi chăn vịt đó. Hắn với a Phúc ngồi đếm hai rổ trứng gà, trứng vịt còn học cách lựa trứng tốt để ấp, trứng xấu để nương chiên ăn cơm chiều nay.

Bữa cơm chiều rất vui vẻ. Ăn cơm xong mọi người chia thành từng nhóm nói chuyện. Nhóm đàn ông thanh niên ra xưởng gỗ, nhóm đàn bà con gái trong bếp tán gẫu. Bà nội hỏi thăm chuyện nhà ngoại nương đều trả lời, còn mang mấy gói trà, mứt của bà ngoại gửi đưa nội.

Cúc tỷ mang qua nhà Lưu bá ít bánh mứt lạ ở nhà ngoại về thì có Lưu bá mẫu đi theo. Lại qua một hồi hỏi thăm các chuyện. Lưu bá mẫu gương mặt dàu dàu nói:

– A Tương đi chành Mỹ Tho rồi.

Mai thấy hơi lạ, không phải lần đầu Tương huynh đi chành, đâu cần bá mẫu lo lắng buồn rầu như thế. Bá mẫu nhìn ra nương Mai chưa hiểu chuyện mới tường tận kể.

Ngày cưới ở nhà ngoại cũng là ngày nhà phú hộ Từ làm tiệc đãi khách. Lẽ ra cũng không ảnh hưởng ai, chỉ là lần này là Lễ Sơ vấn của nhà phú hộ bên Tô Châu sang hỏi tiểu thơ Từ phú hộ cho thứ công tử nhà họ. Trước Tết bà mai đã qua lại xem tuổi xem tên rồi nên mới có Lễ Sơ vấn này. Lúc trước không nghe tin gì nên ai cũng có chút bất ngờ. Bất ngờ nhất là nhà Lưu bá vì Tương huynh vội về nhà nói muốn tìm bà mai đi hỏi Từ tiểu thơ.

– Hả?

Nương Mai cũng giật mình hỏi lại. Bá mẫu thở dài, nói:

– Ta cũng hết hồn. Nhà người ta là gì, nhà ta là gì mà nói chuyện hôn nhơn. Bình thường mình đến làm công người ta còn niềm nở, đến nói chuyện này còn không bị đuổi ra sao?

Lưu bá đương nhiên không đồng ý, giảng dạy Tương huynh một hồi. Ngày thường Tương huynh nghe lời nhưng lần này ngỗ nghịch vẫn muốn đến nhà phú hộ. Lưu bá giận dữ bắt huynh ấy quỳ xuống, đánh vào lưng mấy roi đến rướm máu mới thôi.

Hôm sau vết thương chưa kịp lành, bá mẫu nhờ người nhà dẫn a Tương đi theo chành. Ý là để huynh ấy vừa tránh mấy ngày vừa có cậu và ông ngoại khuyên nhủ.

Mai nhớ lại vị Từ tiểu thơ ăn mặc xinh đẹp ở chợ và hôm đi lễ chùa Tết Nguyên Tiêu. Lần đó là hẹn với nhau sao? Vậy là Từ tiểu thơ cũng có lòng với Tương huynh, nếu không thì làm sao hẹn hò. Nếu là hai người cùng có ý với nhau, bây giờ cũng không hy vọng gì rồi. Lễ Sơ vấn nghĩa là hai nhà đã đồng ý với bà mai.

Việc cưới gả là do song thân định đoạt, Từ tiểu thơ chắc cũng không thể phản đối. Huống chi hai nhà cách nhau quá xa, không môn đăng hộ đối thì Tương huynh có kiên định hơn cũng không có kết quả.

Chuyện chọn lựa giai ngẫu dựa trên ngang bằng giai cấp có chỗ lợi. Như Từ tiểu thơ không biết gieo mạ, gặt lúa; không biết là có làm bếp núc được hay không. Nếu gả về nhà Lưu bá sẽ rất vất vả, còn không chắc có chịu đựng được. Năm bữa nửa tháng thì hối hận, vợ chồng cũng khó ở đời với nhau. Tương huynh cũng vậy, nhà giàu nhiều lễ nghĩa, không giống nhà nông, huynh ấy sẽ không được bên vợ xem trọng, khó ăn khó ở.

– Cũng không nghĩ là có, từ ngày sinh ngũ Mi ta nghĩ là ngưng rồi chứ.

– Tẩu đừng lo nghĩ quá, phải giữ sức khoẻ, bồi dưỡng cơ thể mới được.

Mai bỏ qua đoạn nào sao? Không hiểu từ chuyện Tương huynh sao giờ qua đến thân thể bá mẫu rồi. Bá mẫu cũng hơi cười, đưa tay nhẹ vuốt bụng. A, bá mẫu có thai rồi. Đúng là tin vui, ai cũng biết bá mẫu muốn sinh thêm một hai đứa con trai. Tính ra Lưu bá mẫu cũng hơn ba mươi lăm rồi, mang thai bây giờ sẽ vất vả, phải dưỡng thân rất kỹ mới được.

Chạng vạng Lưu bá qua nhà chơi, hỏi thăm cha mấy câu ở nhà trên rồi đi về cùng bá mẫu. Ha, sợ bá mẫu về tối nên không yên tâm sao, Mai mỉm cười nghĩ, hai người đó cũng tình cảm quá chứ.

Nương soạn mấy gói trà, mứt kêu mấy đứa nhỏ mang qua cúng dường chùa và biếu nhà Lưu tam bá, còn kêu tụi nó đi chung nữa. Ra đến đường, Mai ngẫm nghĩ thấy lạ, là muốn đuổi hết tụi nhỏ đi sao? Có chuyện gì cần phải giấu chứ?

– Bà ngoại a Cúc nói Hồ gia, làng trên, con trai lớn mười bảy, tính tình được lắm, gia cảnh cũng khá. Nhà mình bên này vừa ý thì họ nhờ bà mai đến.

– Hôm lễ cưới có trong đám bưng mâm quả không?

– Có, là người mặc áo chàm, đội khăn xanh.

Trời, nương tả cũng như không. Hôm đó mấy thanh niên bưng quả ăn mặc gần y chang nhau. Đám nhỏ không đi đưa đồ mà nhẹ chân lén trở về, a Phúc phải bịt miệng con Mực mới giữ im lặng được. Cúc tỷ cúi đầu không có phản ứng gì, là ngại ngùng hay phản đối vậy!

– Ngoại a Cúc lên tiếng chắc là dò hỏi kỹ càng rồi, ở đó gần nhà sui gia cũng tốt.

Bà nội nói xong những người khác chưa kịp lên tiếng thì con Mực bị bịt miệng không thở được ầm ĩ rồi sủa lên. Cha đi ra hỏi sao trốn ở đây, mấy đứa con trai ùa chạy đi, Mai không chạy mà đi vào nói:

– Con không muốn tỷ gả xa vậy, tìm gần đây cũng nhiều nhà tốt mà.

Thật ra cô đã chấm một người rồi. Người ta rất có lòng với a Cúc, chỉ là chưa biết a Cúc thích hay chưa thôi.

– Con nít, con nôi.

Nương dở khóc dở cười xua xua tay cho Mai ra ngoài.

– Con không muốn tỷ gả xa, mấy năm mới về một lần. Mà chưa chắc tỷ phu đó đối xử tốt giống như cha đối với nương. Gả gần đây, có gì nhà mình còn bênh vực được.

– Con thiệt là,…

Nương chưa nói tiếp thì cha kéo Mai, vỗ vỗ vai nhỏ của cô rồi quay lại nói với nương:

– Ta cũng thấy hơi xa, a Cúc còn nhỏ, để ý tìm gần hơn đi.

Ủa, cha đồng ý hơi nhanh phải không? Là do cô khen cha sao?

Mai không để ý mấy lời sau cùng của mình làm ngũ cô hơi cúi đầu. Cả bà nội, cha và thất thúc đều nghĩ đến chuyện ngũ cô vì gả xa, không có người nhà bênh vực nên chịu đủ khổ sở. Đương nhiên là lần này sẽ không đồng ý chuyện a Cúc lấy chồng xa, vì tính tình a Cúc gần giống như ngũ cô, dịu dàng, chịu đựng.

Thấy cha đã lên tiếng, bà nội nói mềm mại hơn.

– Hay là nói bà sui thong thả hơn.

– Dạ, nương. Con sẽ nhắn ý nhà mình về đó. Đúng là mình không gấp gáp gì.

Nương Mai thấy mọi người đều có vẻ không thuận thì cũng không gấp gáp. Mấy ngày trước bà nghĩ gần nhà ngoại a Cúc sẽ không lo lắng nhiều. Hồ gia cũng có chút giao tình với nhà ngoại sẽ không bạc đãi a Cúc. Nhưng mà nếu con gái gả đi mấy năm mới về một lần thì bà cũng đau lòng.

A Cúc nãy giờ vẫn cúi đầu, thiệt là không biết ý sao, cũng không biết tranh thủ chuyện của mình. Lục cô ngồi sát bên cạnh cũng im lặng, mắt nhìn xuống, không nói gì. Lục cô lớn hơn a Cúc một tuổi, nhà nội cũng có ý tìm mối nhưng chưa nghe tin gì; không biết sẽ về đâu?

Con gái ở đây cũng quá ít lựa chọn. Lúc ở nhà thì không quen biết thanh thiếu niên nào, không có chủ ý gì, đành nghe theo người lớn xếp đặt, may nhờ rủi chịu! Có quá nhiều ngăn trở và rủi ro để hai người xa lạ có thể sống đồng sang đồng mộng.

Giống như Tương huynh có người mình thương thì cũng không toại nguyện. Vừa có gia cảnh tương xứng, vừa có tình có nghĩa để sống cả đời vui vẻ không phải dễ.

Ở thời hiện đại thì nam nữ có nhiều lựa chọn hơn nhưng cũng không thể nói sẽ có cuộc sống lứa đôi hạnh phúc hơn. Nhiều khi họ nghĩ mình có nhiều lựa chọn nên bỏ qua người “hợp duyên” mà tìm kiếm ảo ảnh nào đó.

Duyên phận giữa hai người muốn bền lâu đều cần cả hai nỗ lực gìn giữ. Mình phải tìm hay duyên tự đến?Chương 87: Tự nhiên thành bà NguyệtLúc ở trên ghe Mai tính về nhà sẽ vẽ hình kiểu xuồng đi trong rừng nhỏ, nhẹ để cha và Bình ca đóng mẫu. Nhưng xem ra chuyện của a Cúc cấp thiết hơn, cô phải làm trước vậy.

Mai cùng An ca ghi chép lại chuyện mua bán gà ở nhà theo ngũ cô nói. Mười ngày này bán được hai chục con gà con. Gà của a Báo mang xuống mười hai bán được tám con.

– Gà rừng nuôi lâu lớn hơn, thịt ngon nhưng không nhiều như gà nhà. Cô thấy mấy con lai của nhà mình chắc ăn ngon, vừa mập mạp thịt cũng ngon.

Ngũ cô và a Phúc rất giống nhau, nhắc đến gà vịt là nói say mê không nghỉ. A Báo còn mang bán một tổ ong lớn, một tổ ong nhỏ.

– Hắn nói tổ ong nhỏ là cho nhà mình không lấy tiền, ta đưa hắn nhất định không nhận đó.

– Hôm nào nhớ chọn gạo muối đưa qua đó, không lễ không Tết cũng không thể nhận không.

Bà nội ngồi gần đó nói.

– Dạ, bà nội. Cháu tính hôm nay trồng xong mấy cây rau, cây ăn trái sẽ mang mấy chậu đất lên đó, mang đồ theo tặng luôn.

Tính xong tiền bán gà con, Mai rủ thêm a Hỉ, Bảo ca, An ca cùng đi trồng cây. Sáng nay Vĩnh ca đi học ở nhà lang y, nghỉ cũng lâu quá rồi, cha nương còn sợ hắn quên hết lời Đỗ lang y chỉ dạy..

Rau thì trồng trong vườn, tưới nước cho đất mềm, đào lỗ nhét cây xuống, lấp đất rồi phủ ít lá mục rơm khô để giữ đất ẩm lâu hơn. Mai còn ngắt bỏ bớt lá xanh, để cây phát triển rễ, chưa cần nuôi lá.

Hôm trước Mai làm dấu mấy cây ăn trái tán rộng, thân cao cần trồng cách nhau xa. Mấy đứa nhỏ tới lui chọn chỗ trồng cây. Cây nào trồng trong vườn, cây nào trồng dọc bờ đất hay trên gò. Chỗ gò đất cao đào lỗ sâu đυ.ng đất cứng, Bảo ca phải dùng dao moi đất lên. A An cũng chạy vào bếp lấy dao mới đào được. Mặt trời đã lên, phải trồng nhanh hơn, nếu không cây sẽ khó sống.

Trồng cây xong thì nương cũng đã gói xong một ít bánh mứt, muối, khô mực để mang tặng nhà Hùng huynh. Mấy đứa nhỏ kéo nhau lên ghe đi. Bảo ca năm nay mười bốn tuổi, đã ra dáng thiếu niên. Ca ấy đã theo ông nội và nhị bá đánh cá mấy lần nên chèo ghe rất dứt khoát. Bà nội không cho a Phúc đi mà giữ ở nhà, hắn hơi nhăn nhăn nhưng không dám nói gì. Hắn cũng muốn đếm đi đếm lại gà vịt mấy lần nữa mới thoả mãn.

Nước trên con rạch này chỉ còn hơn nửa. Hai tháng nắng sắp tới sẽ hút dần nước ngọt, để lại nước phèn mặn. Cây lá mục tích tụ dưới đáy, lâu dần con rạch sẽ bồi thành ruộng. Quá trình này cũng rất lâu, tính bằng chục năm. Không như ở hiện đại, người ta có thể lấp sông, san núi trong vòng mấy tháng.

– Bảo ca muốn học đóng ghe không?

– Ta không biết, ông nội nói ta theo tứ thúc mấy ngày. Nếu làm được thì giống a Hân ở trong này học làm.

Ừm, Mai cũng đoán được ý ông nội đưa a Bảo vào đây. Nhà tam bá có Hân ca, nhà nhị bá có Bảo ca; học được hay không còn phải xem khả năng mỗi người. Nhà Lưu tam bá bên kia cũng đưa con trai thứ ba là Trạch ca qua học, chỉ là qua mấy ngày đi kéo gỗ, cưa gỗ vất vả, đau lưng, đau tay xin nghỉ mấy ngày. Sau đó nhà Mai đi về ngoại, sáng nay không thấy tới, không biết có muốn học tiếp không.

– Nếu Bảo ca vào ở luôn, ca xin cha dựng thêm hai chái nhà nữa.

– Ừ.

A An gật đầu trả lời. Mấy đứa nhỏ ngày càng lớn, chia ra ngủ hai bộ ván nhà trên. Lúc có khách hay nhà nội vào đều không đủ chỗ. Dựng thêm chái rất nhanh, giống nhà ngoại chỉ mất hai ngày, nhà mình lại có sẵn cây gỗ, cành nhanh hơn.

Gần một canh giờ thì đến làng dưới chân núi Bình San. Dãy núi không cao lắm, như lưng con trâu khổng lồ, cũng không có đỉnh nhọn, chắc vậy người ta mới gọi Bình San. Mấy đứa nhỏ mang theo mấy món đồ, đi về hướng núi, hỏi thăm thiếu niên đang chẻ củi trước cửa nhà ven đường mòn:

– La gia à, cứ đi theo đường mòn này, thấy nhóm nhà đó, thấy không? Ngay cây cổ thụ đó, ừ phải, nhà thứ hai đó.

Mắt nhìn thấy cây cổ thụ nhưng muốn đi đến thì không hề gần. Đường dốc thoai thoải, cứ vòng vèo gần nửa canh giờ mới đến, ước chi mình đi theo đường chim bay được thì tốt quá!

Lưng chừng núi là cây cổ thụ thân lớn, vỏ sù sì, tán xanh toả bóng xung quanh. Ngôi nhà thứ nhất nằm sát đường mòn, ngôi nhà thứ hai phải leo lên một con dốc nữa.

Trời ơi! Vị thiếu niên nói là nhà ‘ngay’ cây cổ thụ mà, sao lại như vầy!

Thật ra trong nhóm mấy đứa nhỏ chỉ có Mai là nhăn nhó, khổ sở. Tụi con trai rất vui vẻ đi dọc con đường mòn, càng lên cao càng hưng phấn chỉ trỏ mấy cây cổ thụ hình thù lạ mắt, mấy vực sâu sát đường. Mai là người đi sau cùng, cô lê chân từng bước một. Khi tới nhà a Báo, An ca bước lên chào bà nội a Báo, chỉ Bảo ca, Hỉ ca giới thiệu. Mai cũng thưa bà rồi cả đám theo bà vào nhà.

Ngôi nhà không rộng nhưng rất thú vị, vì nó không ở cùng độ cao. Người ta không thể san bằng đất để dựng nhà nên dựa theo độ cao triền đất mà dựng. Từ sân lên nhà chính phải đi mấy bậc thang lót đó. Nhà chính có bàn ăn, bếp và gian nhỏ là bàn thờ gia tiên. Cửa ở bếp chắc mở ra sân và mấy phòng ngủ phía sau.

– La bá bá và Hùng huynh đi săn sao? Có a Báo nhà không bà?

– Ừ, đi săn cũng sắp về rồi. A Báo đi gánh nước cho ta, nó về tới kìa.

Trên triền dốc là a Báo đang quảy hai thùng gỗ nặng trĩu. Thấy mấy đứa nhỏ hắn rất vui vẻ, bước nhanh về.

– Ngươi ở nhà ngoại về rồi à.

Đám con trai xuống sân đón, chỉ có Mai ngồi trong nhà xếp mấy gói đồ ra nói:

– Nhà cháu về thăm ngoại ở Trấn Giang. Nương cháu gửi bà chút quà ở nhà ngoại.

Bà lão không tiện từ chối, gửi lời cảm ơn nhà Mai. Bà cũng không cất đồ đi mà chờ a Báo vào. An ca đưa tiền bán gà con, nói chuyện tổ ong. A Báo vui vẻ nhận tiền, cầm trên tay một lát mới đưa cho bà nội mình.

– Các cháu ở lại ăn cơm, mấy món thịt rừng và rau rừng thôi.

Bà nội a Báo có ‘uy’ làm người ta không dám cãi lại, đặc biệt mấy đứa nhóc. Mai đang chờ gặp người nên vui vẻ đồng ý, muốn xuống bếp giúp nhưng bà và a Báo không cho.

– Cháu dẫn bằng hữu đi xung quanh chơi, lần đầu đến đây phải không?

Tụi nhỏ đều nói phải rồi cùng theo a Báo đi ra ngoài. Hai chân Mai rất mỏi, mới ngồi được có một chút. Vừa ra tới dòng suối nhỏ cô ngồi xuống tảng đá lớn có bóng râm. Nước suối chảy không xiết, giữa lúc trời nóng hơi nước mang đến cảm giác mát lạnh, thư thái. – Mùa mưa nó rộng đến đây, sâu qua khỏi đầu ta luôn.

Không chờ hỏi, A Báo chỉ đông chỉ tây, nói đủ thứ về con suối.

– Đi xem bẫy ta làm không?

Đương nhiên mấy đứa con trai muốn rồi, a Báo nhìn qua Mai như hỏi ý. A Hỉ cườ ha ha nói:

– A Mai không đi nổi nữa đâu. Lúc lên dốc muội ấy xiêu xiêu vẹo vẹo, còn chống gậy như bà già.

– Muội ngồi đây chơi, nếu về đây không thấy thì biết muội đi về nhà Hùng huynh rồi.

Mai quay sang nói với An ca. Cô không thèm chấp mấy đứa con nít đang cười nhạo mình, so về thể chất thì nói làm gì! Haiz, mà bình thường mình hơi ít vận động phải không? Cũng nên rèn luyện mới được.

Trong rừng luôn có tiếng động của đủ các loài, tiếng nước chảy, gió vi vu thật dễ chịu. ‘Bụp’ con khỉ nhỏ trên cây đằng kia chọi quả gì đó, tiếc là không trúng mà rơi xuống đất dưới chân Mai. ‘Ta cũng không chọc ghẹo gì, sao gây chiến vậy’ Mai lẩm bẩm. Trên cây xuất hiện thêm mấy con khỉ nữa, nhìn giống như một gia đình, khỉ cha to lớn đang đỡ khỉ con bé xíu tập leo cây.

– Chỗ đó là chỗ bọn nó hay nghỉ trưa, nó đuổi muội đi đó.

La Hùng đi đến thấy cảnh Mai đang trừng mắt nhìn nhà khỉ cũng buồn cười, lên tiếng giải thích.

‘Phải không? Chỗ nào ghi là của nhà ngươi’ Mai đứng dậy, ‘trả cho ngươi’. Thấy cô bé bĩu môi mất hứng đứng dậy, La Hùng đi lại đưa chùm trái xoài xanh, nói:

– Trái này hơi chua, muội chấm muối ăn ngon hơn.

Mai đương nhiên biết rồi, trong núi này có sao, có thêm một loại trái cây ăn rồi, thật tốt.

– La bá không đi chung với huynh sao?

– Lúc nãy gặp tụi a Báo giữa đường. Ta rẽ vào đây đón muội, cha về trước rồi.

– Trái này gần đây không? Muội muốn hái thêm, chua chua chắc tỷ sẽ thích ăn.

– Thật? Không xa lắm, đi, ta hái cho muội mang về.

Đâu cần phải sốt sắng dữ vậy!

Trời ơi, hôm nay là ngày gì mà tội nghiệp hai chân cô quá đi, vậy mà không xa? Còn không có đường mòn để đi nữa chứ!

Không phải chỉ một cây mà có tới bốn cây xoài lớn, trái sum xuê. Mấy nhánh trên cao có từng chùm lớn, nặng trĩu.

– Trái xanh chua nên lũ khỉ không ăn. Lúc chín rất ngọt bọn nó tranh nhau, còn giành nhau loạn xạ.

Hùng huynh đặt gùi sau lưng xuống, vừa níu cành thấp hái vừa nói.

– Nhà ngoại có tìm mối cho tỷ.

– Hả? Muội nói gì?

Vù! Nhánh cây được buông ra, quất ngang mặt may không trúng mắt huynh ấy.

– Tỷ năm nay hơn mười sáu rồi, sắp gả đi. Nhà ngoại xa xôi nên bà nội và cha chưa đồng ý. Có nhà nào gần hơn thì tốt.

Thật lâu không nghe tiếng gì cả, huynh ấy nghe rõ không ta? Khuôn mặt rối rắm, ánh mắt như không tiêu cự, hai tay hơi nắm chặt. Đợi một lát sau, huynh ấy mới tỉnh thần nhìn Mai, giọng hơi run hỏi:

– Nếu nhà đó làm nghề hạ bạc, nhà đơn chiếc. Muội, muội nghĩ cha muội có chê bai không?

Thợ săn giống như đánh cá, ở thời này đều bị coi là nghề hạ bạc vì cuộc sống bấp bênh. Còn sức khỏe, có thể vào rừng mới còn thức ăn, lại thêm luôn có nguy hiểm đến sinh mệnh nữa.

– Nhà ông nội muội cũng làm nghề hạ bạc mà. Cha làm sao chê chứ. Quan trọng là thực lòng, sau này còn phải đối xử tốt với tỷ.

– Cái đó đương nhiên.

Ha ha, Mai cười thầm, ‘lòi đuôi’ nhanh vậy. Hùng huynh tính tình thật thà, không quanh co vậy cũng được. Nếu yêu cầu người ta vừa thật thà vừa có tâm cơ, kiếm ở đâu ra? Sau này từng trải nhiều huynh ấy sẽ học cách giấu bớt suy nghĩ, không hiện hết lên mặt là được. Giống như cha Mai vậy, mấy tháng gần đây gặp nhiều người, nhìn dượng năm ứng xử cũng đã học không ít cách nói chuyện với khách.

Nhiệm vụ Mai đến đây thôi. Cô không nói gì nữa, vui vẻ gom từng chùm xoài, từ từ đi về nhà. Hùng huynh vẫn còn chìm trong suy nghĩ, bước từ từ theo cô.Chương 88: Nhà thợ sănVề đến nhà đã thấy a Báo nôn nóng đứng đầu dốc nhăn nhó.

– Sao đi lâu vậy? Cả nhà chờ hai người về ăn cơm đó.

Mai mỉm cười chỉ gùi đầy trái xoài, ý nói là đi hái nên lâu.

Bữa cơm trưa có thịt gà rừng kho xả, thịt thỏ nướng muối ớt và rau rừng luộc. Món thịt thỏ nướng này đợi đến tối trời mát nướng sẽ rất ngon. Chắc là muốn đãi mấy đứa nhỏ ăn nên giờ làm luôn. Trong món thịt rừng có thêm một ít gia vị hơi lạ, át đi mùi tanh của thịt. Đúng là ở đâu con người ta cũng thích nghi được. Ở biển thì con người tìm cách khử mùi tanh của cá. Ở rừng thì thêm hương bị át mùi máu thịt rừng. Nhắc mới nhớ tới món gà rừng nướng quế của Trương bá, thiệt là ngon!

La bà và Mai cũng ngồi ăn chung trên bàn, La bá bá hỏi thăm nhà a Bảo ở làng chài, rồi chuyện ở nhà nhà Mai. Mặc dù ông chưa gặp cha Mai nhưng chắc nghe a Báo nói nên cũng biết không ít chuyện.

Con Vện vẫn còn nhớ Mai, nãy giờ nó chạy quanh, lâu lâu cọ chân cô. Nó cao hơn lúc trước, lớp lông ngắn không che được vết sẹo ở chân sau. Nó còn có mấy vết sẹo nhỏ ở trên vành tai và xương vai. Con Vện cũng có nhiều ‘chiến tích’ dữ.

– Con Vện còn cao hơn nữa không?

Ăn cơm xong cũng không thể về ngay, mấy đứa ngồi ở sân trước chơi. Mai chỉ con Vện hỏi a Báo.

– Còn cao lên một chút nữa, cỡ ngang đây. Cha của nó cũng cỡ vậy. Nó gần bốn tuổi rồi, đi săn giỏi nhất ở đây đó.

A Báo nói, giọng rất đắc ý, cười toe toét vuốt đầu con Vện.

– A Báo, ngươi biết bắn cung chưa?

– Biết chứ, đi.

A Hỉ còn nhỏ háo hức muốn biết đủ thứ. Hắn liếc nhìn hai cung tên của La bá và Hùng huynh được treo trong phòng rất hâm mộ. A Báo chưa dùng được cung tên sắt nhưng cũng có bộ cung gỗ của mình. Nghe hỏi đến chuyện bắn cung hắn càng muốn khoe mẽ, dẫn mấy đứa ra sân sau.

Phía sau cửa bếp là khoảng sân, còn rộng hơn sân trước. Có chỗ đặt mấy lu nước, giàn phơi quần áo trong góc. Trên thân hai cây sao già là hai biển gỗ chi chít vết thủng, là chỗ tập bắn tên. Chéo góc cửa bếp là bậc thang dẫn lên mấy gian nhà nhỏ dựa vào sườn dốc, chắc là phòng ngủ. Cách bố trí theo địa thế như vầy thật mới lạ khiến tụi nhỏ không khỏi nhìn thêm vài lần.

Mấy đứa con trai say mê vui vẻ cùng nhau tập bắn thử, trêu chọc, chế nhạo lúc bắn hụt. A Báo không tệ, đứng xa gần hai mươi thước vẫn bắn trúng tâm làm Bảo ca cũng hâm mộ.

Mai ngồi trên bậc đá nhìn ngắm xung quanh. Không khí giữa trưa không oi nồng lắm. Bóng hai cây sao già phủ xuống mát rượi. Đây đó trong góc sân có đủ thứ các sản vật của rừng. Chỗ này là mấy bục măng tươi chưa lột vỏ, chỗ kia là cái mẹt phơi mấy loại rễ cây.

– Cái đó là cây thuốc trị thương rất tốt.

A Báo đang chỉ dẫn cách giương cung nói chen qua giải thích. Mai nhẹ tay bóc rồi ngửi thử, mùi rễ và vỏ cây ngai ngái cô không nhận ra là cây gì. Nhà thợ săn nào cũng phải có mấy thứ này.

Mấy gian phòng ngủ đều có cửa sổ nhìn xuống sân, một nửa dựa vào vách núi. Giống y chang mấy căn biệt thự lưng chừng đồi ở thời hiện đại. Mùa khô nóng thì ở đây mát mẻ, không biết mùa mưa lạnh dữ không? Lúc nãy trên đường đi có những đường mòn dọc theo đường nước chảy từ đỉnh ngọn núi, không sâu lắm. Xem ra mùa mưa cũng sẽ ít có những dòng suối sâu, dữ tợn.

Lần đầu gặp La bá Mai không ngạc nhiên về gương mặt ông lắm. Hùng huynh và a Báo mang nhiều nét giống ông. Mà không, là bốn người nhà họ La có nhiều nét giống nhau. Gương mặt góc cạnh với mũi cao hơi to, hàm vuông dài. Đôi mắt của thợ săn hay người đi rừng luôn khác với nông dân làm ruộng. Ánh mắt có vẻ nhìn thẳng nhưng Mai cảm thấy họ luôn “cảnh giác” xung quanh. Các giác quan luôn tập trung cao độ.

Chỗ hơi khác là La bá không cao lớn như Hùng huynh, ông thấp hơn huynh ấy một đoạn. Bàn tay La bá đầy vết chay, các khớp ngón tay đều bị bào mòn. Chân bá ấy đã từng bị thương qua, giống cha Mai vậy. Lúc đi bình thường không để ý sẽ không thấy, Mai phát hiện mỗi lần ông đứng dây luôn bất giác để tay lên đùi trái, hơi nghiêng một bên. Cha Mai cũng từng bị gãy xương đùi nên ông hay có thói quen này.

Ông không nói nhiều, chỉ hỏi vài câu rồi để tụi nhỏ thưa chuyện, ông im lặng nghe, gật gù. Trong nhà này chắc chỉ có a Báo còn nhỏ, được cưng chiều nên tính tình nhiệt tình, hoạt bát hơn hẳn.

A Báo đang giảng giải tư thế cân vai, giương tay và thủ thế chân khi bắn tên. Mai hơi nhớ lại một chút, La bà biết bắn cung, chắc rồi! Điều đó cũng giải thích tại sao ánh mắt bà sắc và có uy lực như thế, bà còn rất nhanh nhẹn nữa. Tuy rằng đàn bà con gái hiếm người thạo cung tên, săn bắn nhưng luôn có ngoại lệ phải không?

Nháo loạn một hồi qua giờ mùi thì mấy đứa xin phép về. Bà nội a Báo đã gói một ít thịt rừng muối cho mang về. Bảo ca nhận rồi cảm ơn. A Báo và Hùng huynh đều đi theo tiễn mấy đứa xuống chân núi. A Báo vỗ ngực nói: – Ta nhanh chóng tìm thêm tổ ong mang xuống.

Lúc nãy nhận tiền a An đưa hắn đã nhẩm tính xem còn bao lâu nữa sẽ mua được cung tên rồi, không lâu đâu, trước Tết là mua được rồi. Hắn rất mừng rỡ, đương nhiên sẽ ra sức tìm tổ ong, bắt gà con nhiều thêm rồi.

Ngồi trên ghe bận về mấy đứa con trai không ngớt nói chuyện. A Hỉ còn diễn lại cảnh Bảo ca bắn hụt nữa. Tiếng cười đùa vang vang, đường về có vẻ được rút ngắn lại.

Gùi xoài xanh được mấy cô gái yêu thích. Lưu bá mẫu khỏi nói, cứ xuýt xoa hỏi hái ở đâu. Bá mẫu nói muốn Lưu bá bá đi hái ngay làm mọi người cười không ngừng nói lần này chắc là sinh bé trai rồi.

Bà nội về làng chài với lục cô và a Hỉ, Bảo ca ở lại theo học đóng ghe như ông nội dặn. Bà cũng không để thất thúc đưa về mà đi theo lái đò về bến ghe gần làng chài.

Đây là chuyện mới có mấy hôm nay. Nhà Lưu tam bá theo gương Lưu bá làm lái đò từ làng chài vào vũng Đông Hồ, chở khách đi chợ phiên, hoặc qua lại vãng lai. Mấy tháng nay nhà Lưu tam bá cũng lo làm cỏ trên ba mẫu ruộng và khẩn hoang thêm một ít. Nhưng có lẽ chưa quen làm ruộng nên không tiến triển như dự tính, chỉ khẩn hoang chưa đến nửa mẫu đất. Sau khi bàn tính thì tam bá mẫu sẽ làm ít mua bán ở chợ làng. Tam bá bá và mấy con trai sẽ làm lái đò từ Đông Hồ ra làng chài. Đến mùa trồng lúa thì trồng trên ba mẫu rưỡi cũng đủ cả nhà ăn trong năm.

Chợ phiên hôm nay An ca và Mai đi bán trong chợ làng mới phát hiện đã có nhà khác bán đường ở phía cuối chợ. Người ở Đông Hồ đông hơn nên cũng không ảnh hưởng nhiều. Hơn nửa Mai biết chuyện này sẽ sớm xảy ra thôi.

Đang bày hàng ra thì phía trước có người nói:

– Nhà cháu về rồi sao?

– Dạ, Sùng bá bá khoẻ.

– Khoẻ, ta khoẻ. Tối qua thúc nhà ta cũng vừa về tới, đã giao hàng cho dượng cháu rồi. Tốt lắm, cái này là tặng nhà cháu.

Sùng bá vui vẻ nói, đưa cho Mai hai bình gốm được trang trí hoa văn hình hoa sen. Mai định từ chối thì bá ấy nói:

– Là thúc ta tự mình làm, không phải quá quý giá gì.

– Dạ, đa tạ bá.

Bá ấy thấy Mai nhận rồi cũng không nhiều lời cáo từ về lại sạp của mình. Chợ phiên ai cũng phải tranh thủ bán hàng. Được một lát An ca lên tiếng chào Đỗ lang y cùng a Vĩnh đi ngang qua.

– Hai cháu bán ở đây à? A Vĩnh ở đây đi, để mình ta đi cũng được.

– Dạ, sư phụ.

A Vĩnh đáp lời rồi dừng lại, đợi sư phụ hắn đi khuất thì nói:

– Nghe nói làng Bình San có người đến đây muốn bán mật gấu nên sư phụ đến tìm. Lần trước nhà Hùng huynh cũng bán mật gấu chó được không ít tiền. Nhưng săn con mồi lớn cũng quá nguy hiểm.

Hôm nay không thấy Hùng huynh đi bán con mồi. Sau khi nói chuyện trong rừng, cả buổi huynh ấy cứ lo nghĩ gì đó. Huynh ấy không tham gia với ma71y đứa nhỏ mà cùng La bá ở sân trước chẻ củi, vót tên. Haiz, mình không cần lo nghĩ nữa, huynh ấy sẽ phải tự quyết định.

Mình phải tập trung chuyện làm mẫu ghe mới, còn lo chuyện bán đường và dầu nữa. Có một nhà làm theo thì những nhà khác cũng sẽ làm theo, phải tìm ‘đầu ra’ khác mới được.

Lúc về gần nhà thì thấy Dương ông từ trong nhà đi ra, có tin về thầy đồ sao? Trước khi đi nhà ngoại cha đã làm xong bảng gỗ, gửi một nửa đến sư ông và Đỗ lang y để viết chữ lên. Mọi người vẫn mong chờ Dương ông chuyện tìm thầy đồ.Chương 89: Mở tiệm bán hàngGian nhỏ phía trước xưởng gỗ không tránh khỏi vụn mạt cưa phủ đầy. Mai lấy cây chổi rơm quét sạch tấm ván rồi ngồi xếp bằng vẽ vẽ lên bảng đất.

Các loại ghe lớn nhỏ, nặng nhẹ đều có ưu khuyết điểm của nó. Mai đang muốn làm ghe một hoặc tối đa hai người ngồi, cần nhất là đủ nhẹ và nhỏ để dùng trong những chỗ nước nông, khoảng không hẹp; đương nhiên là chỉ chở được ít đồ nhẹ thôi. Giống như a Sao, hắn dùng ghe này để tiến vào sâu trong rừng ngập mặn, tìm và chở tổ ong về. Hoặc mùa nước nổi một người đi giăng câu, đánh cá cũng thuận tiện. Một ngày có thể đi thăm câu mấy lần, không tốn nhiều sức, tuổi thiếu niên vẫn dùng được.

Trước kia mỗi lần học bài hay làm bài đều phải nghe nhạc, giống như phải có mới được. Đến đây gần một năm không có nhạc, không có phim ảnh dần dần cũng quen.

A Phúc chạy ra gọi mọi người ăn cơm làm Mai hơi giật mình, đã trưa rồi sao? Nhìn ra bên ngoài, mặt trời đã lêи đỉиɦ đầu, nắng gay gắt, mồ hôi cũng dính dính sau lưng mà Mai không biết.

– Dương ông tìm được thầy đồ rồi hả cha?

– Còn chưa tìm được. Cũng chưa biết năm nay nộp thuế sản vật như thế nào. Lần này Dương ông lên trấn không thuận lợi.

Mỗi năm nghe tin nộp sản vật cả làng đều lo lắng chuẩn bị tiền, vật đi nộp. Năm nay không có tin gì lại càng lo lắng hơn. Thu thuế, thu sản vật là chuyện quan trọng của các quan sở tại, vậy mà bây giờ họ không quan tâm, nghĩa là có chuyện khác quan trọng hơn. Mà chuyện quan trọng đó luôn khiến người dân đen lo lắng nhất, bắt đi lính? Chiến tranh?

Dương ông còn có chuyện chưa nói với Lê tứ. Dù sao Lê tứ là nông dân cũng không biết nhiều chuyện thế sự. Giữa các trưởng làng quanh vùng đều nghe được tin Tân Quốc vương có lệnh để Mạc quan nhân cai quản vùng này nhưng chưa có sắc chỉ xuống địa phương nên chưa thông báo rộng rãi.

Vùng này và phía Cà Mau, Giá Khê, mấy đảo ngoài kia trước nay không ai quản vì xa xôi, đất rừng hoang vu. Chỉ có vài ngôi làng do từng nhóm người Việt, người Chân Lạp, người Hoa sinh sống. Những người đến đây phải xa quê hương vì nhiều lý do. Vì mưu cầu sự sống, họ chịu rất nhiều vất vả, mồ hôi, nước mắt và cả máu để khẩn hoang trồng trọt, săn thú, đánh bắt, còn bị cướp biển hoành hành. Mấy năm gần đây cướp biển ít đi nhưng cuộc chiến sinh tồn với cái đói, bệnh tật, với thú dữ trên rừng dưới nước vẫn diễn ra ngày ngày.

“Thời gian ngắn nữa thôi mọi người sẽ biết, đây là tin vui”, Dương ông nghĩ. Ông nghe nói Mạc thị quan nhân là người kinh lược, rành chuyện thương mã, giao du rộng. Hy vọng ông ấy sẽ mở mang làng ấp, cuộc sống sẽ an ổn hơn.

– Con bắt đầu làm đèn cầy chưa? Kịp giao cho dượng năm không?

Lúc đi chợ về Mai đã thuật lại chuyện Sùng ông giao chụp đèn cho nhà ngoại. Cha vừa mừng vừa lo nên hỏi, chuyện làm đèn này Mai chưa chỉ dẫn người trong nhà làm.

– Ngày mai bắt đầu làm cha, sẽ kịp. Chiều nay con,…

Đang nói chuyện thì nương về, sớm hơn so với ngày thường. Cúc tỷ dọn thêm chén mới cho nương cùng ăn cơm. Nương hơi rầu rầu nói:

– Trong chợ có hai nhà bán đường rồi, mình làm ít hơn chút không?

Cả nhà đã nghe Mai nói chuyện này, cũng đoán chuyện ở chợ Sông Lớn nên không phản ứng lớn. Nương hơi ngạc nhiên nên An ca thuật lại mấy chuyện hồi sáng.

– Mùa này là đường ngon nhất, ngọt nhất. Con nghĩ mình vẫn làm tiếp, để dành ăn hoặc bán từ từ.

Nói xong Mai nháy mắt ra hiệu a An, hắn gật đầu nói tiếp:

– Cha làm thêm hai chái nhà được không?

Rồi hắn nói rành mạch chuyện ở thêm người. Còn chuyện Mai cần chỗ làm đèn kín đáo chút, không nên làm ở bếp, nhiều người thấy.

– Chái bếp rộng chút để ta dời lò ấp qua được không?

Ngũ cô lên tiếng. Lúc gần đây bán gà con, trứng gà, có nhiều người quen đi thẳng vào nhà sau nói chuyện, cũng hỏi dò chuyện ấp trứng nên hơi bất tiện. Cả nhà bàn chuyện dựng thêm hai chái. Mai lại đang vui trong lòng ‘Ngũ cô đã vượt qua được rồi!’.

– A Mai, sáng nay ngồi vẽ mẫu ghe mới sao?

Mỗi lần a Bình thấy cô chăm chú vẽ lên bảng đất hắn liền biết. Sáng nay hắn bận rộn cưa xẻ gỗ nên không đến nhìn. Giống như những người thợ yêu thích say mê công việc, hắn luôn muốn học cái mới, tỉ mỉ bào đυ.c cả ngày trong xưởng.

– Phải.

Mai nói sơ mẫu mới như thế nào, dùng làm gì, còn nói chuyện cô đã nói với cậu ra sao.

– Cậu nói sao?

– Sao không nói nương nghe?

Cha và nương đều không dằn được hỏi, a An đắc ý cười, Mai liếc hắn nói:

– Ca nói tiếp đi. Hắn đương nhiên vui lòng nói ra mấy ý nghĩ hai đứa đã trao đổi với nhau. Cả chuyện cùng cậu hai nói lúc ở vàm sông ngã bảy. Thất thúc hớn hở nói:

– Cha đã nói những chỗ quen hết rồi. Đúng như a An nói, người ta sẽ thích đến nhà mình mua ghe hơn.

– Vậy mốt mình đến nhà ngoại nhiều ngày đi trấn trên nhìn mấy cửa hàng được không? Biết đâu còn xem được đốt pháo múa lân nữa.

A Phúc cái hiểu cái không nói. Lần này đi nhà ngoại nghe mấy anh con cậu kể chuyện lên trấn trên xem cửa hàng khai trương đốt pháo múa lân hắn rất say mê, cứ tiếc là mình không được xem.

Khoan đã, ‘cửa hàng’ không phải là ‘đầu ra’ mình đang tìm cho đường, dầu nhà mình sao? Thay vì cạnh tranh bán ở chợ phiên, mình bán ở nhà. Dân cư xung quanh đây bắt đầu đông rồi, thay vì chờ đến chợ phiên thì hàng ngày nếu cần đều có thể đến đây mua. Nhà mình còn bán gà con, trứng gà, trứng vịt; còn mật ong nữa. Làm đèn cầy chỉ dùng sáp ong nên Mai vẫn đang nghĩ cách bán mật ong. Mật ong không khó bán, các tiệm dược liệu đều muốn mua mật ong. Mai muốn đợi khi có nhiều sẽ đi một chuyến lên Trấn Giang bán, hoặc nhờ dượng bán cùng với đèn cầy. Bây giờ bán một ít ở cửa hàng nhà mình luôn, rất tiện lợi.

Đợi dịp không bằng sẵn dịp, Mai nói:

– Hay là nhà mình dựng thêm phía trước tiệm tạp hoá đi.

– Tiệm tạp hoá là gì?

Giải thích xong ý tưởng của mình, Mai đứng dậy uống chén nước mật ong bàn bên, nói tiếp:

– An ca tính tiền nhanh nhất, ca làm tiểu nhị đi.

Hắn cười tít mắt nhìn Mai, trúng ý rồi phải không? Mai đã sớm nhìn ra a An rất thích chuyện buôn bán mà cũng có khả năng nữa.

– Đệ, đệ bán phụ được không?

– Đệ biết tính tiền không? Làm mất tiền thì sao?

– Đệ, đệ,…

Ai biểu ngày thường kêu hắn học không chịu học.

– Đợi đệ học tốt mới ra tiệm bán.

– Dạ, tối nay đệ học.

A Phúc nhanh nhảu đáp ứng. Nghe mấy đứa nhỏ hào hứng nói mà không bị cản, xem ra người lớn cũng xuôi xuôi chuyện này rồi. Cha nói:

– Hết tháng này, tháng sau là lo cuốc đất, sạ lúa rồi. Nhiều việc quá làm không xuể.

– Thúc, lúc đó ông bà nội, nhị bá, cha nương cháu vô làm phụ mà lo gì.

– Phải đó thúc, cha nương cháu, ca tẩu cũng vô.

Hân ca, Bảo ca đều ủng hộ chuyện này, ngũ cô cười nói:

– Tẩu cháu đang mang thai cũng bị cháu lôi đi làm ruộng, coi chừng cha cháu đánh nát đít.

Ha ha, cả nhà đều cười a Bảo nôn nóng. Ai không biết người lớn trong nhà đều trông đứa cháu chắt đầu tiên này.

– Vậy cũng được, để tam Mi bán võng đệm ở tiệm mình đi. Chứ bá mẫu mới mang thai không tiện đi chợ xa. A Tương vẫn chưa về, bên đó neo người quá.

Chắc là sáng nay đi bán chung bá mẫu ôm nghén nên rất khó chịu. Cha gật đầu, còn một người khác cũng nhanh chóng gật gật. Ha ha, Mai cười thầm, Hân ca cũng biết nhìn quá. Tam Mi tỷ đẹp người đẹp nết, khéo tay lại chăm chỉ. Chẳng trách ca ấy nhất quyết không đi xem mắt mà chờ người ta. Tỷ ấy nhỏ hơn Cúc tỷ mấy tháng, theo ý nhà Lưu bá lo chuyện Tương huynh xong sẽ đến tam Mi. Chuyện Tương huynh chưa biết như thế nào, đương sự không có mặt đành phải chờ.

Bữa cơm trưa kéo dài hơn ngày thường. Nói xong chuyện thì cả nhà buông đũa, kéo nhau ra sân bàn xem dựng chái dài rộng bao nhiêu, cửa tiệm đặt ở đâu, kích thước sao. Cuối cùng chọn cửa tiệm đặt trước cổng vào nhà, bên hướng từ vũng Đông Hồ vào, có cửa sau đi tắt vào trong sân để tiện việc ra vào bán hàng. Dựng ba gian nhỏ phía trước, hai gian nhỏ chỗ nấu nướng và l*иg đặt gà vịt con.

Lần trước làm thử một tổ sáp ong đèn cầy, Mai đã ghi nhớ cách làm. Lần này nương, ngũ cô và Cúc tỷ cùng làm, Mai và a An chiết mật vô bình gốm cất giữ, tính giá bán mật ong. Mai còn chạy ra xưởng xem đóng ván ghe mới.Chương 90: Con gái, cũng không phải như bề ngoài! Phải nhìn kỹ!Thoáng chốc đã đến ngày chợ phiên, nương không đi chợ bán. Lưu bá mẫu ốm nghén dữ quá cũng ở nhà, lúc qua nhà Mai chơi cứ nhắc Tương huynh. Huynh ấy đi gần nửa tuần trăng rồi. Hai hôm trước nhà ngoại có người về để chở thêm gạo lúa bán huynh ấy không theo về. Lại nghe chuyện ra giêng năm sau là Từ tiểu thơ xuất giá.

– Tẩu đừng buồn rầu sanh bệnh, còn có đứa nhỏ trong người. A Tương lớn rồi, hắn sẽ nguôi ngoai thôi.

Nương chỉ biết an ủi vậy, đang tìm chuyện khác nói thì bá mẫu thở dài:

– Hôm trước sui gia Nguyễn gia mang lễ đến muốn hưu. Nghe nói là không thèm nhắc đến cháu nội gái luôn.

– Ừ, ta có thấy xuồng lớn ghé vào Nguyễn gia, cũng đoán được. Nhà bên đó quá tuyệt tình đi, dù gì cũng có cháu nội rồi.

– Ngoại a Tương nghe được tin là nhà họ muốn kết giao với họ Trần ở Trấn Biên, dòng dõi quan lại ở Chánh Dinh mới theo về.

– Nguyễn gia bên này không phải cũng là dòng dõi nhà quan sao?

– Ừ, thì vậy nên trước đây họ mới kết thông gia. Không biết sao bây giờ lại quyết liệt vậy, chắc có ẩn khúc mà mình không biết.

– Vậy Nguyễn gia tính sao?

– Còn tính gì, người ta làm đến vậy cũng không thể mặt dày níu kéo. Huống hồ Nguyễn bá rất trọng danh tiếng, đã đồng ý rồi.

Nguyễn bá trong lời bá mẫu nói là ông nội của a Tùng.

– Vậy ba bà cháu họ làm sao?

Khó ai trả lời được câu hỏi của nương. Ba bà cháu là ý chỉ vợ lớn, con gái và cháu ngoại gái của Nguyễn bá. Có cha, có chồng, có ông ngoại nhưng không nương tựa được, chịu hắt hủi vì không sinh con trai, lại sức khoẻ yếu không thể sinh nữa. Người ta vứt bỏ còn dùng lời rất hợp tình vì giữ hiếu đạo phải có con trai nối dõi tông đường.

Đứa bé gái mới hơn tháng tuổi kia cũng quá bất hạnh. Sau này sẽ hiếm có nhà nào cưới về vì sợ chịu liên luỵ, có bà ngoại và nương không thể sinh con trai thì bé cũng không thể. Đây là suy diễn hiển nhiên của người thời này.

Nói mấy chuyện này làm cả nhóm đàn bà con gái trong nhà ưu sầu. Bá mẫu càng nhạy cảm hơn, làm Lưu bá qua đón hết hồn hỏi chuyện gì, biết ra thì cằn nhằn không ít:

– Nàng lo chuyện gì đâu, ta sẽ như vậy sao?

Đợi hai người đi khỏi cha Mai cũng nhăn mày lẩm bẩm ‘người ta có thai như vậy, nàng có thai đâu mà cũng học theo’. Nương nghe ra liếc mắt quay lưng vào bếp.

Trời ơi, vậy mà cũng gây nhau sao! Mình không rãnh!

Những ngày này đúng là không rãnh chút nào. Cha nương sợ đến lúc mưa không kịp cuốc đất nhổ cỏ nên tranh thủ sáng sớm hay chiều mát đều ra ruộng. Cả nhà cũng ráng theo làm, a Vĩnh đi học ở nhà lang y về cũng chạy ra. Một mình a Phúc chăn đàn vịt, cũng may bọn chúng chỉ lạch bạch lên xuống ở ao nước, không chạy đi đâu. Nhờ ao nước này nên chúng không xuống sức, lớn lên từng ngày, lông mướt như mùa nước lên.

– Ca, nhắn cha nương vào dựng giúp cửa tiệm đi, mất hai ba ngày.

Thất thúc quơ tay mỏi mệt nói. Bảo ca khỏi nói gật đầu lia lịa. Hắn mới vô nửa tháng mà làm nhiều việc hơn mấy tháng ở làng chài. Thanh thiếu niên ở làng chài đi theo phụ đánh cá, về nhà ngủ dưỡng sức. Mấy việc lựa cá, vá lưới đều có đàn bà con gái trong nhà làm. Nhà nào ít người thì mới cực hơn chút.

Nhà nông ở đây thì khác, lúc nào cũng có việc. Nhìn năm mẫu ruộng cỏ đã mọc lan, tự nhiên ai cũng thấy mỏi rã rời. Hân ca cười ha ha trêu hắn.

– Không phải lúc trước đòi vô đây sao!

Nhìn mấy đứa nhỏ đều mệt mỏi mấy ngày nay, cha gật đầu dặn thất thúc qua nhà Lưu tam bá nhắn giúp.

Đang cùng Bình ca ghép ván đáy thì cô thấy cổng trước có hai người đàn bà hơi lớn tuổi bước vào. Một người Mai nhận ra, là bà ngoại Tương huynh. Một người lạ, chắc là tìm nương rồi. Mai bước ra ngoài dẫn khách vào nhà sau.

Chào hỏi xong, Nguyễn bà nói:

– Vợ Lê tứ, cháu nói a Cúc qua nhà nương a Mi nhắn dùm ta chút nữa ta qua đó, khỏi trông ta mà sốt ruột.

– Dạ được.

Cúc tỷ nghe lời nương bước ra sân, nháy mắt với Mai, hất cằm vào nhà sau. Mai hiểu ý không ra xưởng nữa mà đi vào phòng ngồi sát vách nghe. Nương thấy vậy chỉ nhăn mày nhưng không thể la rầy cô trước mặt khách, đặc biệt là bà mai Đỗ được. Nương và ngũ cô mang mâm trầu, bộ bình trà nước lên sạp. Bốn người hỏi thăm đông tây một hồi cũng vô việc chính:

– Mấy hôm trước có La gia ở làng Bình San cậy ta hỏi thăm con gái nhà cháu, cũng đến tuổi tìm mai mối rồi. Nhà cháu thấy được thì họ xin đưa lễ tới.

– Dạ, a Cúc được mười sáu rồi, thật cũng đang tìm chỗ tương hợp.

– Tốt quá, ta nói La gia ở đó, …

Tiếp đó là nói gia cảnh La Hùng huynh như thế nào, phần lớn Mai đã biết. Chỉ có góc gác La gia thì mới nghe nói. La gia trước kia ở gần Phiên Trấn bây giờ, sau mấy năm loạn lạc mới về đây. Nương Hùng huynh sanh a Báo lúc trời mưa bão, lại thêm sức khỏe yếu nên bệnh tật quấn thân không qua nổi.

– Gia cảnh hơi đơn chiếc nhưng cũng đủ ăn đủ mặc. Ở trong làng cũng có giao thiệp rộng rãi.

Trời, nhà huynh ấy ở lưng chừng núi, chỉ có bốn nhà xung quanh, vậy cũng tính giao thiệp rộng rãi sao! Mai cảm thán trong bụng.

Nương Mai nghe xong cũng hỏi thăm năm tuổi, tháng sinh của Hùng huynh.

– Ta nói, bên nhà họ rất có thành ý đó, đến nhà ta mấy lượt rồi. Chỉ là mấy hôm nay ta có việc đi qua làng Tô Châu bên kia nên giờ mới đến nhà cháu.

Thì ra vậy, Mai còn đang sốt ruột mấy hôm nay. Đỗ bà mai còn không nói mới sáng nay La Hùng đến nhà bà, mang theo cặp gà nhờ lần thứ ba rồi.

– Chuyện chung thân này để cháu bàn thêm trong nhà rồi trả lời bá mẫu.

– Được, được, đương nhiên phải như vậy.

Nói thêm mấy câu khách sáo thì hai người đi qua nhà Lưu bá, thật đúng là có hẹn bên đó sao? Là làm mai cho Tương huynh à?

– Muội thấy sao? Con còn không ra đây, thiệt là không biết lớn nhỏ. Nương cằn nhằn một hồi, tuy nhiên nương không sợ Mai nói ra ngoài. Thật ra đôi lúc bà thấy Mai còn kín kẽ hơn bà nữa; có chuyện gì đều giữ kín bưng,

– Ý tẩu sao?

Ngũ cô không trả lời mà hỏi lại nương.

– Ta thấy tính tình a Hùng được, siêng năng chịu khó. Không biết bà nội và cha hắn sao.

– Tẩu nhờ nương a Mi hỏi thăm thêm xem. Mà hôm trước con đến nhà đó mà, có gặp người lớn trong nhà không?

– Dạ có.

Mai gật đầu trả lời.

– Con gặp bà nội a Báo ở chợ mấy lần rồi.

– Vậy à? Rồi sao?

Nương hỏi tới, nên trả lời thế nào bây giờ?

– Bà ít nói, La bá bá cũng vậy, con chỉ chào hỏi rồi thôi hà.

Cũng đúng, a Mai còn nhỏ đâu thể nói chuyện gì được.

– Đợi bà mai về, ta qua nhà a Mi nhờ.

Cúc tỷ về còn đi chung với tam Mi tỷ, hả? Bà mai cũng bận rộn ghê, tìm mối cho cả tam Mi à? Mà có cái gì bí mật chứ, tứ Mi bên kia chắc cũng đang nghe lén theo ý của tam Mi tỷ. Đợi khi thấy bóng dáng bà ngoại a Mi và bà mai đi rồi, nương xách nón qua bên đó. Nương còn nôn nóng hơn ai hết, gả con gái ra ngoài mà, sao nôn dữ vậy trời!

Buổi tối tranh thủ lúc ngũ cô đi tắm, a Cúc kéo tay Mai ý hỏi. Mai buồn cười nghĩ ‘thì ra cũng không phải tượng đất, cũng biết lo nghĩ tương lai của mình, vậy mới được’.

– Sao vậy, có chuyện gì sao?

– Muội, muội còn hỏi,…

A Cúc trợn mắt nhìn, thấy ý cười trong mắt Mai thì thẹn quá hoá giận định nhéo lỗ tai Mai. Cô né ra bụm miệng cười hắc hắc.

– Là người quen, tỷ gặp mấy lần rồi.

– Là hắn sao?

A Cúc nói nhỏ, gương mặt hơi ửng hồng. A thì ra trong lòng đúng là có người rồi.

– Tỷ nói ai?

– Vậy muội nói ai?

Trời, tưởng mắc mưu rồi, vẫn còn tỉnh táo!

Mai tỉ mỉ kể a Cúc nghe chuyện lúc chiều, để tỷ hiểu rõ tình hình vẫn tốt hơn. Cô còn kể chuyện đến nhà Hùng huynh hôm trước.

– Muội thấy bà nội tuy nghiêm khắc nhưng như vậy lúc nhỏ Hùng huynh được dạy rất tốt, hiểu lễ nghĩa. La bá chủ yếu lo kế sanh nhai bên ngoài. Chuyện trong nhà sau này một mình tỷ sẽ lo liệu, hơi vất vả nhưng không có nhiều người đỡ chuyện soi mói nhau.

– Tỷ không sợ vất vả.

– A, ừm,..

– Có gì thì muội nói đi, ừm à cái gì?

– Là chuyện Hùng huynh săn bắn, có chút nguy hiểm. Muội có cách có thể kiếm ra tiền mà không nguy hiểm.

– Ý muội là làm nông giống nhà mình, dời xuống đây ở sao?

– Không cần phải dời xuống đây, dù sao La gia ở đó lâu rồi cũng không nỡ dời đi.

– Vậy là làm ruộng trên núi, được không?

A Cúc nghi ngờ hỏi, chưa nghe nói trên núi làm ruộng, mà sẽ cực hơn nhiều. Mai cười cười nói:

– Tỷ nói đúng một nửa, là trồng cây nhưng không phải cây lúa mà là cây ăn quả, giống như cây xoài.

– Thật? Được không?

– Muội mới nghĩ đến thôi, muội sẽ trồng thử trước.

– Ừ, tỷ biết rồi.

– Tỷ, nếu tỷ coi trọng Hùng huynh thì phải giành lấy. Lúc người lớn hỏi phải tỏ ý biết không? Bà ngoại thương tỷ sẽ tìm người tốt nhưng cũng không bằng mình tự chọn.

– Ta biết rồi. Nói gì ta tự chọn, là cha nương chọn.

Ha ha ha, thì ra a Cúc cũng không phải như vẻ ngoài nhu mì. Hùng huynh ơi, cái này huynh tự mình đi cầu bà mai, không liên quan đến ta.Chương 91: Chuyện vui thành đôiCái ghe lớn năm bản thứ hai được hạ thuỷ rồi. Mấy người lớn thở phào, lau mồ hôi trên mặt, mặc dù có đường ray cũng phải tốn không ít sức. Bảo ca tuy mệt mỏi nhưng trên mặt cũng có niềm vui, hắn cũng tham gia đóng xong một chiếc ghe đó.

Mai là rằm tháng ba, hơn mười ngày nữa a Sao đến giao tổ ong nên cha vội vào xưởng làm tiếp mẫu ghe nhỏ để kịp giao. Nắng lên cao, vừa vào giờ ngọ có hai chiếc ghe tiến vào, là nhà nội, có người giúp rồi. Mai còn đang chờ dựng chái nhà và cửa tiệm.

Khách đến cùng ông nội là người ở làng chài phía bên kia Gò Lộc Trĩ. Ông ấy nhìn chiếc ghe mới được hạ thuỷ chăm chú. Mai châm bình nước để An ca mang lên mời khách, ông nội vừa nói chuyện vừa dẫn đoàn khách đi một vòng quanh xưởng. Cuối cùng là ra cái ghe mới. Nhị bá và Vinh ca không đi theo mà vô xưởng làm, a Bảo hớn hở ra mặt. Lần đầu tiên hắn xa nhà lâu như vậy, thấy cha và ca vào không khỏi vui mừng, hỏi đủ chuyện ngoài làng chài.

An ca từ nhà trên chạy xuống:

– Người ta mua cái ghe mới rồi, còn hỏi thăm mẫu ghe nhỏ đang đóng nữa đó.

Yeah! Từ lúc qua Tết giờ cái ghe này là cái đầu tiên bán ra, ai nghe cũng đều vui mừng. Ngũ cô nghĩ nghĩ nói:

– Tẩu, mình tặng khách cặp vịt được không? ở ngoài đó ít có vịt.

– Được, muội lựa con lớn chút.

Đàn vịt này đã nuôi qua năm tháng, có con đã đẻ trứng rồi (ở đây người ta gọi là rớt hột). Trong bầy có gần hai chục con trống, bự nhất đàn. Nương nói cần khoảng mười con là được nên ngũ cô cùng a Phúc dí bắt hai con vịt trống lớn, trói chân để An ca mang đi.

Khách vui vẻ nhận vịt. Ông nội cũng nở mày nở mặt, có qua có lại mới toại lòng nhau. Khách vội về nên không ở lại ăn cơm, người con trai đi theo cầm chèo mới còn thơm mùi gỗ lướt nhẹ trên nước, nhanh chóng chèo đi.

Bữa cơm trưa chia hai bàn, có thêm món thịt vịt kho xả, có thêm trứng vịt luộc. Bây giờ chuyện gà vịt, ấp trứng do ngũ cô lo liệu, có a Phúc theo bắt còng, vớt bèo cho chúng ăn. Hai cô cháu quanh quẩn, rù rì với nhau làm ngũ cô mất dần ưu thương trên mặt.

Ông nội không nghỉ ngơi mà bắt tay dựng chái nhà luôn, ông nói:

– Mấy hôm trước có thương lái đến mua nước mắm ở mấy làng. Họ còn dặn tháng mười một đến mua tiếp, ta tranh thủ còn về nhà làm. Nhà Ngân huynh bên kia nhờ bán nước mắm mới đủ tiền mua ghe mới đó.

Người dân ở đây dù làng chài hay trong ruộng đều biết làm nước mắm từ cá. Ở biển thì dùng cá cơm hay mấy cá nhỏ khác, miệt đồng thì mùa nước nổi có cá linh, cá sặc, cá lóc. Một số thương lái sẽ đến mua nhưng trước giờ không đều. Họ cũng không báo trước nên nhà nào còn trữ nhiều thì bán, nhà nào không có đành chịu.

Ông hơi dừng chút rồi nói:

– Cha thấy cái ghe nhỏ bán mười hai quan được đó.

– Ông nội, ghe nhỏ này sợ không đi biển được, nó nhẹ quá không chịu được sóng lớn.

Bình ca lên tiếng, hắn là người cùng Mai vẽ và tính toán ván ghe. Mai đã nói hết các điểm lợi hại trong đó.

– Ông nội biết. Có thêm một chiếc ghe là có thêm kế mưu sinh, trong nhà có cái ăn. Làm ra cho ai dùng cũng tốt.

Chuyện dựng chái nhà và cửa tiệm do ông nội chỉ huy Bảo ca và An ca làm. Người khác đều bị ông kêu lo làm trong xưởng. Lúc ghép ván ghe nhỏ ra hình ra dạng xong ai cũng ngạc nhiên nhìn nó.

Nó rất khác so với kiểu ghe thông thường, bề ngang gần thước rưỡi, bề dài chưa đến tám thước mà bề cao hai thước. Bên trong ghe gác ván từng tầng, ván cao nhất sát thành ghe. A Phúc nói nhìn nó giống y chang trứng hột vịt. Cả nhà có vẻ hơi lo lắng, chờ lớp nhựa cây trát kẽ hở khô để hạ thuỷ dùng thử.

Ba người nhà nội không chờ được ghe mới hạ thuỷ mà vội về làng chài. Cha nói sẽ nhắn cho,ông biết chuyện cái ghe nhỏ này. Đàn bà và trẻ em thì đang rộn ràng chuyển đồ sang chái nhà và cửa tiệm. Nương còn nói cha nhờ sư ông xem ngày tốt mới khai trương cửa tiệm.

Tương huynh cuối cùng cũng từ Mỹ Tho về. Bá mẫu mắt đỏ hoe nhìn huynh ấy gầy nhom, đen nhẻm. Huynh ấy qua nhà Mai chào hỏi, nhìn cửa tiệm một lát rồi đi về. Mấy ngày sau bá mẫu khóc nói huynh ấy theo Trần bá đi Trấn Biên rồi. Lưu bá không cho cũng không thể cản được. Trấn Biên đi về cũng gần hai tháng, vậy đến lúc sạ lúa đầu mùa mưa mới về sao?

Ngày tốt tháng này là hai mươi bốn. Lưu bá mẫu biết nương muốn bán mấy món đồ tam Mi, tứ Mi làm rất cảm kích. Bá mẫu tìm được ở đâu miếng vải đỏ, muốn thêu tên cửa tiệm treo phía trước.

– Để người ta biết mà gọi chứ, treo cao chút, ở xa cũng nhìn thấy quán mình.

Bá mẫu rất hào hứng nói. Nhóm đàn bà rất thích chuyện mở cửa quán này, người thì thêu, người thì sắp xếp đồ đạc lên kệ, bện dây thừng làm thành móc treo. Chiều mát trời có thêm mấy thím trong làng nghe nói cũng đến, đương nhiên là Lưu tam bá mẫu cũng qua.

Nói xong chuyện quán thì tam bá mẫu kéo tay nương nhỏ giọng hỏi chuyện a Cúc, thật ra cũng khó giấu được ai. Nương đáp thật là đang chờ ý ông bà nội ở làng chài. Cha có nói với ông nội và nhị bá hôm trước: – A Hùng cũng được, chỉ là gia cảnh đơn chiếc quá. Có chuyện bên sui gia nữa, nhà sui gia cẩn trọng chắc cũng lựa chọn rồi mới lên tiếng. Vợ chồng con cũng đừng vội. Có gì cha nương sẽ nhắn lời vô.

Chuyện mai mối lúc mới dạm lời cũng không thể nhanh được. Đỗ bà mai có đến một lần sau đó, nghe ý nương phân trần thì nói nên như vậy, để bà báo tin bên kia biết.

– Mật ong à, ở đâu nhiều vậy, bán như thế nào?

– Bán mỗi lần một chén nhỏ này, hai mươi văn một chén. Mật này nhà cháu mua ở tận Giá Khê đó, rất ngon.

Mai mua tổ ong nửa quan là một trăm tám mươi văn, rót mật được tám chín chén nhỏ này, nên bán hai mươi văn, Mai còn lời sáp ong. Mọi người không biết Mai giữ lại sáp ong sinh lời nên tự tính thì giá như vậy không mắc. Bình thường chỉ có thể mua cả tổ ong, không ai bán một ít như vầy. Cả tổ ong thì mua không nổi, nhưng một chén sẽ có người mua.

– Sáng mai thím đến mở hàng, nhà cháu tặng thêm sáu hột vịt.

– Thiệt không?

Thím vừa hỏi vừa nhìn nương, dù sao Mai chỉ là đứa nhỏ, lời nói sao đáng tin như người lớn.

– Thiệt, sáng mai thím đến mua đầu tiên, ta còn tặng năm sáu trứng nữa chứ.

– Ha ha, được.

Nhờ ao nước ngọt đào tháng trước và được ngũ cô chăm sóc, đàn vịt rất sung sức. Mỗi đêm rớt hơn bốn mươi hột. Không phải cái nào cũng ấp được. Trứng dư trong nhà ăn nhiều không tốt, nương cho nhà Lưu bá mẫu một ít. Hôm ông nội về cũng mang theo cặp vịt và một rổ lớn trứng gà vịt.

Những nhà không thân mà không có lễ Tết gì cũng không thể tặng cho người ta. Nhân dịp này tặng đi, vừa bán được thêm mật ong vừa tạo giao tình với người trong làng. Hột vịt vào mùa nước thì không hiếm nhưng mùa khô này thì không dễ tìm chút nào.

Tờ mờ sáng ngày hai mươi bốn cả nhà đã dậy, ra vào chuẩn bị. Đầu giờ mẹo, giờ tốt, cha bày mâm cúng có gà luộc,dĩa xôi đậu xanh, ba ly rượu, chén gạo muối, dĩa trái dừa, đu đủ ở phía trước cửa quán cúng. Mặt trời vừa lên, nhang cũng tàn, cha treo vải đỏ thêu chỉ xanh tên quán là Quán Đông Hồ nhìn xa như lá cờ (ở đây gọi là phướng) bay trong gió. Theo thói quen Mai vỗ tay hoan hô, a Phúc nhanh tay vỗ theo làm không khí vui vẻ hơn.

Lưu bá, Lưu bá mẫu dắt tay ngũ Mi đi vào mua một chén mật ong, một đòn đường thốt nốt.

– A, Tẩu mở hàng trước rồi à, ta còn tưởng ta đến sớm nhất chứ.

Nương vui vẻ bán hàng và nói chuyện với thím năm. Đương nhiên là vẫn tặng thím ấy nửa chục hột vịt. Nhà Lưu bá qua mở hàng là tấm lòng, hai nhà từ xưa giờ vẫn như vậy. Nhà Mai đưa qua hột gà hột vịt, bá mẫu sẽ đan giúp nương mấy tấm đệm, mấy cái giỏ. Mấy lúc người lớn đi vắng, An ca và a Phúc sẽ qua lại trông chừng không để nhóm con gái ở nhà một mình.

Hôm nay chủ yếu là những nhà quen đến mua mở hàng, a An đang thu xếp dọn dẹp thì có khách đến. Nhà vị bá mẫu mới dựng xong, ở phía kia Nguyễn gia, ngày mai cúng gác đòn đông nên mua hai con gà, chục hột gà. Nhìn đàn gà con chíp chíp trong l*иg tre bá mẫu mua hai chục con làm a An mừng quýnh, tiền bán gà, hột gà là tiền riêng của tụi nhỏ đó.

Lúc sắp dọn cơm, hắn không dằn lòng được đem hộp đựng tiền đã sắp đầy ra đếm, gần bốn quan rồi. Bảo ca không khỏi hâm mộ nhìn, thất thúc thấy hắn như vậy, vỗ đầu nói:

– Ganh tỵ cái gì, học đóng ghe cho giỏi. Biết mỗi chiếc ghe bán bao nhiêu tiền không? Để dành nhiều tiền cưới vợ.

– Gì chứ, thúc cưới trước.

Mọi người cười nghe hai chú cháu chọc nhau.

– Lúc nãy cha xem nhựa trát ghe khô rồi, hôm nay ngày tốt, hạ thuỷ luôn đi.

Mỗi chiếc ghe khi bắt đầu đóng miếng ván đầu tiên và khi hạ thuỷ đều cúng thuỷ thần cầu phù hộ bình an. Lễ cúng không cầu kỳ, đơn giản là trái cây, rượu, gạo muối; long trọng hơn thì cúng con vịt hoặc thịt heo, chè nếp nấu đậu hoặc xôi.

Hai hôm trước dọn bếp nấu sáp ong sang chái phía trong vườn xong Mai đã đúc hết số sáp ong, chờ vài ngày nữa a Sao mang thêm đến. Lần này được mười bốn cặp đèn.

Theo như hẹn thì dì dượng năm đã đến từ ngày rằm, không hiểu sao quá hẹn lâu vậy. Có thể giống như hồi trước Tết, việc buôn bán trên sông cũng không chính xác từng ngày được. Nương và Mai đang xem lại từng cây đèn có bị lỗ mọt hay bụi chưa lọc kỹ không. Lần này làm bán nên nương dùng miếng vải tốt lược cho sạch bụi bẩn, đèn trong vắt, vàng nhạt lại toả hương thoang thoảng, đốt lên sẽ rất tốt cho sức khoẻ. Không khí ở đây vốn trong lành, không ô nhiễm, nếu là ở hiện đại thì đèn này còn giúp lọc không khí nữa.Chương 92: Đường về làng chài không còn xaPhía nhà trước đang chuẩn bị đặt ray hạ thuỷ, tiếng mọi người hè nhau dùng sức vang vang. Nương nhẹ nhàng xếp từng cặp đèn vào hộp gỗ lót vải, mỗi cây dài nửa thước, to cỡ ba thốn. Mai thấy nương cất hộp đèn xong thì đi trước ra ngoài. Ra đến bếp thì gặp dì năm tươi cười đi vào.

– Nương ơi, dì dượng đến rồi.

– Ừ.

Đã đến rồi, nương thở phào nhẹ nhõm, đứng dậy khép cửa rồi đi cùng Mai ra sân.

– Tỷ,

– Sao đến trễ vậy, làm ta lo lắng quá, sợ có chuyện gì.

– Chuyện gì đâu. Chàng ấy gặp người quen ở Cù Lao Phố, lưu lại nói chuyện mấy ngày.

– Dọn đồ lên chưa?

– Chưa, chàng ấy phụ hạ thuỷ xong đã, mà muội chỉ ngủ lại đêm này, sáng mai đi sớm.

– Sao vội vậy?

– Chàng có hẹn gì đó, tỷ có bao nhiêu cặp đèn. Chàng đã nhận tiền trước mười cặp đèn, giao mười cái chụp và dĩa trước rồi, giờ chỉ còn chờ đèn thôi.

Dì năm nhỏ giọng hỏi nương.

– Vậy được, có mười bốn cặp, ta với a Mai vừa xem xong.

Nghe tin này nương càng vui, lần đầu làm ăn với nhà ngoại a Bình cũng hơi lo lắng. Tính ông ngoại xưa nay trầm tĩnh, đối với con cái rất uy nghiêm nên nương không khỏi căng thẳng. Hai người quay lại xem đèn, nói chuyện còn Mai ra xem cái ghe mới.

A! A! Phía sân trước có tiếng la rồi ‘ùm’. Mai vội chạy ra coi có ai rớt xuống nước sao?

A Bảo ướt như chuột bò lên, mặt còn nhăn nhó. Trong khi a Bình đã ngồi trên thanh ván gần mũi ghe nhẹ nhàng chèo quay lại cầu ván.

– Để ta thử xem.

– Thúc ngồi ở đây, muốn đứng chèo phải xuống hai bậc nữa.

Thất thúc đứng hai chân thành thế thoải mái chèo đi chèo về.

– Ca, nhẹ lắm. Một người chèo không mệt chút nào.

Tiếp đó là mỗi người đều muốn thử, Bảo ca rút kinh nghiệm lần này mới không bị té nhào xuống vì ghe nghiêng nhanh nếu không biết thế.

– Được, nhẹ thiệt. Đi vòng quanh bán hàng cả ngày chưa mệt.

– Cái này không chở được nhiều hàng như ghe dượng đâu.

Dì dượng đang dùng ghe lớn chuyên dùng của thương lái quanh năm trên sông, có chỗ ngủ, có chỗ chứa hàng. So với cái ghe hột vịt này sao được.

Nương dẫn dì năm từ trong nhà ra quán, ngũ cô đang cho gà con trong l*иg tre ăn đứng dậy chào.

– Từ xa đã thấy phướng đỏ này, muội cứ nghĩ không biết nhà tỷ treo làm gì. Ngũ tỷ muốn bán mấy món trên ghe nhà muội luôn không?

Dì năm tính tình nhanh nhẹn hoạt bát, miệng nói tay làm. Dì gọi dượng mang mấy món lên bày trên kệ quán, có dầu đốt (là dầu phộng), kim chỉ may, mấy loại vải thô – khổ nhỏ, túi trà, cau khô, vôi ăn trầu, thuốc lá phơi khô, đá bật lửa và mấy món thiết yếu khác. Còn có đồ trang sức gọn nhẹ như lược gỗ, vòng tay đá, trâm gỗ.

– Chàng thấy mấy giỏ tre này sao? Rất tiện dụng, đan cũng khéo nữa.

– Ừ.

Cũng không cần vào trong nhà, ở quán tính toán xem bán món gì thì được, giá bao nhiêu. Hân ca chèo ghe qua nhà Lưu bá rồi chở Lưu bá mẫu, tam Mi tỷ mang theo một số cái rổ, giỏ tre trong nhà qua cho dì dượng xem. Mai kéo tay a An, nói nhỏ ‘ca học dì dượng buôn bán đó’; hắn gật đầu, yên lặng lắng nghe.

Buổi tối mấy người lớn ngồi trên bàn, tụi nhỏ chia nhau ngồi trên hai bộ ván. Dượng đặt túi tiền lên bàn nói chuyện bán mười cặp đèn nhận tiền trước của khách ra sao. Tiền mua chụp và dĩa đất nung bao nhiêu, tiền bốn cặp đèn dượng cũng trả trước luôn; rồi hai phần tiền của dượng tính làm sao.

Từng khoản dượng đều nói rõ ràng. Mai tính nhẩm rất nhanh ra được số tiền nhưng cô không nói mà nhìn a An, hắn hơi khàn giọng nói:

– Lần này mười bốn cặp là bảy quan, trừ mua ba mươi chụp và dĩa nhà Sùng ông còn ba quan một trăm hai mươi văn, trừ đi ….

– Tỷ phu đếm tiền trong túi.

Đợi nương cất tiền xong, dượng nói tiếp: – Lần này đi hơi vội, tỷ phu làm càng nhiều đèn càng tốt, rằm tháng sau ta đến nhận. Sáng mai ta sẽ đến đặt Sùng thúc thêm một đợt chụp nữa.

– Được, ta sẽ nhờ thêm người lấy tổ ong,

Dượng ngừng hơi lâu như suy nghĩ, miệng thì nói với cha nhưng mắt liếc về phía Mai:

– Có thể làm hồng lạp được không? Rằm tháng sau là Lễ Phật Đản sinh, nhiều người tìm mua hồng lạp cúng dường. Bây giờ làm sẽ không kịp bán, đến Rằm tháng bảy Lễ Vu Lan Bồn, nếu có thể làm được sẽ bán rất tốt.

Cái này Mai chưa nghĩ đến.

– Cháu sẽ làm thử, nhưng không chắc là được.

– Ừ, còn thời gian mà. Cháu thử xem.

Dượng sảng khoái đáp ứng, có gấp cũng không được. Hồng lạp chỉ dùng vào các dịp lễ lộc, bán được giá cao hơn nhưng không dễ làm. Nếu nhà mình làm được thì tốt quá rồi.

Chái nhà mới bên kia có đặt hai bộ ván, trải chiếu, gối đan cho nhóm con trai, không cần chen chúc khi có khách nữa. Có thợ mộc trong nhà nên kệ, móc quần áo đầy đủ. A An được riêng một ngăn đựng hộp tiền là bảo vật của mấy đứa nhỏ. Dì dượng ngủ lại trên bộ ván nhà trên.

Sáng hôm sau dì dượng đi rất sớm, mặt trời chưa lên đã chống ghe đi. “Chuyện ở Cù Lao Phố là chuyện gì vậy?” Mai thoáng nghĩ nhanh rồi cho qua.

Hân ca thưa với cha:

– Cháu định về nhà một ngày, báo tin ông nội chuyện ghe mới được không thúc.

– Được, chờ chút đi với thím cháu đi.

– Dạ.

Mai đoán cha nương muốn hỏi chuyện a Cúc, gặp hỏi chuyện tỉ mỉ vẫn tốt hơn. Lần này đi về nhà nội có nương, Hân ca, Bảo ca, Mai và a Phúc. Mấy người còn lại ở nhà lo việc trong ngoài, việc nhà không dứt ra được nữa rồi.

Khoảng thời gian này năm ngoái Mai lần đầu tiên đi bộ về làng chài, khung cảnh xung quanh vẫn như vậy. Những rặng dừa nước, mảng lát ven sông lao xao trong nắng.

– A Phúc, nhà Tiêu Ân thúc kìa,

– Là cái nào?

Xóm nhà Tiêu Ân thúc có thêm mấy căn. Cánh rừng hoang sau nhà đã được khai khẩn, vài bóng người đang lom khom nhổ cỏ. Sau khi gặp lại bá phụ của mình, Tiêu Ân thúc theo bá phụ buôn bán từ Lũng Kỳ, Cần Vọt, mỗi tháng về nhà vài ngày. Thím Vanh Na sanh con gái ở nhà mẹ đẻ, được hơn tháng thì về trông nhà. Nương có đến thăm lúc thím ấy về nhà, đứa nhỏ đặt là Tiêu Anh, rất sổ sữa, đôi mắt hai mí đen lấp lánh giống thím.

Bờ Tô Châu bên kia cũng có nhiều ngôi nhà mới dựng, lá lợp tươi vẫn còn xanh. Sông rộng khoảng mấy trăm thước, mùa khô nước sông đυ.c ngầu phù sa. Bãi đất bùn kéo dài là chỗ cho hang cua, hang còng mặc sức đυ.c lỗ. Mùa khô sông cạn nước, ghe lớn năm bản có thể băng ngang sông. Lưu bá thỉnh thoảng cũng chở khách sang sông.

– Nương ơi, nương qua Tô Châu bên kia chưa?

– Rồi, cũng mấy năm trước.

Mai tò mò nhìn về hướng núi Tô Châu, có dịp mình sẽ qua đó cho biết.

– Hôm Tết, nhà ta có đi thăm tiểu cậu bên đó, phía trong kia, chỗ gò đó.

Bảo ca nói, chỉ là giọng cũng không quá vui vẻ, ‘tiểu cậu’ à, là em út của bà nội lớn. Hèn chi nhà Mai không đi, nhà nhị bá, tam bá mới cần đi thăm. Chuyện người lớn, cũng qua lâu rồi nên Mai không nghĩ đến những khúc mắc trong đó. Cô tò mò hỏi:

– Bên đó nhiều nhà không ca, có ai mở cửa tiệm giống nhà mình không?

– Cũng không đông, chưa ai mở đâu, nhà mình là đầu tiên ở Đông Hồ rồi đó.

A Phúc cũng gật lia lịa, đây là chuyện mới mẻ ở làng Đông Hồ đó. Trước giờ chỉ có ở trấn lớn người ta mới mở tiệm, mở quán nhà trước, phía sau là ở.

– Lần đó nhị bá chèo ghe đi sao, đi ngã nào?

– Đó, chỗ cửa sông đó, canh con nước đứng băng ngang qua. Giữa sông rộng lắm, gió mát lạnh.

Cửa sông có mấy khối đá lớn chồm ra, làm mặt sông hẹp hơn nhưng đá ngầm lổm chổm ở đáy sông, đúng là phải canh con nước để không đυ.ng đá ngầm. Người ở đây truyền miệng cho nhau kinh nghiệm đi ghe xuồng. Khúc sông, vịnh biển nào nguy hiểm đều bảo nhau nghe. Mấy lần đi chợ hay đi nhà ngoại, cha nương đều chỉ dạy cho mấy đứa con. Cha cũng học chỗ Trương bá, Trần bá những người đã đi qua nhiều sông rạch, biết chỗ hiểm mà tránh. Cứ như vậy, kinh nghiệm sinh tồn được truyền từ đời này qua đời khác.

Lần này ngồi trên ghe, lại không vội vã nên Mai tha hồ ngắm cảnh hai bên bờ. Vũng Đông Hồ. Núi Tô Châu, dãy Bình San, Gò Lộc Trĩ cứ dần hiện ra. Màu xanh thẳm của rừng cây, màu xanh của bầu trời tháng ba, dòng nước phù sa lặng lờ như hòa làm một. Đường về làng chài không còn xa xôi như lần đầu nữa.Chương 93: Ngọc TraiĐến khúc cua ra biển, gió thổi mạnh hơn, Hân ca vừa dùng sức vừa khéo léo chèo vượt qua. Xế chiều nắng rất gay gắt cũng không ngăn được những người đang bận rộn làm việc ở bến. Neo ghe lại, mấy đứa nhỏ ôm gói lớn gói nhỏ, rổ rau to, còn rổ xoài xanh lên bờ.

Đây là công lao Lưu bá. Sau khi bá mẫu ăn được xoài Mai đem từ nhà Hùng huynh về, bá mẫu rất thèm, lúc nào cũng muốn ăn thêm. Bà bầu là lớn nhất nên Lưu bá thử vào cạnh rừng tìm, vậy mà tìm được. Có mấy cây xoài mọc trên gò đất phía trong rừng, trái ra từng chùm trĩu nhành. Hình như không ngọt như xoài ở trên núi, nhưng xanh ngon lại vừa giòn vừa chua đúng ý bá mẫu. Nương nói nhị tấu có thai lớn tháng không biết có thèm ăn xoài hay không, cứ hái mang về nhà nội ăn thử.

Nhóm đàn ông trong nhà chưa dậy, vẫn còn ngủ thêm chút lấy sức tối nay đi đánh cá. Mọi người nhẹ nhàng vào nhà, đi xuống nhà sau luôn, chào hỏi xong thì Hân ca, Bảo ca và a Phúc đi quanh nhà một lát rồi chạy đi chơi. Nương và Mai ngồi cùng nhóm đàn bà con gái trong nhà vá lưới, vá quần áo, làm mấy việc vặt khác và nói chuyện.

Nhị tẩu không đặc biệt thèm ăn chua nữa nhưng cũng không bỏ qua mấy trái xoài xanh này. Bà nội đoán được nguyên nhân nương về nên ý tứ đuổi mấy đứa con gái còn nhỏ ra góc sân chăm lo chuồng gà. Hai chục con gà nuôi hơn tháng đã nhổ giò, lông cánh bị cắt chỉ có lớp lông tơ mịn màng phủ quanh thân. Ở quanh chuồng gà được một lát, cả đám lén đi vào phòng lục cô, cũng không dám nghe lén mà ngồi trên giường rù rì nói chuyện.

Lục cô bí bí mật mật lôi ở trong góc tủ ra cái túi vải, từ bên trong đổ vào tay hai viên ngọc trai. Cả đám giật mình, Mai cũng nhìn kỹ, là ngọc trai thật, ở đâu lục cô có? A Lan đã thay Mai hỏi:

– Ở đâu cô có vậy? Cái này rất quý đó.

– Ta biết, có người tặng ta.

Mai nhíu mày suy nghĩ. Trầm hương, nhân sâm, ngọc trai, yến sào đều là sản vật để cống nạp cho triều đình. Trầm hương, nhân sâm tuy là vật quý nhưng những nhà giàu vẫn lén dùng, tỷ như lúc trị bệnh, dưỡng thân hay đốt trầm trong phòng cũng không ai tra xét. Nhưng ngọc trai thì khác, không phải ai cũng được phép dùng, đặc biệt là làm trang sức. Ở thời này phân biệt giai cấp sang hèn rất nặng. Có của quý trong nhà không phải muốn dùng là dùng, phải coi xem nhà mình có được phép dùng hay không nữa?

Lục cô và mấy đứa con gái vui vẻ ngắm nghía hai viên ngọc. Lục cô nhất định không chịu nói do ai tặng. Mai suy nghĩ rất căng, cô không biết rõ tác hại của hai viên ngọc này, nếu lỡ miệng truyền ra ngoài, có thể sẽ gây hoạ không? Họa lớn cỡ nào?

– Cô, bà nội biết chuyện này không?

– Không, không được nói cho bà biết, nhớ không?

Lục cô dặn mấy đứa, nhìn Mai như đang chờ cô gật đầu đồng ý.

– Cô, cần nói cho ông bà nội biết, nếu không sẽ gây hoạ cho nhà mình.

– Gây hoạ gì? Đừng nói ra ngoài là được mà. Cháu muốn ta bị đánh đòn sao?

Lục cô có vẻ giận, vội đem cất hai viên ngọc trong ngực áo. Mai đoán cô chỉ nghĩ là ông bà nội biết cô nhận quà quý giá của người ta sẽ bị đánh đòn, mà không biết mối hoạ khác. Lục cô rất thân thiết với nhà Mai, lần này thấy Mai về nên cô mới khoe ra, không nghĩ là Mai muốn nói cho người lớn biết.

Dù cô có tức giận Mai đành chịu, chuyện này phải để ông bà nội tìm cách giải quyết thật nhanh mới được. Vừa nghĩ đến đây Mai quả quyết xuống giường, mang giày ra ngoài phòng. Lục cô kéo tay áo Mai cũng không cản được cô ra khỏi phòng.

Ở nhà sau, bà nội ngồi trên sạp tre đang nói chuyện với nương. Hai người dừng lại giữa chừng nhìn Mai đi lại gần. Chắc gương mặt Mai hiện nét lo lắng nên nên bà nội không rầy mà ngoắc cô lại gần hỏi:

– Có chuyện gì?

Mai nói nhỏ vào tai bà. – Thật?

Vừa hỏi bà vưa đứng dậy đi về phòng lục cô. Nương kéo Mai ngồi xuống, đưa mắt hỏi. Chuyện này sớm muộn người trong nhà sẽ biết, chỉ là không rõ ông bà nội có nói hết ra hay không nên Mai hơi lắc đầu nói.

– Con không hiểu lắm, chút bà nội nói với nương sau.

Gần một khắc sau, bà nội lên nhà trên đánh thức ông nội dậy, nhỏ giọng kể chuyện. Sau đó bài xuống nhà sau nói Mai kêu mấy đứa con gái vào. Cả nhà biết là có chuyện nên nghe lời im lặng ngồi góc ván.

Ông nội nhìn quanh một vòng. Lúc nhìn đến chỗ lục cô dừng lại hơi lâu rồi thở dài nói với cả nhà.

– Chuyện a Hạnh không được nói với người ngoài. Ta và a Tân đi qua nhà đó trả lại đồ cho nhà người ta. Sau này không được nhắc lại.

Mấy đứa nhỏ gật đầu. Đợi ông nội và nhị bá đi, bà nội kêu lục cô ngồi cạnh ở sạp tre, nói sơ cho nhóm con dâu biết chuyện. Ai nấy đều có vẻ sợ, kéo mấy đứa con gái của mình ngồi xuống. Bà nội nói:

– A Hạnh, con nên biết món đồ đó không được giữ, sẽ gây hoạ cho cả nhà mình. Biết là hoạ gì không?

Ngọc trai là vật quý dâng nạp triều đình. Có năm vì muốn có sản vật dâng nạp nhiều người phải xuống biển lặn mò từng con sò, con trai. Chuyện này nguy hiểm đến tánh mạng không phải bất đắc dĩ thì ai lại đi tìm?

Có năm gặp may, thợ lặn mò được nhiều hơn cũng phải nộp cho quan lại địa phương, đổi bạc mua lương thực, sắm áo quần. Nếu không trong nhà nhất định gặp hoạ. Vật quý luôn thu hút sự chú ý của người khác. Kẻ cướp hay người tham lam sẽ dòm ngó. Biết đâu nhóm quan lại địa phương mượn cớ bắt đi phu dịch, hoặc năm sau phải tăng số lượng ngọc cần nộp.

Đảo Koh Tral là nơi thợ lặn tìm được nhiều ngọc trai nhất. Nhiều người vì kế mưu sinh đến đây lặn mò ngọc, nhưng khi tìm được chưa chắc đã bình an trở về đất liền. Bà nội kể từng chuyện đau lòng của thợ mò ngọc làm mấy đứa nhỏ đều sợ.

Đến giờ nấu cơm chiều, nhà sau nhóm phụ nữ lo nấu nướng. Tam bá, Vinh ca, Hân ca ở sân trước lo chuẩn bị lưới, bình nước cho tối nay. Mọi người làm việc nhưng cứ hướng mắt ra cổng chờ ông nội trở về. Lúc nãy ông bà không nói rõ là đi nhà ai, chắc không xa đây lắm. Lục cô cũng chưa từng đi xa, mấy lần đi hội chùa ở Cần Vọt là xa nhất rồi.

Chạng vạng tối thì ông nội và nhị bá về. Ông kêu dọn cơm ăn nhanh để còn ra biển. Cả nhà thở phào nhẹ nhõm, chắc là việc này đã xong, nếu không ông sẽ không yên tâm ra biển để trong nhà chỉ có đàn bà trẻ con.

Cuối tháng ba trời khô nóng, gió mang hơi muối làm da cứ rít rít. Mai hơi khó ngủ nhắm mắt nghe những cơn gió lùa qua vách. Viên ngọc trai cỡ đầu ngón út thì con sò phải đủ lớn, ở nước sâu mới có ngọc. Dưới mực nước sâu áp lực nước lớn, không nói chuyện tai nạn khác, chỉ cần thợ lặn trồi lên quá nhanh cũng bị áp lực nước phá huỷ nội tạng, sinh nghề tử nghiệp.

Từ chiều đến giờ lục cô đều ngồi trong phòng, không nói chuyện với ai, mắt đỏ hoe. Trước giờ lục cô luôn thân thiết với Cúc tỷ và Mai, lần này không biết cô giận Mai nhiều không? Sau khi nghe bà nội nói điểm lợi hại, mong là cô hiểu được.

Vùng biển này được thiên nhiên ưu đãi, cá tôm nhiều, sản vật quý hiếm như ngọc trai, hải sâm, yến sào phong phú. Chính vì vậy nơi này thu hút rất nhiều hạng người qua lại. Cướp biển, giặc Xiêm La không phải vì sự trù phú ở đây mà tìm đến sao? Qua lời những người lớn kể lại, cứ cách đoạn thời gian sẽ có cướp, có loạn. Nhà mình thân cô, không thể gây chú ý được.

Có tiền của cũng không thể khoe ra. Mai hơi giật mình nghĩ đến chuyện nhà mình bắt đầu kiếm được tiền, như vậy có nguy hiểm không? Làm cách nào mới an toàn đây? Cô nhớ lại chuyện đã đọc trước đây, bao giờ thì Mạc quan nhân đến cai quản vùng này? Có quân đội của ông ấy mới mong an tâm làm ăn sinh sống.Chương 94: Duyên hay nợ?Một đêm bình yên trôi qua. Trời mờ sáng ghe đánh cá đã về. Nhà nào cũng bận rộn trên bến. Đàn bà con gái nhanh tay lựa cá lớn, cá nhỏ, tôm thành từng thúng riêng. Cá lớn mang bán, còn lại cá nhỏ đều rửa sạch chuẩn bị làm nước mắm. Mọi năm chỉ làm nước mắm đợt tháng chín sau tiết trung thu. Năm nay có thương lái đặt mua nên trong làng nhà nào cũng tranh thủ đánh bắt cá làm từng thùng nước mắm nhỏ.

– Bà nội, để cha đóng thêm mấy thùng lớn cho nội làm nước mắm, đỡ phải mỗi ngày đều làm.

– Cha cháu chưa đóng bao giờ, làm được không?

– Mình nhìn người ta làm học theo chắc được.

Trước đây Mai có nghe chuyện những làng làm nước mắm dùng thùng gỗ lớn. Nước mắm làm ra ngon hơn, mà cái thùng làm từ gỗ tốt sẽ xài được cả trăm năm, càng dùng thường xuyên càng bền chắc. Rãnh rỗi mình thử làm xem sao.

Nghe hai bà cháu nói chuyện, ông nội đang chỉ nhị bá tam bá xếp mấy thùng mắm đã làm xong vào góc sân nói:

– Ừ, nói cha cháu học làm. Nhà mình dùng thử trước, dùng được tốt có thể bán những nhà trong làng này. Mà lúc rãnh rỗi hẳn làm, vẫn lo đóng ghe.

– Dạ.

– Cha hay để a Vinh vào trong đó phụ một tay. Cái ghe nhỏ đó rất tiện lợi, mà giá rẻ hơn chắc sẽ có nhiều người mua. Mùa nước năm nay bán được sẽ tốt.

Nhị bá nói với ông nội. Hôm qua nghe Hân ca, Bảo ca nói cái ghe mới đó chèo nhẹ nhàng ra sao làm mấy người lớn đều tò mò.

Ông nội còn chưa trả lời thì cửa trước có khách, không phải một mà ba người khách. Họ mang theo mâm trầu cau và hai bình rượu, là người Chân Lạp. Ông nội và nhị bá đều rất ngạc nhiên mời vào.

– Lê huynh, nhà ta đường đột đến thăm. Đây là thúc thúc ta gọi là Bàu pra (phiên âm tiếng Việt). Chuyện hôm qua là con trai ta gây ra lỗi. Ta đã dạy dỗ nó. Nó cầu xin cưới con gái nhà huynh. Mong huynh đồng ý.

Vừa chào hỏi xong, vị này nói ngay, ông ấy chỉ lớn hơn nhị bá vài tuổi. Có lẽ vì ông ấy đến hỏi vợ cho con trai nên xưng hô với ông nội là huynh đệ. Ông nội trầm mặt không trả lời.

Người Việt, người Chân Lạp sống cùng nhau bao nhiêu năm nay nhưng có những tục lệ khác biệt. Đối với người Việt, chuyện kết thông gia luôn có người thứ ba là ông bà mai ở giữa hai nhà. Dù cho hai nhà rất thân cận cũng sẽ luôn mời người làm mai. Nên việc nhà này tự mình đến đây nói chuyện cưới gả là không hợp lễ.

– Bá bá,

Thiếu niên đi theo thấy ông nội trầm mặt, nói được hai tiếng thì bị cha hắn khoát tay kêu im. Hắn bối rối rồi phục quỳ xuống làm mọi người giật mình. Ông nội đành lên tiếng:

– A Tân, đỡ hắn đứng lên đi. Tục lệ xưa nay người Việt nên có trầu cau và người mai mối. Nhà các vị chọn ngày lành tháng tốt, nhờ bà mai đến đi.

Được lời ông nội, ba người nhà họ vui vẻ ra mặt, bảo đảm theo đúng lễ rồi đứng dậy xin phép về. Ông nội nhận lễ hai bình rượu và trả lễ mâm trầu, hàm ý là nhà bên đó cần theo lục lễ kết thông gia.

Chuyện hôn nhân của lục cô không ngờ xảy ra nhanh vậy. Người thiếu niên đó là người tặng hai viên ngọc trai cho lục cô sao? Nhà họ đã xử lý hai viên ngọc ra sao? là bán đi hay vẫn giữ làm của trong nhà?

Mai chỉ đứng sân sau lén nhìn vào trong nên loáng thoáng thấy vóc người, không nhìn rõ mặt. Dáng người thiếu niên cao, hơi gầy, da đen sạm, đầu quấn khăn ngũ sắc rất bắt mắt. Đàn ông Chân Lạp cũng mặc váy như đàn bà. Nghề dệt và thêu của họ rất tinh tế, tỉ mỉ. Họ lại thích hoa văn và màu sắc rực rỡ nên cách ăn mặc và trang sức rất dễ phân biệt so với người Việt.

Người này sẽ là dượng của mình sao? Nghề mò ngọc nguy hiểm trùng trùng, haiz, lục cô tính sao bây giờ? Mai không khỏi nghĩ ngợi lo lắng cho tương lai lục cô.

Thật ra ông nội không thể từ chối nhà người ta. Người Chân Lạp thường dùng vật quý hiếm làm tín vật kết thân mà cũng xem như vật đính thân, nhà gái nhận vật đó là xem như đồng ý. Chuyện lục cô nhận quà sớm muộn cũng truyền ra ngoài. Hôm nay nhà họ mang trầu rượu đến, xung quanh mọi người đều thấy, ai cũng đoán ra được họ là đến cầu hôn lục cô.

Trong buồng bà nội thở dài nói:

– Chuyện này do con làm, không thể từ chối nhà người ta được. Nương thật không muốn gả con qua nhà bên đó, dù gì sinh hoạt lễ nghĩa cũng khác. Duyên phận này con nhận vậy, mong là a Tau sẽ đối xử tốt với con.

Lục cô cúi đầu, mái tóc dài che hơn nửa gương mặt. Cô đã gặp và nói chuyện với người thanh niên đó, chắc cũng đồng ý. Hay là cô nghĩ đơn giản là trao đổi mà không nghĩ chuyện lại đến nhanh? Mai không hiểu lục cô nghĩ gì, dù sao ông bà nội đã quyết định rồi.

Sáng nay nương Mai định quay lại nhà ở Đông Hồ. Xảy ra chuyện này không khí trong nhà thật trầm lặng, còn chưa biết tính sao thì ông nội đi xuống nhà sau nói:

– Ta nói a Vinh theo về nhà con đỡ đần công chuyện ít lâu. Chuyện ở đây có ta lo rồi, về đi để lỡ việc trong đó. Ông khoát tay lúc thấy nương định từ chối. Nhị tẩu đưa Vinh ca túi đồ, mấy đứa nhỏ chào đi về.

– Nói tứ thúc cháu không cần lo lắng, chuyện này tính vậy thôi.

– Dạ.

Vinh ca dạ rồi cùng đi ra bãi. Trên đường về có Vinh ca chèo lại xuôi con nước nên vừa qua giờ mùi đã đến nhà. Lúc mấy đứa nhỏ ra ngoài nương mới kể cho cha và ngũ cô nghe chuyện, Vinh ca đứng phía sau cha nhắn lời ông nội dặn.

– Cháu biết nhà bên đó không? Ở gần Chùa Lớn trong Cần Vọt à?

– Không phải thúc, trong Cần Vọt là nhà bên ngoại hắn, nhà nội hắn ở làng chài Xà Xía, gần gò đá xanh.

– À, ta nhớ chỗ đó rồi. Nhà bên đó mò ngọc sao?

Cha lo lắng nhà chồng lục cô làm nghề mò ngọc. Nghe nói vùng biển đó là nơi người mò ngọc hay tìm được hoàng ngọc. Hai viên ngọc lục cô có là hoàng ngọc, hay được tìm thấy ở ven bờ. Nơi đó có rặng san hô hay đá ngầm, nước không sâu như khi tìm hắc ngọc nhưng cũng có nguy hiểm.

– Cháu không rõ lắm.

– Cha nói với nương nhà bên đó có nghề dệt vải.

Nương nói thêm lời bà nội kể.

– Chuyện đột ngột quá, mấy ngày này cha nương sẽ hỏi thăm. Tam tẩu cũng sẽ về nhà ngoại a Hân hỏi xem sao. Dù sao đã đồng ý rồi, chỉ liệu xem nên làm sao cho phải thôi.

– Ừ, đành vậy.

Mặt cha dàu dàu lo lắng, rồi cũng đứng dậy ra xưởng làm việc. Nương nói với ngũ cô:

– Ta mới kể nương chuyện La gia thì xảy ra chuyện a Hạnh. Nương nói cha cũng thấy a Hùng được, còn chuyện gia cảnh này kia thì để trong này tìm hiểu. Muội thấy sao?

Thấy ngũ cô còn ngại ngùng không nói gì, nương nói tiếp:

– Muội ngại gì, phận đàn bà như chúng ta may rủi do trời, người ta nói mặc người ta.

Ngũ cô không dám ý kiến này nọ trong chuyện hôn nhân của Cúc tỷ. Cô sợ vận xui của mình ảnh hưởng đến cháu gái.

– Muội thấy mấy lần huynh đệ La gia đến cũng lễ phép, biết làm việc nên muội đoán người lớn trong nhà chắc hiểu lý lẽ. Hai nhà qua lại mấy lần cũng thuận.

– Ừ, tối nay ta bàn với chàng, ngày mai nhắn bà mai thu xếp đợi chuyện a Hạnh xong thì định ngày cho a Cúc.

– Muội thấy vậy phải.

Không biết có phải vì chuyện lục cô làm nương lo lắng hay không mà nương không do dự nữa. Mấy ngày sau nương nhắn lời nhờ bà mai sắp xếp lục lễ, coi như đã đồng ý rồi. Chỉ là không vội mà đợi sang năm mới định ngày thành thân.

Không nghĩ đến hai viên ngọc trai lại làm cho duyên phận của lục cô và a Cúc có biến chuyển nhanh như vậy. A Cúc còn đỡ lo, không đột ngột lắm. Hơn nữa Mai đã đế ý tánh tình của Hùng huynh bấy lâu nay. Cô tin là mình không lầm.

Còn lục cô thì sao? Liệu cô sẽ thích nghi với những khác biệt trong sinh hoạt và văn hóa giữa người Chân Lạp và người Việt không? Đây là duyên phận hay nợ lục cô phải trả vì hành động nông nổi của mình?Chương 95: Tán gẫuTháng ba năm nay đủ, đúng chiều ngày ba mươi Lý thúc và a Sao đến. Mai mang rổ đậu và chén mật ong sang cúng dường chùa về thì thấy chiếc ghe nhà Trương bá neo ở cầu ván. Ở trong nhà cha và Lý thúc đã nói xong chuyện tổ ong thì sang chuyện cái ghe. Ở ngoài này mấy đứa nhỏ đã kéo a Sao ra xem ghe mới, chỉ hắn làm sao đứng chèo, làm sao ngồi chèo để không mất cân bằng. Lúc cha và Lý thúc đi ra xem thì cái ghe đã được chèo đi qua đến con rạch nhà Lưu bá. Lý thúc cảm kích luôn miệng nói cảm ơn.

– Đệ nói ơn nghĩa cái gì. Giống như lần trước, đệ đổi lại tổ ong, có phải nhận không đâu.

Tuy là nói vậy, nhưng Lý Trám biết đây là nhà Lê tứ huynh có ý giúp đỡ cha con hắn. Đâu phải mình cha con hắn biết tìm lấy tổ ong, hắn cũng không phải người nói nhiều nên ghi trong lòng ân tình này.

– Ta có thử làm cái chèo riêng cho đệ, chút đệ chèo thử xem.

– Được, đệ muốn đến thăm Đỗ lang y và Nguyễn huynh trước khi trời tối. Sáng mai đệ về sớm.

– Ừ, đi đi, về nhà ta ăn cơm.

– Đệ biết.

Quầng sáng đỏ rực dần chìm xuống mặt biển hứa hẹn những ngày nắng nóng sẽ tiếp diễn. Trên ruộng đã có vài người dân đang cuốc đất, nhổ cỏ chuẩn bị vụ mùa. Mấy hôm nay có Vinh ca vào giúp, đã cuốc được hơn hai mẫu đất rồi. Cha còn tham việc khẩn thêm phần đất cao sát mé rừng.

Dạo gần đây nhiều người trong làng rủ nhau thành nhóm đi vào rừng. Có nhóm săn được con nai đực với bộ gạc quý giá, làm các nhóm khác hăng hái. Tuy nhiên Dương ông và Nguyễn gia khuyên mọi người cẩn thận. Tiếng gầm xa gần và lần mặt đất rung chuyển năm trước luôn nhắc nhở người ta những nguy hiểm đâu đó trong rừng.

Cha không giỏi chuyện săn bắn, ông thích những công việc cần mẩn. Mỗi ngày ông chăm chỉ làm ruộng, đóng ghe; không có ngày nghỉ, dãi dầu mưa nắng nhưng làm ra hạt lúa, vợ con ăn no là được rồi.

– Vài hôm nữa ta vào làng mài lưỡi cuốc, lụt hết rồi. Làm có quen không?

Cha đang cuốc đất, thấy Vinh ca đứng gần, cha hỏi ca ấy.

– Có gì không quen, cháu thấy việc nhiều hơn nhưng không mạo hiểm lênh đênh giữa biển, lại không thức đêm thức hôm, cháu mập lên rồi chứ.

– Hứ, là ca đang chọc đệ sao?

Ha ha, Vinh ca liếc Hân ca đang cuốc đất đằng kia. Đúng là a Hân có mập lên một chút. Cánh tay a Hân chắc khoẻ hơn không ít, tinh thần cũng hăng hái, hay đùa giỡn với mấy đứa nhóc. A Bảo cũng rất chăm chỉ học bào học đυ.c, không còn la cà rong chơi. Ở làng chai, mỗi khi rãnh việc hắn đều theo đám con trai loi choi lên núi, xuống biển phá phách. Nhà tứ thúc ở hơi cách biệt, với nữa cả nhà đều làm việc thì a Bảo cũng phải làm theo.

Ở đây tứ thúc tứ thẩm quản không chặt như ở nhà nội. Hơn nửa ở đây nhà cửa rộng rãi, bây giờ chái nhà bên kia là chỗ ngủ riêng của tụi con trai. Buổi tối tụi nó còn đùa giỡn ầm ầm. Muốn ăn cá, tôm hay gà vịt chỉ cần nói thì tứ thẩm và ngũ cô đều nấu cho ăn. Nhóc Phúc cũng mập lên thấy rõ, hai má, bắp tay bắp chân tròn lẳng như củ khoai.

Lúc nãy ngũ cô bắt cặp vịt vào nhà, nấu canh măng vịt đãi Lý thúc và a Sao. Nhờ năm mẫu đất này nhà nội không cần mua gạo ăn từng tháng nữa, để dành được tiền. Thêm tiền bán ghe của thất thúc và a Hân đem về, cuộc sống thoải mái hơn. “Lúc con mình ra đời cũng không túng thiếu, là nhờ nhà tứ thúc hỗ trợ”, a VInh nghĩ bụng.

Mấy ngày nay vào đây mới thấy cả nhà tứ thúc từ nhỏ đến lớn quay vòng trong công việc, có vất vả và có những niềm vui.

Buổi tối có thêm Dương ông, Nguyễn bá và hai nhà Lưu bá đến ăn cơm. Nhóm người lớn hào hứng xem kiểu ghe mới.

– Hôm trước ta thấy lạ, mà chưa đến xem được, nhìn giống hột vịt thiệt chứ.

Dương ông cười ha ha nói.

– Cái này mai mốt nước lên tha hồ giăng câu, vớt tôm, nhẹ dữ hông?

– Cỡ a Sao, a An tự đi một mình được rồi.

Nói xong chuyện ghe xuồng thì quay lại bàn tròn nói chuyện vụ mùa sắp tới, rồi ai có tin gì mới đều kể. Mấy đứa nhỏ hiếu kỳ nghe từng chuyện từng chuyện rất chăm chú. Nguyễn bá ít nói hơn mọi người, ông quan sát nhanh ngôi nhà Lê tứ. Mới có một năm mà nhà này đã thay đổi không ít. Những nhà trong làng đều nhìn vào sự thay đổi của nhà này mà làm theo. Giống như chuyện nuôi gà rừng, vịt nước, cứ tưởng là chỉ nuôi để có thêm thức ăn trong nhà. Không ngờ là gà vịt thành đàn, kiếm thêm không ít tiền làm nhà nào trong làng cũng bắt đầu nuôi theo.

Chuyện xưởng đóng ghe này nữa. Mấy nhà trao đổi công lao động mà cũng có ghe rồi. Cái ghe là phương tiện kiếm ăn thiết yếu nhất. Lê tứ làm chuyện này đã mang đến miếng cơm manh áo cho người ta. Tiếng lành đồn xa, Làng Đông Hồ chẳng mấy chốc sẽ đông đúc, khá giả hơn.

Lưu bá mẫu mang thai được ba tháng, đã bớt ốm nghén. Gương mặt bá mẫu đã bắt đầu nở nang cộng với ít đi chợ bán hàng nên da trắng hơn. Bá mẫu ngồi đan đệm lát và nói chuyện phiếm với nương và ngũ cô.

– Tam tẩu bên kia muốn mở cửa tiệm giống bên này đó, còn đang tính xem bán cái gì. Tẩu ấy không muốn suốt ngày ra ruộng, giờ a Ngọc cũng như tiểu thơ người ta, không động móng tay.

– Vậy việc nhà ai làm?

Việc nhà của nhóm đàn bà con gái thời nào cũng nhiều vô tận. Thời này không có máy móc hỗ trợ thì làm mãi không hết. Nhà bên đó có bốn người phụ nữ, hai người lớn không làm thì ai làm? Con dâu và a Trân làm sao, a Trân cũng không phải siêng năng giỏi giang gì lắm, dồn hết cho con dâu làm à?

– Mua, cái gì cũng muốn mua, không mua thì nhờ người khác làm. Haiz,… hôm trước ta nghe nói còn sang nhờ nhà mới Lâm gia bên kia, thấy người ta đan đυ.c cũng nói muốn mấy cái.

– Thiệt là,…

– Hình như chưa làm xong ba mẫu đất thuế phải không?

– Chưa, mắt thấy còn tháng nữa sạ lúa rồi, cũng không biết tính sao.

Bá mẫu và nương mỗi người một câu nói chuyện hàng xóm, mà nhiều nhất là chuyện nhà Lưu tam bá. Thứ nhất là nhà bên đó ở gần nhất, lại hay “ảnh hưởng” đến hai nhà bên này. Thứ hai là nhà Lưu tam bá hơi khác người ta, làm nhiều chuyện khiến người ta không hiểu.

Nhà Lưu tam bá con trai nhiều, lại đang tuổi lao động nhưng không hiểu sao không thích theo nghề đi biển. Lúc dời vào đây quả quyết sẽ khẩn hoang nhiều ruộng để sống khá giả. Mấy tháng nay lại bỏ hoang ruộng, nhóm con trai chuyển là lái đò, rồi đi rừng săn bắn. Nghe Lưu bá nói làm lái đò cũng không chăm chỉ như người ta, lúc đi lúc không sẽ dần mất khách hết.

Hay là nhà họ chưa biết nên làm nghề nào thích hợp? Mai lắc đầu tự nhủ: thật ra là lười biếng thôi, muốn làm ít hưởng nhiều. Thấy nhà người ta khá giả thì ham muốn nhưng lại không cần mẫn làm việc. Nghề đi biển, đi săn gặp lúc may mắn thì kiếm tiền nhiều, nhưng mà đâu phải lúc nào cũng gặp may. Hơn nữa mình cũng phải có tài có sức mới bắt được may mắn.

Lúc dọn món thịt nấu măng lên, Mai cười nói Lý thúc:

– Mời thúc ăn ‘đặc sản’ nhà cháu xem có ngon như gà nướng đặc sản của Trương bá không?

Cha nói phải, còn khen món gà nướng của Trương bá ăn rất ngon làm mọi người đều tò mò. Lý thúc phải kể lại câu chuyện đi lạc trong rừng của Trương bá.

– Ta cũng muốn nếm thử.

– Dương bá yên tâm, lần sau đến đây ta sẽ mang gia vị đến. Lê huynh chắc biết làm rồi.

Ha ha, cha Mai cười nói chỉ nhìn qua, làm sao ngon như Trương bá làm chứ. Cứ như vậy mọi người lại ‘gầy’ thêm chầu nhậu khác có món gà nướng ‘gia truyền’.

Trời còn tờ mờ thì Lý thúc và a Sao đã rời đi, về sớm trả xuống sớm cho nhà Trương bá. Lần này cần nhiều tổ ong nên thúc ấy hẹn ngày mùng mười sẽ mang đến. A Sao một mình chống ghe nhỏ xuôi theo con rạch ra Đông Hồ. Nhìn hắn nhanh nhẹn lướt nhẹ đi Mai cảm thấy yên tâm. Từ đây hắn và Lý thúc đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất rồi, mỗi ngày sẽ tốt hơn.

Mai luôn cảm phục ý chí của a Sao. Một đứa nhỏ như vậy, phải trải qua đau thương, biến cố lớn mà hắn vẫn kiên cường. Mong rằng hắn sẽ vượt qua, vết thương bên trong tâm hồn hắn sẽ lành để hắn bình an lớn lên.

Lần này Lý thúc và a Sao đã vui vẻ, gương mặt không còn hiện nét ưu thương nữa. Cái ghe này sẽ giúp cả a Sao và Lý thúc kiếm sống, không còn mặc cảm chuyện thương tật và nghèo túng nợ nần.Chương 96: Có heo con rồi!Chợ phiên lần trước Mai đã nhắn a Báo có tổ ong mang đến nhà cho mình sớm, mấy hôm nay cô vẫn đang chờ. Do chuyện mai mối hai nhà nên Hùng huynh sẽ không đến, phải chờ lúc chính thức đính hôn mới có thể qua lại. Nếu không mọi người sẽ xì xầm bàn tán.

Mai còn lo lắng chuyện làm hồng lạp. Ở hiện đại mua phẩm màu đỏ không khó, nhưng ở đây không biết chế màu đỏ từ đâu? Nhìn xung quanh, màu đỏ chỉ có trong hoa, trái, củ; chiết xuất từ hoa, không dễ chút nào. Hôm trước Mai có mang từ nhà ngoại về một chậu cây bạc hà. Cô định trồng thật nhiều chiết xuất hương bạc hà vào kem đánh răng lúc trước và làm túi hương xua muỗi. Nhưng mà giờ cô phải gác lại lo làm thử hồng lạp trước.

Mấy ngày sau nhà mới Lâm gia đến đặt mua ghe nhỏ. Nguyễn bá cũng muốn mua thêm một cái. Cả nhà càng chăm chỉ lo đóng ghe. Nhóm đàn bà con gái làm thêm việc ngoài ruộng để cha yên tâm lo đóng ghe. Cha nương vẫn là nông dân yêu ruộng đất, đóng ghe có nhiều tiền hơn cũng không bằng trồng lúa, trồng khoai. Trong nhà có lương thực mới yên lòng, cha nói có năm mất mùa, có tiền cũng không mua được lương thực. Bụng đói thì có thể làm gì?

Cái nóng gay gắt đầu tháng tư chỉ làm tâm tình mọi người nôn nóng, trông chờ mùa mưa sắp tới. Mùa mưa là mùa của sự sinh sôi, khởi đầu của một vòng đời mới!

Ngày chợ phiên Hùng huynh bán đồ trong chợ. Một mình a Báo giang ghe từ chợ vào nhà Mai giao tổ ong và một ổ gà con. Hắn nhìn quán trước cửa nhà rất ngạc nhiên, cùng a An hỏi đủ thứ rồi mới nhận tiền, mua một cái bật lửa đá rồi mới đi về.

Từ ngày có quán, khách đến mua trứng gà, gà con hoặc vịt đều không vào thẳng trong nhà mà do a An bán luôn ở ngoài. Như vậy tiết kiệm được một ít thời gian để nương và ngũ cô làm việc nhà, không cần dừng lại tiếp khách như trước.

Đúng ngày hẹn, Lý thúc mang sáu tổ ong lớn đến. Lần này thúc ấy không cần mượn ghe mà dùng ghe nhỏ, đến sớm hơn mọi khi một canh giờ. Trong mấy ngày mà thúc ấy đã học cách sử dụng thành thục, ra không ít sức. Thúc ấy nói với cha:

– Trương huynh đi tìm trầm về rồi. Lần này không tìm được mà có mang về mấy tổ ong rừng rậm rất tốt. Thật ra huynh ấy muốn cho a Sao, nhưng đệ không thể nhận nên muốn hỏi huynh có thể mua không?

Lý thúc hỏi vậy vì ba nhà đều hiểu là nhà Mai tạo điều kiện để nhà Lý thúc có kế sinh nhai nên không mua những nhà khác.

– Được, thời gian này nhà ta cần hơi nhiều hơn, sau này thì chưa biết.

– Vậy tốt quá. A, huynh ấy nói cũng không cần trả tiền mà đổi cái ghe nhỏ này cho Trương tam được không?

– Được, có gì không được.

Tiếp đó, Lý thúc mang từ ghe lên bốn tổ ong nữa, thì ra là đã mang sẵn đến rồi! Thúc ấy cũng không nhận tiền lần này mà muốn cùng trả tiền ghe trước.

– Lúc trước đệ còn nợ nhà Trương huynh không ít tiền thang thuốc. Năm quan tiền kia vẫn còn, chưa dùng hết. Huynh không cần trả thêm.

Thấy cha muốn nói, thúc ấy khoát tay cương quyết:

– Đệ biết cân nhắc, nếu thật sự cần tiền sẽ không câu nệ.

– Vậy được, để a An, a Sao lo liệu chuyện tiền bạc này đi. Bọn nhỏ tính rành rẽ hơn ta.

– Phải, phải. Nhà đệ giờ là a Sao quản tiền đó.

Lý thúc cười ha ha đắc ý nói. Có chiếc ghe này làm phương tiện, có cách kiếm tiền mưu sinh, không phải lo mượn nợ. Đã thấy tia hy vọng cho a Sao rồi nên thúc ấy cũng được an ủi, tâm trạng sảng khoái hơn.

Mấy gói gia vị do Trương bá mẫu chuẩn bị, còn mấy gốc cây tiêu xanh, cây quế, cây tỏi trong sọt tre được Mai nâng niu mang ra sau vườn. Ngũ cô chưa được nếm thử món gà nướng nên cũng tò mò mở từng gói gia vị ra coi.

Cô còn đang loay hoay tìm chỗ trồng thì cha và Nguyễn bá đi ra. Bá ấy chỉ cây quế nói.

– Cây này có mọc ở gò đất trong rừng đó.

Mai nghĩ những cây này đều mọc hoang quanh vùng. Do mọi người chưa biết chúng có thể làm thức ăn hay làm gia vị nên chưa biết thôi. Có một người phát hiện ra thì nhiều người khác sẽ học theo rất nhanh. Cây nào dùng làm gia vị thì quan trọng nhất vẫn là liều lượng và cách pha trộn khi dùng sẽ làm món ăn ngon hay dở; còn tuỳ loại thịt nào và cách nấu nữa.

Buổi chiều ăn cơm nương nhắc cha:

– Chàng xem có đi chỗ thợ rèn mài lại cuốc, liềm không?

– Ta tính dùng đến lúc xong vẫn được, mấy ngày sạ lúa sẽ mang đi mài cùng lúc cưa, đυ.c luôn.

– Ca, đặt làm thêm cái cưa lớn, hai cái đυ.c nữa đi. Tranh thủ a Vinh ở đây để hắn cưa mấy miếng gỗ lớn. Nghe cha nương nói chuyện, thất thúc ha ha cười nói. Sức lực Vinh ca thật lớn, Hân ca và thất thúc thay phiên nhau cưa gỗ với ca ấy mà vẫn than mệt. Ca ấy vẫn còn sức giúp cha cuốc đất nữa.

– Cha, mình tìm người đốn gỗ đi. Gỗ ngâm gần hết rồi, sắp tới đóng nhiều ghe nhỏ sẽ không kịp ngâm.

– Ý con là mình trả công?

– Dạ, mình không trả từng ngày mà trả theo số cây lớn nhỏ đốn về.

– Ừ, sắp tới mùa làm lúa rồi, mọi người sẽ bận lắm.

– Cũng chỉ bận mấy ngày sạ lúa thôi, xong rồi cũng sẽ có người tìm việc làm thêm.

– Vậy được, cha sẽ nhờ Lưu bá nói người trong làng, ai muốn làm thì đến.

– Ca, ca tính tiền công mỗi cây bao nhiêu, để cha xem được không?

Mai quay sang nói a An, hắn gật đầu. Cha cũng gật đầu đồng ý, nói rõ tiền công trước vẫn tốt hơn, để Lưu huynh cũng dễ nói chuyện khi người ta hỏi.

Gần đến rằm tháng tư, dì dượng, cậu hai, Sinh ca, Hữu ca, a Duyên cùng tới. Cái ghe nhỏ thứ hai vừa vặn hạ thuỷ hôm qua. Cha đang đi mời Lâm gia đến xem thì ghe của dì dượng và cậu đến. Nguyễn nhị quan sát ngôi nhà, không khỏi tán thưởng. Mới gần một năm mà nhà muội thay đổi nhiều quá, giờ có thêm phướng đỏ treo cao làm cửa hiệu quán nữa.

‘Ét ét’, trên ghe cậu có tiếng kêu lớn, Mai vui mừng hớn hở kêu a Phúc:

– Heo con, ba con heo con kìa, Phúc ơi!

Hai đứa đứng trên cầu ván ngóng nhìn vào lòng ghe. Sinh ca ôm l*иg heo bằng nan tre trao lên cho Bình ca đứng trên cầu ván, còn dặn:

– Ôm chặt, nó giãy dữ lắm.

Tiếp đó, ca ấy và Hữu ca mỗi người ôm một con đi vào nhà sau. Hữu ca, a Duyên là lần đầu tiên đến đây, vừa đi vừa ngó xung quanh.

Thổ nhưỡng vùng Trấn Biên khác ở đây nên có vài loại cây mọc phổ biến ở đó thì khi đến đây không xanh tươi nữa. Lá cây nhìn có vẻ kém xanh, mà cũng không to rộng, sung sức bằng.

Xuống đến nhà sau thì nương và dì đang thắt dây thừng, gút giống thọng lọng tròng vào thân ba con heo con, cột chúng vào cây cột ở cửa bếp. Bọn chúng kêu ét ét bỏ chạy, bị dây thừng kéo lại càng kêu dữ hơn. Con Mực chạy vòng vòng sủa inh ỏi, cố trấn áp ba thành viên mới trong lãnh địa của nó.

Hữu ca chạy nhanh ra ghe lấy bó rau muống, chia ra ba nắm quăng vào gốc cây cột. Ba con heo nhỏ không la nữa mà cúi đầu nhai rạo rạo, à, là đói bụng rồi.

– Để ta nấu cháo nó ăn, ăn rau mau đói.

Nương nói rồi tìm cái nồi cũ, rửa sạch, bỏ gạo vào nấu cháo. Ngũ cô và a Cúc theo hỏi cách nuôi. Ở nhà nội không nuôi heo, lần đầu tiên nhà có heo con mấy đứa nhỏ vừa mừng vừa khẩn trương, cứ muốn rờ mó lưng, bụng heo con. Bọn chúng cứ cúi đầu ăn, không thèm bỏ chạy, tránh né nữa.

– Tối nay ba con heo này nhốt ở đâu?

Ngũ cô cười vui vẻ nhìn hai con heo cò lông trắng da dẻ hồng hào, cao ráo và một con heo bông có mấy đốm đen trắng quanh thân. Bên cạnh ba con heo là chậu đất cũ đổ ít nước ngọt.

Mai nhớ giống heo cò này là giống bản địa, còn heo bông lùn tịt này giống lai của người Chăm. Mai mốt lớn lên, bụng con heo bông sẽ xệ xuống, xương nhỏ, thịt nhiều nhìn rất buồn cười. À, mà nó còn đẻ rất say nữa, mỗi lứa cả chục con. A, nghĩ đến đàn heo nhà mình sau này cô cười híp mắt.

Chuồng heo không thể quá gần nhà, sẽ bốc mùi phân heo. Xa quá thì cả nhà lo tụi nó còn nhỏ, lỡ bị còn này kia cắn. Cuối cùng là chọn gần chuồng gà, Mai chạy lên xưởng nói ai rãnh tay phụ đi làm chuồng heo.

Vậy là cậu hai và Hữu ca, An ca sẽ dựng chuồng heo, Mai ra trông quán. A Phúc kéo tay a Duyên ra vòng quanh chỉ trỏ khoe đàn gà vịt của hắn. Sau đó hai đứa cũng chạy vào phụ buộc dây, trao lá lợp mái cho chuồng heo.Chương 97: Thêm đại lý bán gheỞ sân trên nhóm đàn ông tiếp người Lâm gia đến nhận ghe xong thì đi vào xưởng luôn. Mai mang bộ bình nước vào xưởng, ba người nhà cậu vòng quanh xem ghe nhỏ còn lại đang chờ nhựa trát khô. Còn một chiếc ghe thứ ba thì mới ghép được một ván be và ván đáy. Sinh ca xem xong đến phụ thất thúc đỡ ván ghép. Xen lẫn tiếng cưa gỗ, bụi mạc cưa là tiếng nói chuyện, hỏi han công việc.

Trong chái nhà, dì dượng năm đang xem hai mươi cặp đèn vừa xong hôm trước.

– Cửa tiệm bán được không? Cần thêm đồ gì?

– Mai, đi gọi a An vào đi.

– Dạ,

Chuyện món nào cần mua thêm An ca là rành nhất, còn chuyện tính tiền bạch lạp nữa. Mai đứng nghe a An tính toán tiền bán đèn và mua thêm đá đánh lửa, kim chỉ, dầu đốt.

– Cứ làm tiếp bạch lạp, tháng sau dượng ghé thu.

– Dì dượng đi gấp vậy?

– Ừ, đã hẹn giao bạch lạp trước ngày rằm cho Bạch Ân Tự rồi.

Bạch Ân Tự là ngôi chùa lớn linh thiêng gần Trấn Giang. Vị sư trụ trì đạo hạnh cao thâm, được mọi người trọng vọng. Hàng năm Phật tử hay người thập phương đến cúng dường rất đông.

Dì dượng chào hỏi một vòng thì lập tức lên đường, ghe vừa khuất thì Lưu tam bá mẫu chạy đến hỏi:

– Ngũ di a Bình đi rồi sao? Gấp vậy, ta định nhờ chút việc.

– Dạ, tháng sau sẽ đến thăm, bá mẫu muốn mua gì? gấp không?

Lưu tam bá mẫu nghĩ nghĩ rồi nói ‘không có gì’ sau đó thì đi về hướng nhà Lưu bá mẫu.

Trời đã ngã chiều, Mai ngồi trong quán nhìn thẳng ra hướng vũng Đông Hồ. Cồn giữa sông như lớn hơn, bãi đất bùn rộng hơn. Mấy đám lát bị nước mặn lâu ngày lá đã hơi vàng, bông bay theo gió chỉ còn xơ xác cọng nhỏ mong manh trong nắng. Mấy chiếc bè chầm chậm qua lại, lưới cá ánh lên lấp lánh.

Nếu Lưu tam bá mẫu mở quán phía bên đó thì ở đây càng vui hơn. Một năm này đã có thêm năm mái nhà ở đây rồi. Dù vẫn thưa thớt hơn trong làng, nhưng vị trí này thuận lợi vì rất gần mặt Đông Hồ, rẽ vào con rạch lớn trước nhà Mai là tới.

Quan trọng là bán cái gì? Giao thương buôn bán chưa phát triển, người dân quanh đây chủ yếu là tự cung tự cấp; thậm chí dầu đốt đèn cũng xài rất tiết kiệm. Nhà nào cũng tự nấu ăn, may quần áo. Nhà phú hộ cũng có người ở, tỳ nữ lo việc nhà, thêu thùa may vá.

Có khách mua đồ, là nhóc nhà đánh cá ven đầm.

– Tỷ, bán một cái đá lửa, một cây kim lớn và ống chỉ đen.

– Chờ chút,

A Phúc và a Duyên từ trong nhà chạy ra, giành đưa đồ cho khách. Nhóc đó chống bè nhỏ đi mua, lúc nãy cũng đứng dưới bè mà không leo lên bờ. Mai để ý hai nhà ngoài đó không mua dầu đốt, chắc rất tiết kiệm; hay họ mua ở chợ làng.

– Đệ biết tính tiền chưa?

Đương nhiên là hỏi a Duyên, hắn nhíu mày rồi lắc đầu. Lẽ ra Mai phải gọi hắn là ca, nhưng hắn nhỏ như vậy cô không thể gọi được. Lần trước hắn hỏi sao Mai không gọi hắn là ca, Mai quay đi không trả lời.

– Lại đây, ta dạy cách tính tiền.

A Phúc đã biết nhưng cũng chạy lại nghe, được một lát hai đứa nhóc cứ lúc la lúc lắc chân. Mai buồn cười nhìn rồi thả cho hai đứa chạy đi chơi. Phía làng chài bỗng có đám mây đen rất lớn, từ từ trôi về đây, sắp mưa? Sớm hơn năm rồi sao!

Mai không nghĩ nhiều mà vội vàng dọn rổ tre rinh chạy vào nhà. An ca chạy ra giúp.

– Sắp mưa sao?

– Không biết, cậu nói chưa đâu, chút nữa mây tan nhanh thôi.

Người lớn có kinh nghiệm không bị đám mây kia hù nên vẫn thong thả cuốc đất trên ruộng, có người vội gom cỏ rơm khô đốt luôn. Vĩnh ca đang chạy nhanh về, ca ấy cũng sợ mưa đến.

– Ao sen nở bông rồi đó, muội muốn ướp trà sen không?

– Dạ, muội vô xin nương đã, cậu hai và Sinh ca đến lúc nãy, ca vô thưa cậu đi.

– Vậy à, ta lấy mấy gói trà luôn.

Sắp đến Rằm Tháng tư, Lễ Phật Đản nên Mai muốn làm ít trà ướp sen cúng dường sư ông, giữ lại một ít để cha nương đãi khách. Mấy đứa nhỏ ôm rổ tre chống ghe lườn nhanh ra ao sen. Bốn đứa hì hục kéo chiếc ghe lên bờ qua ao sen, Tùng huynh đi ngang qua thấy chạy đến phụ một tay.

– Sao kéo nó tới đây làm gì? Mai nói vài câu giải thích, huynh ấy ừ ừ không hỏi thêm, còn đi theo lên chống ghe chen vào mấy đám bông sen vừa chướm nở. Hương hoa sen nhàn nhạt thoang thoảng trong gió. Nước ao sen chỉ còn nửa, mấy cọng sen vươn cao lên khỏi mặt nước, đong đưa nhè nhẹ.

– Nhà huynh cuốc xong hết chưa?

– Chưa, còn mấy công nữa. Thúc ta đi Chánh Dinh cuối tháng mới về, lúc đó chắc mới xong.

– Huynh đi Chánh Dinh chưa?

– Chưa,

– Vậy Nguyễn thúc có kể cho huynh nghe không?

– Rất ít kể.

Tùng huynh ít nói, trả lời nhát gừng làm Mai nản không hỏi nữa. Nguyễn thúc đi từ tháng giêng, giờ là giữa tháng tư mới về tới, đi về hơn ba tháng. Ở thời này như vậy cũng tính là nhanh, không biết đi bằng gì? Đường bộ hay đường sông?

– Lần này trà ít, nhà muội cúng dường sư ông trước.

Ý Mai là a Tùng giúp làm nhưng lần này cô không đủ trà ướp sen tặng nhà bên đó được. Hắn gật đầu nói:

– Ừ, ngày mai nhà ta sẽ mang trà đến ướp.

– Được, vậy để ghe lườn lại đây, nhà huynh làm nhanh hơn.

– Ừ.

Mai hái mấy bông sen, lá sen đẹp về cắm vào bình đất trong phòng cô. Hoa sen tươi được mấy ngày, có hương sen quanh quẩn, rất dễ chịu.

Hôm nay ăn cơm chiều trễ hơn mọi ngày. Cậu hai muốn làm xong chuồng heo mới ăn nên cả nhà vừa phụ cậu làm, vừa làm mấy việc khác. Nhà đông người, chia hai bàn ăn cơm ngoài sân, không đặt xa nhau lắm; bàn bên này nói chuyện thì bàn kia vẫn nghe rõ. Ngày hai bữa cơm là thời điểm cả nhà ngồi cùng nhau, nói chuyện trong nhà, chuyện trong làng.

– Năm nay có thể ngoài đây mưa trước miệt trong, để ý ngâm lúa giống cho kịp. Cha nói năm nay nước sẽ cao nên tranh thủ sạ sớm, gặt lúa sớm trước khi nước lên.

– Được, cái này có nói người ở đây biết không?

– Là cha và thúc bá làng trong tính vậy, chưa chắc trúng. Dù sao cũng nói mọi người dự phòng.

– Ta biết.

Ông ngoại là lão nông, cộng thêm mấy vị khác trong làng coi trăng coi sao dự báo như vậy hơn phân nửa là đúng rồi. Mình biết cũng nên báo bà con xung quanh biết để có dự phòng.

– Chuyện bán ghe xuồng ở ngã bảy hôm trước, cha tính qua năm mới làm. Nhưng năm nay nước lên, lại nghe dì dượng a Mai về nói nhà cô dượng đóng ghe kiểu mới rất thuận lợi. Nên cha bàn với ta làm luôn năm nay.

Nghe cậu hai nói đến điểm quan trọng, cả nhà đều im lặng nghe.

– Lần này về, ngâm giống sạ lúa xong cha sẽ mua chỗ đất gần chợ phiên, dựng bến nhỏ neo ghe bán. Cô dượng thấy được không?

– Được.

Cha nương đương nhiên là vui vẻ đồng ý. Sắp tới mình muốn thuê người cưa xẻ gỗ mà giờ có thêm người lo bán ghe làm mọi người nhẹ nhõm; không sợ là bán không được.

– Sắp tới sẽ tập trung đóng ghe hột vịt này trước, đến lúc đó chắc được hai ba chiếc, đệ sẽ kéo lên ngã bảy.

– Được, còn mấy tháng nữa nước mới lên, không vội. Hơn nữa chuyện mua bán này cha mới làm, còn cần nhà đệ muội nói thêm. Có gì a Sinh đi lại mấy lần để học hỏi.

Sinh ca gật đầu, trước khi đi ra đây ông nội và cha đã bàn tính, cũng dặn hắn chuyện này. Sau này chuyện trong nhà do Sinh ca nối nghiệp, ngoài làm ruộng thì chuyện mua bán này rất trọng yếu, mua bán được sẽ không lo nghèo.

– Lúc đó, đệ muội cho a Mai đến nói mấy chuyện với cha. Hôm trước ta còn chưa hỏi xong mấy việc.

– Được, ca.

Cậu nói vậy đương nhiên là cha nương đồng ý. Thật ra mọi người trừ An ca vẫn luôn thắc mắc là Mai nói gì với cậu hai mà cậu và ông ngoại nhanh chóng đồng ý chuyện bán ghe ở ngã bảy.

Ông ngoại xưa nay trầm tĩnh, cẩn trọng. Ngoại rất hiếm khi nhanh chóng đồng ý như vậy. Thật ra công lớn là của cậu hai, Mai nghĩ. Nhà ngoại bây giờ ba thế hệ sống chung, nhưng trụ cột chính vẫn là cậu hai. Mai biết điều này nên cô mới thuyết phục cậu trước nhất, việc còn lại cậu sẽ lo liệu chu toàn thôi.Chương 98: Thức uống nhà quêThấy cậu nói xong chuyện ghe xuồng, nương hỏi:

– Sao bắt ba con heo, nương có để lại nuôi không?

– Có, nương giữ lại nuôi hai con heo cò. Con heo bông là mua thêm chỗ thương lái, nghe nói là từ trong sóc mé trên. Giống heo bông này khoẻ mạnh, ít bệnh tật mà ăn tạp, rất dễ nuôi.

– Nương mua hết bao nhiêu tiền vậy ca.

– Không biết, nương không nói.

– Vậy sao được, lần trước đã cho hai chục con gà rồi.

Nghe cậu nói không nhận tiền, cha chen lời. Đúng là không thể nhận không ba con heo nhà ngoại được, cũng không ít tiền đâu.

– Nội nói đổi gà con vịt con về cho cháu và Cơ ca nuôi.

A Duyên không nhịn được lên tiếng, mọi người ngớ ra rồi bật cười.

– Con sao,

Cậu hai buồn cười vỗ đầu hắn. Nương vui vẻ nói:

– Được, cô đổi cho a Duyên gà con, vịt con đem về nuôi.

Xem ra. Cơ ca, Duyên ca nghe a Phúc khoe khoang hắn nuôi gà vịt rất hâm mộ nên cũng muốn nuôi. Đây là chuyện tốt, trong đó rất thích hợp nuôi gà vịt, sợ là sau này còn phát triển hơn ở đây nhiều.

– Trứng gà vịt ấp lần này sắp nở rồi, ca ở lại xem đi.

A Phúc nói với Duyên ca, hắn còn nhìn ngũ cô như hỏi ý.

– Lẽ ra hôm nay là gà con nở. Bây giờ chưa thấy chắc trong mai mốt sẽ nở.

– Thật?

A Duyên hưng phấn hỏi, hắn chưa thấy gà con nở bao giờ.

– Sáng mai ta về rồi, lần sau con xem đi.

A Duyên chỉ còn biết gật đầu đồng ý. Cha phải về lo ruộng đất, ngâm giống nữa.

– Ca, lúc về ghé nhà Lý đệ nghỉ cho khoẻ. Sau này đệ ấy đi Trấn Giang cũng đến thăm nhà mình. Đi lại hai bên đều thuận.

Cậu hai nghĩ nghĩ rồi gật đầu. Đúng là nếu có thể nghỉ ở Giá Khê một đêm, ở chợ Đầm Sen ngủ một đêm thì đường đi về Trấn Giang – Đông Hồ sẽ thuận tiện hơn nhiều.

– Được, vậy thuận tiện hơn.

Cha chỉ cậu ngã vào nhà Lý thúc, còn nói chuyện Trương bá hay đi Trấn Giang bán đặc sản Giá Khê. Mấy đứa nhỏ ăn xong cơm đã đứng dậy. Ngũ cô và a Cúc dọn dẹp xong thì ra xem ba con heo con. Bọn chúng ăn no nằm ì, không thấy lạ chỗ mới lạ gì cả, chỉ cái mũi hếch lên hịt hịt rồi thôi, thiệt là hết nói.

Lưu bá biết cậu hai đến nên xách theo mấy con cá lóc sang, là muốn nhậu lai rai nói chuyện. Nương dọn một bàn rượu và nướng cá để ba người đàn ông còn có Vinh ca, Sinh ca ngồi nói chuyện.

– Lúc chiều nhà ta mới tát đìa, năm nay chắc mưa sớm.

Cha gật đầu kêu phải rồi nói chuyện ông ngoại dự đoán mùa lũ năm nay đến sớm. Lưu bá có vẻ lo lắng nói:

– Ta định mấy ngày này sẽ làm cỏ chỗ đất trũng gần rừng, bây giờ sợ không kịp.

– Nhà đệ cuốc gần xong rồi, vài ngày nữa sẽ qua phụ. – Chưa cần đâu, nhà đệ cũng quá nhiều việc rồi. Mai ta nhắn nhà nội a Tương vào.

– A Tương có tin gì không?

– Không, ta xem hắn mà không về trước khi sạ lúa thì ta cũng chẳng cần đứa con này, ngỗ nghịch!

Lưu bá giận dữ nói.

– Từ từ, huynh đừng giận, vài ngày nữa nó về. A Tương là đứa hiểu chuyện.

Chuyện a Tương cha cũng chỉ có thể khuyên giải như thế. Nhà Lưu bá thời gian này đúng là không lo nổi năm mẫu đất. Bá mẫu đang mang thai không thể cuốc đất, tam Mi lớn nhất nhà cũng phụ một tay, nhưng sức con gái không thể cuốc đất lâu.

Trăng đã lên từ lúc nào, đêm mười ba trăng thật đẹp. Lúc mấy đứa nhỏ đã về buồng ngủ, cha nương còn ngồi nói chuyện với cậu ở nhà trên. Ngũ cô xong việc đi vào buồng thấy hai đứa đang lén nghe chuyện thì lắc đầu. Ngũ cô xua tay không cho, kêu về ngủ. Mai liếc a Cúc cười ha ha đi về giường mình, là đang nói chuyện của Cúc tỷ.

Đỗ bà mai nói, là ngày mười chín này La gia sẽ mang lễ qua. Cha nương đã nhắn ông bà nội vào vì bà nội của Hùng huynh sẽ đến nên bên nhà Mai cũng cần có ông bà nội mới đúng lễ. Bây giờ chắc nương kể cậu hai biết để báo nhà ngoại.

Lúc ngũ cô vào đây ở, buồng này được nới rộng hơn. Hai chị em Mai ngủ một giường lớn, ngũ cô ở giường nhỏ hơn chút. Ngũ cô xua hai đứa đi ngủ, còn mình thì vẫn thức canh chừng lò ấp trứng.

Lần này trứng gà nở không đúng ngày làm cô lo lắng, mùa nóng lẽ ra gà con nở sớm hơn chứ. Mai cũng không biết tại sao, hay do trời nóng khi phun nước dễ bay hơi nên độ ẩm thấp làm gà nở chậm? Ở đây chưa có khái niệm độ ẩm nên Mai không nói, mà cũng chưa chắc đó là nguyên nhân.

‘Chip, chip’ tiếng gà con nhỏ xíu làm ngũ cô mừng rỡ chạy qua lò ấp ở chái nhà sau. Haiz,… làm mọi người lo lắng quá chừng. A Phúc bên kia cũng nghe thấy kéo a Duyên chạy vào. Ba người lớn nhà trên không nói chuyện nữa mà xuống xem. Lần này ấp bốn khay trứng được hơn bốn mươi con. Có mấy con gà lai gà nhà và gà rừng nên màu lông nhạt hơn, không vàng ươm như gà nhà thuần chủng.

A Duyên lần đầu tiên thấy đám gà con nở không khỏi vui vẻ sờ đầu, sờ cánh chúng.

Hắn quay sang nói với cậu:

– Cha, nhà mình cũng làm lò ấp đi.

Cậu lắc đầu nói:

– Không dễ ấp đâu, mai mốt nương và tẩu con xuống đây học mới được. Không phải ai cũng ấp được.

Cậu nói đúng rồi, cách làm không khó nhưng muốn làm không dễ. Người canh lò phải chịu cực khổ ngày đêm, không được quên vẫy nước, độ nóng cũng phải canh chuẩn. Còn tỉ mỉ chọn trứng tốt, soi trứng có phôi; suốt ngày quanh quẩn ở lò ấp theo dõi mới được. Cho nên mới nói ngũ cô rất vất vả, mà cũng khéo léo, kiên trì mới ấp được mấy đàn gà vịt này.

Bốn khay trứng nở hết cũng gần một canh giờ sau, a Duyên ngủ gật bị cậu ẵm sang chái nhà ngủ. A Phúc mắt mở không lên nhưng vẫn kiên trì đến con cuối cùng nở rồi mới đi ngủ. Nương và ngũ cô lo chỗ cho bầy gà mới ổn thoả mới lên giường. Mặt trăng tròn đã lên quá ngọn tre rồi.

Vì sẽ ghé nhà Lý thúc ngủ lại nên cậu hai không vội đi sớm. Buổi sáng dậy sớm còn giúp cha cưa mấy khúc gỗ, ăn sáng rồi mới bắt ba chục gà, ba chục vịt vào l*иg tre. Ngũ cô nói với Sinh ca:

– Vịt này thích lội nước, cháu nói mấy đứa nhỏ lùa nó ra rạch hay ao mỗi ngày. Ba chục con này được hơn tháng rồi, nuôi thêm hơn ba tháng là rớt hột.

– Dạ, cảm ơn cô.

– Không có gì, mấy con gà này cháu để ý lông cánh nó ra dài thì cắt đi, để nó khỏi bay ra rào đi mất.

Gà con vừa nở hôm qua còn yếu ớt, nương và ngũ cô chọn mấy con hơi lớn, khỏe mạnh cho nhà ngoại. Hai ba ngày đường sương gió, gà dễ bệnh hơn. Cái l*иg tre được lót rơm, bện vành thật kỹ mới được.

Sáng nay Mai và a Vĩnh dậy sớm chạy ra ao sen gom lá trà hôm qua ướp, hương sen lưu trong trà nhè nhẹ. Ao sen mới nở một góc, đợi mấy ngày nữa sẽ ướp thêm, còn gửi cho Đỗ lang y, nhà nội ngoại nữa.

Mai thấy người dân ở đây ít khi uống trà, có lẽ tầng lớp nho sĩ, quan lại mới uống. Nhà nông để dành trà trong nhà cúng tổ tiên và đãi khách. Nhưng mà uống nước trắng cũng nhạt miệng nên Mai luôn pha ít mật ong và gừng. Những nhà khác hay uống nước lá tre, nước gừng hoặc nước nấu trái nhàu.

Nước lá tre rất thơm, mấy đứa nhỏ chạy ra bụi tre hái lá tre non về, rửa sạch rồi bỏ vào ấm nấu cùng với nước. Nước uống sẽ có mùi thơm nhẹ nhẹ, thanh thanh rất dễ chịu. Mấy đứa nhỏ sẽ bỏ thêm ít đường vào ngọt ngọt uống càng ngon.

Nước trái nhàu khó uống hơn, do Mai không thích mùi trái nhàu, hôi hôi. Người lớn lại rất thích, trái nhàu phơi khô, cắt lát nhỏ rồi nấu nước sôi giống trà. Uống nước trái nhàu rất tốt làm giảm đau lưng, mỏi chân tay nhất là những lúc vào mùa gặt lúa. Vĩnh ca đã xin Đỗ lang y hai cây nhàu về trồng trong vườn, nó lớn thật nhanh, lá cũng rất to. Hết mùa mưa này nhà cô chắc sẽ có trái phơi khô rồi.

Còn nước lá sen non phơi khô nữa, uống có vị đắng nhưng ngọt hậu. A Vĩnh đã phơi, sao khô để dành, cách hai ba ngày uống một chén sẽ ít bị nổi mụn sảy mùa nóng này. Giao mùa như thời điểm này, người già con nít dễ sanh bệnh. Nhờ Đỗ lang y chỉ dẫn, hai đứa nhỏ trồng mấy cây cỏ làm thuốc trong vườn, quanh nhà. Người ta nói rất đúng: phòng bệnh hơn chữa bệnh.Chương 99: Giao mùaRằm tháng Tư hàng năm đều rơi vào lúc chuẩn bị sạ lúa nên có mấy nhà đến cúng dường. Nhưng ít người lớn đến viếng cảnh hoặc trò chuyện cùng sư ông như hồi Rằm tháng Giêng. Sư ông cho hai đứa cháu nhà Dương ông về phụ người nhà làm đất, Mai và a Phúc mang trà ướp sen và hai chén dầu đốt đến là lúc sư ông đang dọn rửa mấy lu nước.

– Đợi mưa ướt đất con đến đào mấy cây mai về trồng.

– Dạ,

Hai đứa nhỏ chạy lại giúp sư ông chà miệng lu, sư khoát tay nói:

– Về nhà đi, nói cha nương con biết năm nay mưa sớm, nhanh dọn đất cho xong. Ở đây chỉ có mấy việc, đi đi.

– Dạ, bạch sư con về.

Thưa ông xong, hai đứa chạy một mạch về nhà. Đất ruộng khô nên chạy băng qua luôn, ngắn hơn đi dọc bờ đất trong mùa mưa.

Mấy ngày tiếp theo, nhà nhà đều lo ra ruộng cuốc đất, làm cỏ, khẩn trương hơn năm rồi. Bùi ông dựng nhà cho người ta phải làm đêm cho kịp. Ông còn phải lo ruộng lúa nhà mình nữa. Cũng may trăng tháng tư tròn trịa, sáng tỏ lại đốt thêm đống lửa lớn đủ sáng lợp mái nhà, vừng vách lá.

Nhà Lưu tam bá giờ mới hối hả kéo hết ra đồng, cả Ngọc tỷ cũng bị kêu ra làm. Tỷ ấy quấn khăn đội nón kín mít, dáng thướt tha, yểu điệu. Lúc làm việc cũng không xăng cao ống quần sợ nắng ăn đen. Nhưng mà tỷ ấy làm vậy ống quần sẽ rách hoặc mau sờn lắm.

Trước Rằm một ngày, Vĩnh ca được nghỉ ở nhà đến sau khi sạ lúa xong mới đi học lại. Ca ấy cũng không rãnh rỗi, vừa trông quán vừa giã thuốc, phơi thuốc. Những ngày sắp vào mùa mưa nắng sẽ gay gắt hơn, trời hanh khô thích hợp phơi thuốc nhất.

Đêm nay trăng sáng rỡ, không khí dìu dịu chỉ còn ấm áp mà không khô hanh nữa. Mai cảm thấy hơi ẩm đang lan dần ra xung quanh, sắp mưa rồi!

Những hạt mưa nhỏ lất phất trong gió, không có mây đen che trăng. Mọi người gom củi khô vào chái nhà, kê trên hai thanh gỗ lớn. Đến lúc đi ngủ cũng không nghe mưa lớn hơn, chỉ cảm thấy hơi nước trong gió vậy thôi!

Sáng sớm cha sang nhà Lưu bá hỏi chuyện ngâm lúa giống. Hai người bàn một hồi thì quyết định chờ thêm mấy ngày nữa, ít nhất có thêm hai ba cây mưa lớn mới ngâm giống. Hai ngày sau đó trời lại nắng to, làm nhà nào cũng đi ra vào nhìn trời nhìn trăng.

Chiều ngày mười tám, ông bà nội và nhị bá giang ghe vào, mang theo mực khô, cá khô. Lúc ba người nhìn quán nhỏ phía trước không khỏi ngạc nhiên, đi vào xem Vĩnh ca vừa học chữ vừa trông quán. Bà nội mỉm cười hỏi:

– Bán được không? Nghe người trong làng nói nên ta mang theo khô mực, cá này; bán được thì bán, không được để ăn dần. Cá này chỉ mùa này mới có, mấy tháng sau sẽ quý, giá cao hơn.

– Dạ, bà nội.

Chuyện ‘nhập’ hàng là An ca quản, hắn lấy quyển sổ nhỏ ra ghi, trong sổ cũng không nhiều chữ, chủ yếu là mấy chữ số. Theo Mai gợi ý, chữ nào không biết thì vẽ hình hoặc làm ký hiệu. Cách này làm mấy đứa nhỏ đều hiểu, Cúc tỷ, Bình ca thậm chí Hân ca chỉ học mấy chữ số cũng biết đoán mò ra.

Thấy mọi người tản ra, ngũ cô lại gần hỏi bà nội chuyện lục cô. Bà nội nhỏ giọng kể chuyện ngày nhà trai bên kia đến. Họ theo phong tục người Việt, mời bà mai đến trước ngày rằm, mang theo sính lễ rồi xin định luôn lễ thành hôn trong năm nay. Ông bà nội đã cân nhắc thiệt hơn nên đồng ý, chờ xong mùa gặt lúa hai nhà sẽ chọn ngày cụ thể. Từ giờ đến lúc đó nhờ bà mai tìm ngày tốt làm lễ hỏi nữa là được.

– Nhà họ không phải người Việt, không nên làm khó, buộc người ta làm lục lễ đầy đủ. Cha con còn giận a Hạnh tự ý đó.

Bà nội nói thêm, như giải thích như tự an ủi mình. Nương và ngũ cô nghe xong chỉ thở dài gật đầu,

– Có hỏi thăm chú rể sao không nương.

Ngũ cô không nhớ gì về nhà trai nên hỏi thêm.

– Ta có hỏi thăm, nhà trai cũng không phải khó khăn; có ghe lớn đi biển, còn chuyển hàng lên tận vùng biển Xiêm La, ra đảo Kohn Tra nữa. Tau Uôn hắn gần hai mươi tuổi rồi, siêng năng, hay theo ghe đi biển, tính tình hiền lành.

– Chuyện ngọc trai là sao nương? – Haiz, a Hằng nói là hồi rằm tháng Giêng gặp ở chùa Cần Vọt thì Tau Uôn đưa tặng túi vải hoa. Nó không biết là ngọc trai, chỉ nghĩ là đá màu ở biển đảo nên nhận. Nghe nói là Tau Uôn tìm được hai hòn ngọc hồi tháng Chạp, hắn cũng không cho ai biết mà giữ bên người.

Bà nội vẫn còn rầu rĩ chuyện của lục cô. Hai ba năm nay bà chú ý tìm nhà chồng tốt cho lục cô. Có chuyện ngũ cô trước đó nên ông bà có ý tìm nhà chồng gần, thật ra nếu tìm được nhà nào trong làng Đông Hồ thì tốt quá. Bà không ngờ chuyện này xảy ra, vô thế nên đành gả đi, làm sao mà hài lòng được.

– Nhà bên đó ít người, ngoài hắn ra thì có tỷ tỷ đã kết hôn sống chung, có đệ đệ và muội cỡ mười tuổi nữa.

Tập tục người Chân Lạp, con gái khi gả chồng không nhất định phải về nhà chồng sinh sống. Thông thường họ sẽ thương lượng hoặc tùy tình huống mà hai vợ chồng trẻ về nhà nào. Đa số sẽ về nhà chú rể thời gian đầu sau tân hôn, sau đó thì linh động hơn. Nên việc tỷ tỷ hắn cùng phu lang sống ở nhà gái là bình thường.

Mai thầm nghĩ người Chân Lạp đúng là ‘hiện đại’, phóng khoáng hơn. Ước gì Cúc tỷ và lục cô sau này cũng được lựa chọn như vậy. Như vậy sau này lục cô có khó khăn thì về nhà nội sống được? A, vậy cũng không phải quá tệ!

Chờ bà nội kể xong Mai kéo áo bà, ấp úng nói:

– Bà nội, lục cô còn giận cháu?

Bà thở dài, vuốt nhẹ vai cô nói:

– Là cô cháu không phải, bà đã nói hơn thiệt rồi.

Từ lúc Mai báo bà nội chuyện ngọc trai, lục cô giận Mai không thèm nói chuyện. Trước đây mấy cô cháu thân thiết với nhau, xảy ra chuyện này Mai chỉ đành chờ lục cô từ từ nhận ra thiệt hơn; Mai đành làm người mách lẻo vậy.

Nói xong chuyện lục cô thì nói đến chuyện ngày mai La gia đến, a Cúc cúi mặt chăm chỉ lo nấu bếp. Nương nói chuyện mấy món ăn chuẩn bị ra sao, nhà trai có ai đến rồi gia cảnh La gia như thế nào.

Đến lúc hoàng hôn mới ăn cơm, ai cũng tham công tiếc việc, mà việc thì làm hoài không thấy hết. Vừa dọn cơm, nhóm lửa thì trời mưa lâm râm, mấy hạt nước như sương giăng giăng phủ một lớp hơi mát làm không khí hầm hập.

– Không mưa đâu, cứ dọn cơm ăn ngoài sân đi.

Ông nội lên tiếng nói, mấy đứa nhỏ nghe vậy nên tiếp tục dọn chén đũa.

– Mấy đứa nhỏ ăn nhanh vô nhà, mưa đầu mùa dễ sanh bệnh lắm.

Bà nội dặn thêm, người lớn không sao, nhưng trẻ nhỏ gặp mưa đầu mùa này dễ cảm sốt, sổ mũi; cũng may tụi nhỏ đã tắm rửa xong. Chưa được một khắc thì trời lại trong, mấy hạt sương không đủ ướt hết vòng chén đất.

Có ông bà nội nhắc nhở mấy việc tiếp nhà trai ngày mai, phụ lo việc ruộng đất, xẻ gỗ làm cha nương bớt lo lắng. Tuy rằng ông nội bỏ nghề nông ra làng chài lúc mười mấy tuổi nhưng kinh nghiệm cũng có. Ông xem trăng dự đoán thời tiết cũng chuẩn, mà chuyện này người đi biển nào cũng phải biết.

Bàn trên bàn chuyện làm ruộng, thời tiết; bàn dưới nói chuyện nuôi heo, nuôi gà. Lúc chiều a Phúc đã khoe khoang ba con heo với bà nội từ ngoài cổng. Bà nội chưa nuôi heo bao giờ, chỉ nghe người ta nói nên chỉ thuật lại, còn thêm:

– Ta chỉ nghe nói thôi, Nguyễn gia bên kia có nuôi. Hôm nào mang ít khô mực, cá khô qua tặng rồi nhờ người ta chỉ mình.

– Dạ,

Nương đáp lời, ngũ cô gật đầu nhưng cô ít giao du bên ngoài, việc này để nương đi là phù hợp nhất. Nhà Mai không thân thiết hoặc lui tới thường xuyên nhà trong làng, nhưng mọi người đi lại cũng biết mặt, chào hỏi nhau. Chuyện nuôi gà, vịt và đóng ghe ở nhà cô đã tạo tiếng lành, các nhà đều muốn học theo nên thân thiện hơn so với lúc trước.

Hôm trước Mai đã nhắc cha chuyện lấy phân heo, gà, vịt ủ chung với lá cây, rơm và mạt cưa làm phân bón cho ruộng lúa. Giờ chỗ ủ phân bón đã vun thành đống. Mỗi buổi chiều mát cha đều ra tưới ít nước giữ ẩm, dưới bóng râm để chúng phân huỷ nhanh hơn. Mong là mấy tháng sau dùng bón lúa sắp trổ đòng, thu hoạch khá hơn.Chương 100: Lễ Vấn danhSáng hôm nay trong nhà đặc biệt rộn ràng, nương kêu mấy đứa nhỏ ăn mặc chỉnh tề hơn. Tối qua bà nội đã mang áo mới, khăn đầu mới của ông nội ra treo, hơ nóng cho thẳng thớm. Nương và ngũ cô thì lo đồ cho cha và nhị bá. Có bà nội La huynh đến nên bà nội Mai cũng sẽ lên tiếp khách cho phải lễ.

Nhà trên nhà dưới đều lên xuống coi xem còn sai sót chuyện gì. Ông nội nói Vĩnh ca nên đi học, không nên nghỉ hoài được. Từ ngày VĨnh ca bái sư, lần nào vào đây ông cũng đến thăm, gửi ít đồ biển biếu nhà Đỗ lang y.

Khói bếp bay lên, mùi thức ăn cũng toả ra. Tiệc hôm nay có thịt gà, vịt làm bốn món mặn, thêm cá nấu canh; tiếp theo là bánh mứt đủ sáu món ăn. Qua giữa giờ thìn thì nhà trai, La gia tới. Từ xa, a Phúc chạy nhanh về hô lớn:

– Đến ao sen rồi,

Chắc là La gia đến nhà Đỗ bà mai rồi cùng đi đến đây. Đường từ trong làng ra đây mùa nắng băng ngang ruộng sẽ nhanh hơn là chống ghe theo con lạch. Đoàn sáu người do bà mai dẫn đầu từ từ tiến đến. Bà nội La gia sức khoẻ còn rất tốt, bà nhanh nhẹn đi giữa, không thấy mệt nhọc. La bá bá người hơi thấp nhưng rất cường tráng, nhanh nhẹn, bước chân nghẹ nhàng linh hoạt. Hai thanh niên đi sau Hùng huynh bưng mâm quả chắc là người quen trong làng.

Hôm nay là Lễ Vấn danh hai họ. Lẽ ra có trưởng họ đi cùng, nhưng La gia đơn chiếc, không có người trong họ ở gần đây nên đã xin miễn, thành ra chỉ có người lớn trong nhà đến. Nếu theo đúng lễ tục ở Chánh Dinh thì cần lục lễ (sáu lễ) từ lúc bắt đầu đến khi thành hôn. Những gia đình di cư đến vùng đất xa xôi hoang vu này tuy có lòng cũng khó theo được, lễ nào có thể miễn đều miễn.

Được bà mai dẫn dắt, hai nhà chào hỏi nhau rồi ngồi bàn dài nhà trên. Hai nhà đều mặc quần áo mới, đội khăn, mang giày vải trang trọng; lúc nói chuyện cũng từ tốn. Mai ở dưới bếp phụ nấu nướng nên chỉ nghe loáng thoáng tiếng nói chuyện qua lại. A Phúc cũng bị nương giữ ở nhà dưới, không cho lên nhà trên. Cúc tỷ thì sáng nay được nương vấn tóc, mang giày vải, mặc đồ mới ngồi trong buồng.

Vải màu xanh biển hoặc lá cây đậm được người nông dân ưa chuộng. Màu này đi lễ tiệc không quá nổi bật; lúc cũ rồi thì mặc ra ruộng, làm việc nhà cũng dễ nhìn. Lúc nãy Mai thấy trong đoàn nhà trai chỉ có bà mai là áo xanh lá cây hơi sáng, còn lại quần áo đều xanh biển đậm, chú rể đội khăn cùng màu.

Cúc tỷ mặc quần xanh đậm hơn áo một chút, mấy nút áo hình hoa mai năm cánh bằng chỉ xanh như hạt điểm từ cổ đến hông phải nhìn rất dịu dàng. Gương mặt thiếu nữ mịn màng với đôi mắt đen láy sinh động, không trang điểm phấn son vẫn tươi xinh như nụ hoa sắp nở. Cây trâm gỗ dì năm cho cài trên mái tóc vấn, đuôi tóc thả dịu dàng hai qua vai vừa thùy mị đoan trang vừa thanh tân nhẹ nhàng.

– A Cúc à, ra đây đi.

Tiếng bà nội gọi Cúc tỷ đi nhà trên ra mắt đàng trai. Tỷ ấy hơi run được nương nắm tay dẫn đến gần cửa mới buông ra. Nương đứng nép vách ngăn, khẩn trương không kém. Rất nhanh Cúc tỷ đã bước xuống nhà sau, nương và ngũ cô đều nhẹ chân dẫn tỷ ấy vào buồng, nhỏ giọng hỏi han. Mai nhìn vậy cũng hơi mắc cười, phụ nữ thời nào cũng vậy!

Hơn một khắc sau bà nội đi xuống dặn chuẩn bị dọn cơm. Mai vòng đường sau ra xưởng gọi Bình ca, Vinh ca và Hân vào bưng thức ăn và tiếp khách thanh niên. Cơm dọn làm ba mâm, một mâm đàn ông ở bàn dài, mâm đàn bà ở bộ ván bên phải. Mâm còn lại là cho chú rể, thanh niên bưng quả ngồi bàn tròn ở hiên nhà, có thêm mấy ca ra ngồi cùng. Lúc chuẩn bị ăn thì bà nội kêu nương ra ngồi cùng mâm đàn bà, chắc là bà nội La gia mời. A Bình và A An lo chạy tới lui việc vặt.

Gần cuối bữa ăn thì tiếng nói chuyện rôm rả hơn. Hai nhà hỏi thăm qua lại chuyện nhà, chuyện làng rồi mùa màng, ruộng đất, đi săn, thời tiết.

Giữa ngọ thì ăn xong, nhà trai chào hỏi rồi ra về, hai nhà chính thức kết sui gia.

– Ăn cơm đi.

Nương nói với ngũ cô, kêu mấy đứa nhỏ vào ăn trên sạp tre. Cúc tỷ thay bộ quần áo mới xong cũng ngồi vào ăn. Bà nội rửa miệng xong thì ngồi xếp trầu cau thành từng phần nhỏ.

– Ta để dành một ít về cho mấy nhà quen trong làng chài. Chiều con đi tặng mấy nhà ở đây, báo tin luôn.

– Dạ, nương. Bà nội đang dặn nương đem tặng trầu cau cho mấy nhà xung quanh. Đây là một nửa mâm trầu cau nhà trai mang đến; mâm còn lại là bánh qui và mứt gừng, mứt hạt sen.

– Ta thấy nhà trai cũng xem trọng a Cúc, sính lễ đặt mười quan. Họ còn thêm bốn bộ quần áo, bông tai vòng kiềng bạc nữa, cũng gần hai mươi quan rồi.

– Dạ.

Nghe người lớn nói lại chuyện đã bàn bạc lúc sáng, ông bà nội cũng hài lòng, chỉ hơi tiếc là La gia ít người quá. Thời này cần sức lao động nên nhà đông người đỡ đần việc làm nông mới được. Hơn nữa có họ hàng thì lúc khó khăn sẽ đỡ đần lẫn nhau. Ý thức gia tộc, dòng họ thời này rất chặt. So sánh hai bên thì nhà Mai đông đúc, có vẻ “có lợi thế” hơn một chút.

Nhưng mà Mai nghĩ tùy tình huống. Dòng họ đông mà không đoàn kết, tỵ nạnh, tranh giành thì còn khổ hơn. Nhà như La gia chắc sẽ coi trọng a Cúc, chỉ cần tỷ ấy chăm chỉ, cư xử phải thì không lo bị hắt hủi khinh rẻ. Hai người Hùng huynh và CÚc tỷ lại có tình, mong rằng tình nghĩa sẽ đến và bền chặt hơn. Như vậy là cả đời yê ổn rồi.

Bàn dài nhà trên ông nội hắng giọng hỏi cha:

– Chân nhà sui gia bị thương sao?

– Dạ, nghe nói là gần mười năm trước gặp voi dữ. Lần đó may là đi thành nhóm săn mới được người ta khiêng về.

– Ừ, Ta coi nhà họ đường hoàng chính chắn. Thời gian này con qua lại nhà sui gia cho đủ lễ nghĩa, nhớ dạy sỗ a Cúc cẩn thận.

– Con biết cha.

Nhị bá đã có sui gia nên hai hôm nay nhắc nhở cha mấy việc. Trong chuyện cưới hỏi thì ban đầu nhà trai lo toan nhiều lễ, nhưng mà sau khi dạm hỏi thì nhà gái mới lo lắng nhiều hơn. Con gái mình về làm dâu nhà người ta, may rủi không phải riêng cô gái mà ảnh hưởng hòa khí cả nhà.

Không nghỉ trưa, mấy người lớn đều mang cưa búa vào rừng đốn gỗ. Gỗ ngâm trong rạch không còn nhiều, làm thêm hai ba cái ghe nữa là hết. Chuyện tìm người đốn gỗ nhờ Dương ông và Bùi ông giúp, phải qua mấy ngày sạ lúa mới có người đến làm. Nhà Mai phải ra sức đốn mới kịp.

Mấy hôm nay Mai không nghĩ ra cách làm phẩm màu làm hồng lạp nên tạm gác lại, cô đang chuẩn bị làm bún gạo tươi. Có măng đầu mùa nấu vịt, ăn với bún tươi rất ngon. Làm việc nặng ăn món này sẽ mau đói, nhưng đổi khẩu vị làm mọi người ngon miệng hơn, hơn nữa lúc trời mưa lành lạnh ăn nóng rất thích. Mà bún còn chế biến được nhiều món khác nữa.

Trong xưởng gỗ Mai đang nhờ thất thúc đẽo cái khuôn làm bún đơn giản. Lấy miếng gỗ dày đυ.c mấy lỗ tròn rồi đóng thêm thành hình hộp. Bột gạo xay nhuyễn bằng cối đá, ủ trong, mịn cho vào đây ép ra dạng cọng tròn là xong. Mai định đợi trời mưa, hái măng non về là ngâm gạo làm. Lần đầu tiên làm phải cố gắng làm ngon một chút để cả nhà ăn vui vẻ.

Đang nghĩ đến lúc được ăn món ngon, Mai không thấy ngoài trời mây đen kéo về. Cả nhà đều chạy ra sân gom củi, gom lát đang phơi vào trong chái nhà. Quần áo cũng được mang vào, mấy cái móc áo rất tiện lợi, không sợ lấy nhanh rách quần áo, vải cũng không bị nhăn nhúm nữa.

A Cúc vừa lấy quần áo vừa nghĩ ‘mai mốt xin nương mấy cái quua nhà bên kia dùng’, chợt giật mình ‘mình nghĩ đi đâu vậy?’. Thiếu nữ thẹn thùng nhìn quanh, may là không ai biết, nếu không còn không bị nói chết! Ánh mắt đen láy của thiếu nữ vẫn có tia sáng của niềm vui và mong ước về cuộc sống lứa đôi.Chương 101: Tương huynh về rồiMưa rớt xuống rất nhanh, ào ào như trút nước. Không khí dịu xuống, hơi ẩm làm da mát mẻ, thật dễ chịu. ‘Tong, tong’ bị dột rồi! Mai ngước nhìn lên mái lá của xưởng.

– Ca ơi, chỗ này bị dột rồi.

– Đâu?

Bình ca đi đến nhìn ngó rồi nói.

– Góc bên kia cũng dột, đợi hết mưa ca lên xem sao.

Mái lợp lá dừa xài được ba bốn năm, xưởng này mới dựng gần một năm thôi mà, không lẽ nào.

– Không sao đâu, nắng lâu quá nên lớp lá quắc lại thôi, thêm vài cơn mưa nữa là hết.

Thất thúc đang gom mạt cưa lại mang ra ngoài xoay lại nói. Bình ca gật đầu ý phải. Mùa mưa đến cần coi sóc nhà cửa, còn quán nhỏ trước nhà nữa, mưa nhỏ không sao nhưng có giông gió chắc sẽ tạt ướt hết.

Hai ba ngày đều có mưa, không lớn nhưng đều đặn vậy làm mọi người biết là năm nay mưa sớm hơn. Nước mưa thấm hết trong đất, ếch nhái kêu vang trên ruộng, cỏ nhú lên xanh từng mảng.

Mấy nhà trong làng đều dặn nhau lo ngâm giống sạ lúa là vừa. Cha và Lưu bá cùng nhau làm, công việc mệt nhọc mà lại khiến người ta vui vẻ, hăng say.

Không đợi cha cuốc, ngũ cô tự mình cuốc từng đám, a Phúc theo sau ôm từng ôm về cho đàn gà ăn. Lẫn trong đó là mấy con trùng, dế, kiến chưa kịp chạy đi bị gà ăn sạch. Có mấy con gà mái tự ấp trứng nở con, ngũ cô cũng chen vào mấy con gà con ấp bằng lò vào chung đàn. Gà mẹ cục ta cục tác kêu đám gà con lại ăn kiến, ăn trùng trong đám cỏ làm rộn một mảng vườn.

Mai chỉ chờ ngày này, kéo a Vĩnh ra rặng tre trúc ven bìa rừng đào măng. Măng mùa này nhỏ hơn tháng mười, cũng không nhiều bằng nhưng ăn lại ngọt hơn. Trời mới mưa nên măng mọc chưa nhiều, kiếm một hồi được bốn bụt măng trọng, hai bụt nhỏ đủ cả nhà ăn thì về.

– Mấy bụi bạc hà ra lá non rồi, muội muốn trồng nhiều ít?

– Nhiều, bạc hà chống muỗi, muội tính thử chiết lấy hương pha làm bạch lạp, đốt lên sẽ có mùi thơm.

– Ừ, sư phụ nói hương bạc hà tốt, có thể phòng cảm mạo.

– Nhờ nhị ca đắp thêm đất, nới rộng chỗ cây thuốc mới đủ chỗ.

– Không cần đâu, nhị ca bận bịu lắm, ta làm được.

Mai nhìn a Vĩnh đánh giá, trong một năm này mấy đứa nhỏ đều cao lớn hơn. Nhưng a Vĩnh không lớn nhanh bằng, hắn vẫn gầy, cánh tay khẳng khiu.

– Không gấp, ta làm từ từ là được.

Thấy Mai nhìn mình a Vĩnh vội nói. Từ ngày theo Đỗ lang y học thuốc, việc trong nhà hắn ít làm. Giờ chuyện trồng vườn thuốc phải tự mình làm, không thể cứ nhờ mọi người được. Đang nói chuyện Mai nghiến phải cái răng trong đã lung lay làm nó rụng luôn. Cô bụm miệng chạy nhanh về nhà. A Vĩnh cũng đoán chuyện thay răng nên ôm rổ măng chạy theo sau.

– Nương ơi, a Mai thay răng.

– Răng trên hay dưới?

Nương đang tắm cho ba con heo trong chuồng bước ra hỏi. Mai chỉ hàm dưới rồi đi vào bếp lấy ít muối, nhả răng đưa nương, tự mình súc miệng, sát muối vào chỗ chân răng đang chảy máu. Hai tháng nay Mai bắt đầu thay răng, hai răng cửa hàm trên đã lú răng mới rồi, giờ lần lượt mấy cái răng trong.

“hú mèo hú chuột, răng cũ về mày, răng mới về tao”

Nương nhắc Mai đọc rồi quăng cái răng sữa lên nóc nhà; hàm trên thì quăng xuống dưới giường.

Ông bà nội muốn ở lại sạ lúa xong mới về. Năm nay nhà Mai có hơn năm mẫu đất. Phần đất khẩn hoang sau sẽ trồng khoai, đậu để cải tạo đất từ từ. Trồng lúa nếp nửa mẫu, còn lại gần ba mẫu kia thì trồng lúa. Ông nhìn mấy đống phân bón được vun tưới hàng ngày không khỏi mừng nói:

– Có đám phân này, ráng canh đúng ngày bón sẽ bội thu.

– Phải cha, con thấy Nguyễn gia bên kia cũng dùng phân heo trộn rơm ủ. Năm rồi bên đó gặt được hơn hai giạ một công.

Lê lão đưa mắt nhìn ra xa xa cánh đồng. Cả năm nay nhà con trai bận bịu trước sau; nếu có thể khẩn thêm phần đất phía kia đến sát mé rừng thì hai nhà không lo đói nữa. Năm nay phải thu xếp việc ở làng chài vào đây khẩn đất thêm mới được, quyết định xong ông nói cho cả nhà lúc ăn cơm chiều.

– Cha, đợi tháng bảy tháng tám ít đi biển cả nhà vào đây.

Nhị bá tính toán rồi nói tiếp:

– Cũng cần người đốn gỗ nữa, lỡ chưa tìm được người đến làm, không thể ngưng chuyện đóng ghe được.

Lê nhị bất giác đưa tay sờ lên mảng bầm lớn trên vai, công việc đốn gỗ, cưa xẻ gỗ thật vất vả. Mọi người đều lót mấy lớp nốp lúc vác gỗ vẫn không tránh khỏi bị bầm tím. Vết trầy xướt trên tay, cánh tay lúc tỉa cành chặt nhánh cứ lành lại có mới không ngớt. Nhờ a Vĩnh xin Đỗ lang y phương thuốc đắp lên mấy vết thương mới mau lành. Nhìn đôi bàn tay a Tâm đã chay sạn sau mấy tháng cầm cưa, cầm đυ.c khiến hắn hiểu rõ nỗi nhọc nhằn, tiền không dễ kiếm.

– Ừ, con nhớ báo nếu cần gỗ, đừng để lỡ việc. Ông nội quay sang dặn cha.

Trong không khí rộn ràng nhà nhà ngâm giống, làm đất chuẩn bị sạ lúa thì Tương huynh đúng hẹn quay về. Chuyến đi gần hai tháng làm chàng thanh niên mười tám tuổi như “lột xác” thành một người trưởng thành. Da xạm nắng, mái tóc dài buộc hờ hững, còn thêm hàm râu càm, râu mép không cạo. Lúc huynh ấy đi cùng Lưu bá qua nhà ai cũng ngẩn ra nhìn. Nhóm người lớn cố tình lơ đi bộ dạng thay đổi của Tương huynh, Lưu bá đằng hắng mấy tiếng nói:

– A Tương có mang về mấy món, tính gửi quán nhà đệ bán. Ta cũng sẽ mang một ít lên chợ Sông Lớn bán.

– Được, huynh mang qua đi.

Thấy cha đồng ý, Tương huynh đứng dậy nói về nhà chở sang làm cả nhà thắc mắc không biết là món gì, chắc là mua ở Trấn Biên về. Mai và An ca cùng nhìn vào quyển sổ nhỏ, từ hôm mở quán bán đến giờ, mỗi thứ bán được một ít.

Trứng vịt bán được cỡ tháng nữa, lúc vịt nước hoang về đây thì nhà nào cũng sẽ đặt bẫy bắt và tìm ổ trứng, sẽ không ai mua nữa. Gà con và gà mái bán được kha khá; mật ong bán chậm hơn so với mấy ngày đầu, phải tìm nơi khác bán mới được.

“Wow”, Tương huynh chở qua gần một nửa ghe tam bản; có đường mía vàng, dầu đốt, kim chỉ và mấy bao lát buột miệng không biết là gì bên trong. Tương huynh mở từng miệng bao nói:

– Cái này là giống khoai lang Dương Ngọc, ăn rất ngon. Trồng giống như khoai lang ở đây, củ nó mập hơn chút. Ai muốn trồng thì mua củ này về ươm mầm.

– Cái này là đậu phộng, con hỏi thăm là đất mình ở đây có thể trồng được.

– Này là đậu Nành từ Đàng ngoài có người chuyển vô, nghe nói cũng dễ trồng, ăn rất tốt cho người già và con nít.

Mai như phất cờ trong bụng, mấy loại này đương nhiên cô biết rồi, quá tốt, quá tốt.

Mọi người chăm chú nghe huynh ấy giải thích tên, cách trồng, Mai không chờ được hỏi:

– Giá bán sao vậy?

– Thúc thẩm, cháu mua ở ngay mấy nhà đang trồng nên giá rẻ hơn. Nhà thúc bán giúp, cháu sẽ chia lại hai phần được không?

Tương huynh không trả lời Mai mà nói với cha, qua mấy chuyến đi chành huynh ấy làm mua bán rất rành.

– Gì mà hai thành, cháu gửi đây thúc bán giúp là được. Mấy giống này thu được nhiều không? Ta cũng muốn trồng thử một ít.

– Đậu nành này thu cỡ hơn ngàn cân một mẫu, khoai lang Dương ngọc thu giống khoai ở đây thôi, chỉ là ăn ngon hơn. Đậu phộng thấp hơn đậu nành, nhưng mà giá bán cao hơn.

Hơn ngàn cân là cỡ khoai lang rồi, sở dĩ nhà nào cũng chừa ra ít đất trồng khoai vì khoai thu được nhiều hơn. Khoai lang trồng khoảng hơn ba tháng là có củ, không tốn nhiều công chăm sóc. Những năm trời hạn, lúa thất thu nhưng khoai vẫn sống tốt, có khi còn ngọt hơn lúc mưa dầm. Nếu chăm chỉ tưới nước, khoai còn trồng được hai vụ một năm.

Đợi mọi người ‘ngấm’ thông tin, Tương huynh quay lại chuyện chia phần:

– Chuyện hai phần là thông thường ở chỗ cháu mua bán trước đây, thúc nhận cháu mới dám nhờ.

Thấy cha nương còn phân vân, Mai nói:

– Hay là nhà muội nhận một phần, nhưng kèm theo là nếu lỡ bán không hết thì trả lại huynh được không?

– Được, như vậy đi.

Ừ, tính như vậy được, mấy người lớn đều gật đầu đồng ý. A An và Mai bắt đầu ghi chép. Hai nhà thân thiết như vậy, nhận hai phần giống người ta thì cha nương sẽ không đồng ý, mà bán “giúp” không thì cũng khó, không có “động lực” phải không? Nhận một phần thì coi như vẹn cả hai bề.

Mấy bao giống cũng gần năm trăm cân, mỗi loại được chiết ra một rổ để ở quán, còn lại thì buộc miệng cẩn thận, mang vào bồ lúa khô ráo cất.

Có thêm đậu nành, khoai lang, đậu phộng làm mọi người mừng rơn, qua mùa vụ là có thêm lương thực mới rồi. Mấy đứa nhỏ ngồi trên hai bộ ván nghe người lớn tính xem trồng giống mới ở đâu, chỗ đất nào. Mai không nhớ rõ cách trồng nên lắng nghe, gợi lại trí nhớ từ từ.

Tương huynh về nhà làm Lưu bá mẫu vui vẻ trở lại, thấy con trai biết lo làm ăn càng mừng hơn. Bá mẫu đi giáp vòng khoe mấy giống mới nên mấy hôm sau nhà Mai đã bán được không ít. Mấy nhà trong làng cũng đến xem giống mới, bàn tán rôm rả. Chuyện này làm mấy nhà vui, mấy nhà buồn.

Lưu bá mẫu vào bếp, ngồi xuống sạp tre hơi giận nói với nương:

– Còn nói là sạ lúa xong cũng dựng quán bán đó.

Bá mẫu đang nói về nhà Lưu tam bá bên kia. Mấy hôm nay tin có giống cây mới Tương huynh mang về bán, tam bá mẫu đến nhìn một lát rồi xách nón giận dỗi đi về.

– Ta thấy giống như người ta nói ‘con nhà lính, tính nhà quan’ chẳng sai. Mấy mẫu đất còn chưa làm cỏ xong, chưa cuốc nữa. Mai mốt làm sao sạ lúa đây?

Lưu bá mẫu càng nói càng giận hơn, chắc tam bá mẫu có nói gì đó không phải rồi. Thật ra nếu nhà Lưu tam bá mở quán bán cũng tốt, ở đây nhộn nhịp đông vui, chỉ là bán cái gì cần tính toán. Nhà nông không nhiều tiền mua sắm, trong nhà có gì dùng đó, quen tự cung tự cấp. Giống như chuyện móc áo bằng gỗ, mấy nhà trong làng mua một hai cái về xài thấy tiện lợi thì tự mình làm, bằng tre trúc, hay từ nhánh cây nhỏ; không đẹp và bền bằng nhưng cũng xài được. Chỉ có nhà phú hộ Từ là đến đặt làm tiếp hoặc mấy nhà khá giả đến chợ Cửa Sông lớn mua thôi.Chương 102: Làm bún tươiHai hôm nay Mai xin ngũ cô phụ làm xay bột, dằn bột xong rồi. Hôm nay hai cô cháu bận rộn chuẩn bị làm bún tươi. Bột gạo nhồi dẻo mịn, đổ vào khuôn rồi ép xuống, từng cọng bột tràn theo mấy lổ nhỏ rớt xuống chậu nước sôi. Cứ như vậy từng cọng bún dài ngắn chín vừa được vớt ra cho vào chậu nước lạnh bên cạnh.

Lưu bá mẫu ngồi trên sạp tre cũng quên chuyện bực mình xích gần lại xem. Lúc xay bột gạo ngũ cô đã cho nước hơi nhiều rồi mấy lần vớt hết vỏ cám vàng nhạt ra nên cọng bún trắng tinh, chần qua nước nóng, lạnh toả ra mùi tinh bột ngọt nhẹ.

– Ta chưa thấy bún tươi bao giờ. Nghe nhị ca nói ở Trấn Giang có tửu lâu bán cái này, giá mắc lắm đó. Cái này ăn với gì, nấu làm sao, chỉ ta làm đi?

Lưu bá mẫu làm bà bầu bốn tháng, thèm ăn đủ thứ. Bá mẫu thấy món lạ miệng nói không ngừng làm mọi người đều muốn chọc ghẹo.

– Món này bà bầu không nên ăn.

– Hả, sao không được ăn? Cứ ăn đại.

Ha ha ha. Nhìn ra mọi người ghẹo mình, bá mẫu cũng cười theo. Ngũ cô nói:

– Tính nấu với măng và vịt, giờ ta đi làm hai con vịt. Chiều nay mang qua cho tẩu một tô ăn thử.

– Tẩu ăn ít thôi, thịt vịt, măng là món lạnh, không nên ăn nhiều.

Nương cẩn thận nói thêm, bá mẫu cũng sanh bốn đứa con rồi, đương nhiên biết lợi hại trong đó.

– Ta biết.

Nhà Mai bây giờ đông người, lần này ngâm bốn cân gạo làm được một chậu bún chắc đủ mỗi người một tô. Mấy đứa con nít ăn đủ no, người lớn phải ăn cơm thêm nên nương và ngũ cô vội lo làm vịt, nấu cơm.

– Ta về nhà lo cơm nước, chiều rồi.

Nắng chiều ngã bóng dài, Lưu bá mẫu đội nón đi chầm chậm về nhà. Mấy cơn mưa làm đất ướt in thành dấu ngang dọc trên sân. Mùa mưa trước cha hay đem đá lớn nhỏ về kê ở hiên và cửa vào, chắc phải tìm thêm kê thành lối đi trên sân.

Măng tươi có hương vị rất riêng dễ nhận biết. Nhờ a Phúc khoe khoang mà cả nhà đều biết chiều nay có món ăn mới ‘bún măng vịt’.

An ca chống ghe lườn mang tô bún lớn nóng hổi qua nhà Lưu bá. Mấy đứa nhỏ phụ dọn tô muỗng lên bàn, tô lớn đựng bún trắng tươi đặt giữa bàn. Bà nội gắp bún, thịt vịt vào tô, nồi nước lèo vẫn còn trên bếp. Nồi nước lèo này là bà nội chăm chút nêm nếm.

Món bún này làm hơi vất vả, tốn nhiều công sức nên thường những nhà giàu có, quan lại mới làm ăn. Nay nhà mình có thể làm ăn bà nội rất vui mừng.

Nước mắm nguyên chất ở nhà làm với mấy lát gừng mỏng, ớt hiểm nhỏ xíu cay xè làm thịt vịt thêm ngon. Thịt vịt nuôi đồng rất săn, lớp mỡ dưới da mỏng lại được nấu trong nước lèo măng tươi nên ngửi được hương măng và vị béo vừa phải.

Mai không ăn cay nên pha riêng chén nước chấm cho mình và a Phúc. Lâu rồi mới ăn lại món này, cô không nén được vui vẻ.

Nhìn mấy đứa nhỏ vừa ăn vừa hít hà vừa cay vừa nóng, bà nội nói:

– Ăn thêm cơm dằn bụng, cái này mau đói đó, tối lại không ngủ được.

– Bà nội làm ăn ngon thiệt.

A Phúc nịnh nọt nói, sợ hắn ăn nhiều măng không tốt bà chỉ múc cho hắn chén bún măng nhỏ, đương nhiên là có cái đùi vịt lớn.

– Giỏi miệng!

Nương liếc hắn nói. Từ Tết đến giờ a Phúc tròn lên trông thấy, bắp chân, cẳng tay tròn lẳng, gương mặt tròn trịa, da ngăm ngăm căng mịn sờ nhéo rất đã tay!

Bữa cơm hôm nay hơi lạ, vừa ăn bún măng vịt, vừa ăn cơm với cá kho, rau luộc. Mâm cơm tô chén, đũa muỗng quá chừng, ai cũng vui vẻ ăn uống. Công việc vất vả cũng đã quên hết.

Ăn cơm xong mấy đứa nhỏ lo tắm rửa, người lớn vẫn làm tiếp mấy công việc còn lại. Cha ra xem bao giống ngâm ở chái nhà, mộng lúa đã nảy mầm. – Ngày mốt sạ lúa được rồi cha.

– Ừ, mấy mẫu đất chắc hai ngày là sạ xong. A Vinh, đi nhắn về cho tam thúc biết ba ngày nữa ta về.

– Dạ.

Vinh ca nghe dặn đi phía nhà Lưu bá nhờ nhắn tin. Từ ngày Lưu bá và Tương huynh làm lái đò, chở hàng cũng trở thành ‘trung tâm’ nhận chuyển tin luôn. Lúc trở về Vinh ca nói với bà nội:

– Lưu bá mẫu muốn học nấu bún măng vịt đó nội.

Ha ha, tô bún lớn đó làm bà bầu lên cơn them ăn rồi. Qua miệng bá mẫu chắc mấy nhà trong làng cũng sẽ nấu ăn thử. Mùa này vịt nước thì đi bẫy về, măng tươi thì dễ tìm. Chỉ cần dành chút công sức thì cả nhà sẽ có món ăn mới, ngon miệng.

Mấy ngày tiếp theo mưa rải rác, bầu trời ui ui, nắng nhẹ làm mọi người vui vẻ. Nhà nhà chăm chút từng hạt giống. Già trẻ đều ra ruộng, người lớn đắp bờ, cuốc đất, dọn cỏ; con nít chạy lăng quăn kiếm hang bắt ếch, bắt cua.

Nhà Mai còn bán được gà vịt vàtrứng mấy ngày này nữa. A An lúc nào cũng cười rạng rỡ chạy từ chuồng gà vịt ra quán, tối tối lại ôm hộp gỗ đếm tiền.

Nhà nào cũng phải luộc một con gà mái, đơm dĩa xôi đậu xanh, rượu, dĩa gạo muối để cúng ‘Làm Đồng’ trước khi sạ lúa. Rồi ai cũng muốn làm mấy món ngon cho người nhà ăn no sau cả ngày vất vả nữa, nên nhà ai không có nuôi gà, vịt đều đến mua. Mua ở nhà Mai không cần đợi chợ phiên, có mấy nhà gần nhà phú hộ, ở bên kia bờ Tô Châu cũng chèo ghe đến.

Chuyện sạ lúa có người lớn trong nhà lo. Mai và Vĩnh ca đang ở trong chuồng heo nhìn vết muỗi cắn trên thân ba con heo nhỏ, thật xót ruột! Hai con heo cò thân trắng bị từng đám nốt đỏ. Mấy lúc sáng sớm hoặc chập tối, chỉ cần vuốt bên hông ba con heo nhỏ là gϊếŧ một lớp muỗi, trên tay còn loang máu đỏ. Đầu mùa mưa muỗi dại nhiều, bay từng đàn u u. Ba con heo nhỏ đuôi ngắn ngoe nguẩy liên tục cũng không thể đuổi hết bầy muỗi. Phải làm sao đây? Để như vầy thì ba con mất sức, sao lớn nổi đây!

Dùng cỏ xả đốt cũng không thể đuổi được muỗi, dầu bạc hà? Vĩnh ca mới tách cây bạc hà con trồng thành hàng, không nhiều lắm. Dù cô có hái hết làm dầu cũng không thu được bao nhiêu.

– Ca chạy đi hỏi lang y thử? Muội hỏi sư ông.

– Được.

Hai anh em chia nhau đi tìm cách để trị muỗi. Sư ông thật sự không biết chuyện nuôi heo ra sao. Mai hơi ngại đến Nguyễn gia hỏi nên đành trở về, có thể Đỗ lang y biết. Lúc Vĩnh ca về nói có thể dùng dầu phộng hoặc dầu dừa thoa lên. Trời, còn quý hơn người nữa!

– Đốt lá tràm đi.

Ông nội nghe được nói, thợ đi rừng hay dùng lá tràm đuổi muỗi. Ở nhà ít dùng hơn vì mùi lá tràm đốt rất nồng, không dễ hửi như lá sả.

– Muỗi nhiều lúc chạng vạng hoặc sáng sớm, hay đốt lá tràm thử.

Ngũ cô nói rồi nhắc mấy đứa nhỏ chạy ra ven rạch hái lá tràm. Mai lấy một ít cặn dầu dừa để riêng trong cái chén nhỏ. Ngũ cô thoa một ít lên cả người ba con heo, rồi nhóm lá tràm đốt lên. Đàn muỗi nghe mùi bay tán loạn. Mấy người phụ nữ con gái đều thở dài, đỡ hơn một chút rồi.

Sạ lúa xong nhà mình xong thì ông bà nội, nhị bá về làng chài. Xung quanh đó, trên cánh đồng còn lác đác mấy nhà chưa sạ xong, nhà Mai qua phụ nhà Lưu bá một buổi nữa cũng xong xuôi.

Lúc Mai ôm rổ măng tươi qua để bá mẫu và tam Mi nấu măng vịt. Ngũ Mi ngồi cửa bếp chơi, gương mặt nhỏ nhăn nhăn.

– Sao vậy? Ai ghẹo muội à?

Bé lắc đầu không nói, hai mép xịu xuống. Tứ Mi ngồi đương đệm trong nhà cười nói.

– Nhị ca thả hai con sáo bay đi mất. Nó khóc mấy ngày nay rồi.

Hả, thả sáo bay đi rồi, Tương huynh rất thích hai con sáo đó. Là chuyện của Từ tiểu thơ sao? Huynh ấy buông lòng rồi!

Mây tháng đi chành, ngày đêm lênh đênh sông nước lòng huynh ấy đã thật phai nhạt, hay chỉ nén lòng quên đi. Lâu rồi Mai không đi chợ phiên trong làng, không nghe tin tức gì từ nhà phú hộ. Chỉ mong là Tương huynh chưa nặng lòng lắm, có thể vượt qua chuyện tình không trọn này.Chương 103: Buôn bán là phải có cạnh tranh rồiCuối tháng tư năm nay mưa đã đều trên khắp vùng. Mạ non xanh mướt trên ruộng làm nức lòng người nông dân.

Ngày cuối tháng a Sao một mình chèo ghe đến giao tổ ong của nhà mình và nhà Trương bá nữa. Trùng hợp là chiều hôm đó a Báo cũng mang gà rừng con, tổ ong còn thêm một rổ xoài đến. Thấy hắn lưng cõng gùi, tay ôm rổ, mồ hôi chảy dài thật tội nghiệp. Mấy đứa con trai gặp nhau đùa giỡn ha ha, hắc hắc cười lớn ở trong quán.

Từ ngày hai nhà kết sui gia, Hùng huynh không thường đến được nên chuyện hai nhà qua lại do a Báo lo. Bé trai mười mấy tuổi hiếu động nên hắn cũng thích chạy tới lui.

– A Báo, ngươi đủ tiền làm cung tên chưa?

– Chưa, chắc gần Tết mới đủ.

– Một mình ngươi dám chèo từ Giá Khê đến đây hả?

– Có gì không dám, trên sông cũng có nhiều người đi lại. Chèo mệt thì thả cho ghe tự trôi.

– Ngươi dạy ta chèo đi.

Hai đứa con trai kéo nhau lên ghe nhỏ, a Phúc và con Mực cũng theo góp vui. A Vĩnh đã trở lại học ở nhà Đỗ lang y chưa về. An ca không muốn theo, hắn muốn giữ quán kiếm tiền!

Mấy đứa cũng không chơi lâu, đường về La gia không gần. Một mình a Báo đi nên nương hối thúc hắn về sớm. A Sao đưa về một đoạn bằng ghe nhỏ còn hắn sẽ ở lại nghỉ một đêm sáng mai mới về Giá Khê.

Tiếng ễnh ương, tiếng ếch kêu ran ngoài đồng. Hai cái ao nuôi vịt đã gần đầy nước, đàn vịt vui vẻ lạch bạch lên xuống rất thoả mãn. Vừa lên giường thì nghe con Mực sủa rất dữ ở phía chuồng gà, gà trống gà mái cũng kêu loạn xạ. Chái nhà chỗ con trai ngủ có tiếng chân chạy ra. Vinh ca đốt đuốc theo sau.

– Rắn!

Ngọn đuốc rọi xuống mặt đất chổ l*иg gà con. Con rắn to cỡ cùm tay, dài bốn năm thước đang nuốt con gà, chỉ thấy hai chân gà còn bên ngoài. Mấy đứa con trai cầm cây đập nó túi bụi. Nó vẫn đang nuốt con mồi nên không chống được, bò đi cũng không nhanh.

– Không biết nó nuốt mấy con rồi?

Ngũ cô đau lòng nói, nhìn bụng con rắn phình to vậy, bị đập chết đáng đời!

Mấy đứa con trai chưa tha cho nó, nắm đuôi đem vào sân, muốn mổ xem nó ăn mấy con gà. Mai sợ không dám nhìn nên đi vào buồng. Lát sau ngũ cô vào lên giường nói:

– Mới ăn một con, trước đó đã nuốt con chuột đồng bự, mấy con ếch nhái nữa. Nhờ con Mực nếu không nó còn muốn ăn thêm.

Đêm dần sâu, mây đen che con trăng già, mưa đêm lộp độp trên mái lá. Mai quấn cái mềnh quanh người, xoay nghiêng rồi co người cho ấm hơn.

Trong mênh mang trời nước, một mình cô lênh đênh trên chiếc ghe nhỏ, không có a Vĩnh bên cạnh như mọi ngày. Bỗng dòng nước như bị hút cuồn cuộn như xoáy vào miệng hang. Phía trước là đám bèo, mấy khúc cây cứ bị hút đi. Đàn gà, đàn vịt nhà cô cũng bị hút hết vào, tiếng gà vịt há mỏ kêu quang quác. Mà sao cô không thực sự “nghe” được, giống như mọi âm thanh xung quanh bị “ăn” mất.

Chiếc ghe nhỏ chòng chành, Mai không thể thoát ra khỏi vòng xoáy. Càng đến gần lực hút càng mạnh, mình cần biết phía trước là gì mới có thể tìm cách thoát khỏi được. Nghiêng ngả đứng lên, cái mà cô nhìn thấy làm cả thân lạnh giá, hồn vía lên mây. Miệng hang mà cô nghĩ thật ra là miệng con rắn to, nó đang hút tất cả vào bụng mình.

Hai răng nanh trắng loá, những giọt độc đang tiết ra. Mấy cái vẫy xanh loé lên dưới ánh trăng. Giờ cô thấy cái lưỡi đỏ chạch rít lên và nghe âm thanh the thé như tiếng sáo sai điệu chói tai. Tiếng rít đột ngột như người ta vừa vặn nút “on” trên ti vi vậy.

Cả chiếc ghe bị hút nhanh vào miệng rắn, càng lúc càng nhanh như lốc xoáy, tiếng rít càng chói tay. Ánh chớp loé lên chiếu sáng vòm miệng con rắn sâu thẳm như đường hầm, Mai hét lên như muốn át tiếng sấm chớp.

Ầm, ầm, ầm!

Ngoài trời tia chớp vừa dứt thì sấm ầm ầm tới. Là mơ thôi! Ác mộng làm tim Mai đập thịch thịch, cả người cứng đơ. Là do nằm nghiêng máu huyết không lưu thông nên mới có ác mộng này, cô gắng xoay người, tự nhủ.

Mưa ngừng trong chốc lát lại tiếp tục lộp độp rơi. Phía đông le lói sắc hồng, gà gáy báo sang canh râm ran bốn phía làm Mai bình tâm đi vào giấc ngủ.

Sáng nay là ngày chợ phiên đầu tháng năm, nhà Lưu tam bá cũng khai trương cửa tiệm. Tiệm đặt ngay ngã ba con rạch lớn và lối rẽ từ vũng Đông Hồ, hơi cách xa nhà Lưu tam bá. Vị trí này rất thuận lợi để người trong làng đi lại. Giống như lần đãi Tân gia, sớm nay nhiều người được mời đến khai trương quán, tiếng nói cười rôm rả.

Lúc cha đi dự khai trương về thì cả nhà đang ăn cơm, mặt cha có vẻ lo lắng, nương thấy vậy hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Cha thở dài, nhăn mày nói.

– Lúc nãy Dương ông nói ông bị triệu lên Lũng Kỳ vào rằm này, sợ là có biến. Năm rồi không nghe lệnh quan sai đòi dâng nạp sản vật như lệ thường; không biết lần này lành dữ ra sao.

– Có Đỗ lang y ở đó không cha?

Mai hỏi.

– Không, tam bá có mời nhưng lang y nói là bận bịu không đến. Con hỏi làm gì?

– Con nghĩ lang y đi lại nhiều, có thể biết chút tin tức. Gần rằm dượng năm cũng đến, dượng cũng có thể biết. Nghe Mai nói mọi người gật đầu.

– Ừ, ta đến nhà lang y hỏi thử. Nhà còn trà ướp sen không?

Cha hỏi nương.

– Còn một ít, ta gói lại đưa chàng.

Mai thấy mọi người chưa yên tâm nên nói tiếp:

– Dượng năm đi lại các nơi, cũng quen biết không ít người. Nếu có bất thường chắc chắn dì dượng sẽ báo nhà mình.

– Ừ, phải rồi. Chàng đừng quá lo lắng.

Lúc này thì cả nhà mới bình tĩnh nghĩ lại, đúng là như vậy. Nhờ chuyện bán bạch lạp nên quan hệ giữa dì dượng và nhà mình thân thiết hơn, nếu thật sự có tin quan trọng sẽ nhắn về.

– À, có hai người đến phụ đóng ghe, ngày mai đến, có ăn cơm trưa, chiều thì họ về nhà ăn.

Cha nói để cả nhà biết mà chuẩn bị nấu thêm phần cơm trưa. Tháng rồi công việc chính ở xưởng là đốn gỗ về ngâm, cưa xẻ tấm lớn. Giờ có hai người đến phụ thì người nhà mình bắt đầu đóng ghe được rồi. Mai không biết nhiều người trong làng, nên cô không có ấn tượng với hai người sắp đến làm trong xưởng.

– Cha, lúc đầu để hai người đó cưa xẻ thân cây thôi.

Mai lên tiếng nhắc cha, thâm ý trong đó cha đương nhiên hiểu.

– Ta biết, để làm thử xem sao. Mấy đứa cũng chú ý quan sát, biết không?

Câu sau là nói với thất thúc và các ca đang làm trong xưởng.

Buổi chiều trời mát, An ca và Mai đang ngồi trong quán thì a Phúc và con Mực chạy đến.

– Ca, tỷ, quán bên kia cũng giống nhà mình đó, chỉ không có gà vịt con thôi.

– Vậy à?

An ca dừng tay sắp trứng gà vào rổ, hỏi a Phúc.

– Giá bán bằng mình không?

– Bằng. À, mực khô cá khô rẻ hơn, mà con mực nhỏ hơn chỉ cỡ hai bàn tay đệ.

Xem ra a Phúc là cố ý qua đó dò xét. Mai quay nhìn sang a An ‘là hắn kêu a Phúc đi sao, có tiền đồ đó, cũng biết tìm hiểu đối thủ cạnh tranh’.

Mai rót chén nước cho nhóc Phúc, lấy tay lau mồ hôi hai bên má hắn. Ba anh em ngồi trên ghế gỗ dài trong quán, nhìn ra mặt nước Đông Hồ in bóng mây trời trong nắng nhạt. A An đếm xong số trứng gà quay sang nói.

– Tương huynh sắp đi chành, chắc sau Tết Đoan ngọ là đi. Ta nghĩ huynh ấy sẽ mua đồ về nữa. Lần này có quán của Lưu tam bá thì quán mình khó bán hơn.

– Đúng, ý ca sao?

– Mình phải bán nhiều món hàng khác nhau để người ta mốn mua gì đều có. Chỉ là mình không ngăn quán bên kia làm giống được.

A An càng ngày càng thuần thục chuyện buôn bán. Trước đây để ca ấy làm là đúng sở trường rồi.

Thật ra ở hiện đại Mai không học kinh tế hay thương mại nhưng hàng ngày đọc tin tức, thông tin về thương trường nên cũng biết chút ít. Tiếp lời a An, Mai nói ra mấy tính toán của mình.

Cô định gặp Tương huynh thương lượng việc đặt những loại hạt giống hoặc các món hàng huynh ấy mua và chỉ bán cho quán mình. Những món khác mình không lo tới. Huynh ấy cũng nên nói rõ với nhà Lưu tam bá biết. Như vậy ba nhà sẽ không mích lòng nhau, vẫn giữ tình chòm xóm.

– Ca nhớ nhà thím Po Pha ở làng Thạch không? Muội muốn mua mấy món đồ trang sức, mình bán cho dì dượng năm càng tốt.

– Ừ, ca sẽ xin nương đi chợ Sông Lớn hỏi thím ấy.

– Bên chỗ Tiêu Ân thúc nữa, nghe nói thúc ấy cũng làm mua bán ở Lũng Kỳ, Cần Vọt. Chắc sẽ có nhiều món đồ tốt.

– Được, sao ta quên chứ?

Gần như Mai đã lôi hết mấy mối quen biết với nhà mình rồi. Cô nghĩ làm cửa tiệm mình như ‘đại lý’ vậy. Từng bước làm để a An quen dần rồi sau tự phát triển. Thật ra cô cũng chỉ biết đến nhiêu đó thôi.Chương 104: Những ngày đầu vụA Phúc ngồi không yên đã chạy vào nhà cho gà ăn và công việc thích nhất của nhóc là đi lượm trứng vịt đẻ rớt. Ngũ cô đã lót ổ rơm trong chuồng nhưng vẫn có mấy con vịt thích đẻ bên ngoài. Mỗi ngày cũng rớt bốn năm trứng ở gần bờ ao hay trong đám lát.

Tết Đoan Ngọ năm nay là ngày nắng đẹp. Sau khi dọn mâm cúng nương cũng bắt mấy đứa nhỏ ra ‘nháy mắt’ với ông mặt trời. Thất thúc, Vinh ca, Hân ca, a Bảo và ngũ cô đều về nhà nội từ chiều hôm trước. Xưởng nghỉ, quán đóng cửa nên chỉ còn tám người nhà ngồi ăn bánh trôi nước, nói chuyện linh tinh.

Sẵn dịp này, An ca nói chuyện ở quán như tính toán. Nương gật đầu đồng ý, còn nói sẽ theo qua nhà Lưu bá và dẫn hai đứa đi thăm Tiêu Ân thúc luôn. Mai thấy nương rất thích bé Anh nhà Tiêu Ân thúc. A, không phải nương muốn sanh thêm chứ!

Năm nay ngoài phần lễ cúng dường chùa và Đỗ lang y, nhà Mai có chuẩn bị thêm một phần cho sui gia. Cha nương nhờ nhắn tin La gia biết sẽ đến thăm. Nên Mùng bốn tháng năm cha nương đã đi thăm hỏi. Quà biếu là hai chục bánh ú, gói mức hạt sen lớn, mực khô – cá khô. Mức hạt sen này là do a Cúc làm.

Người trong làng đông đúc hơn, có nhiều nhà cũng bắt đầu đến hái ngó sen, đài sen. Mai tính xin cha nương cho mình trồng sen ở ao nước sau nhà. Ao sen rất có lợi, có hoa đẹp, củ sen, đài, lá rể đều dùng được. Cá tôm cũng thích sống trong ao sen, sinh vật phù du, thức ăn nhiều. Bây giờ trồng, hai ba năm sau là có để cả nhà dùng rồi.

Lúc xế trở về hai người đều vui vẻ khen Hùng huynh giỏi giang, lo liệu chu toàn, là người có trách nhiệm. Nhà Hùng huynh cũng có gửi quà biếu lại. Là hai con thỏ rừng, một rổ xoài chín và đặc biệt là hai gói nhỏ. Một là đầu rắn hổ đã nướng thành than giã nhỏ và mật gấu đã phơi khô.

Nọc rắn hổ rất độc nhưng dùng ít lại có công hiệu giảm đau tương tự như gây mê. Dân gian truyền nhau bài thuốc nướng than đầu rắn hổ, nghiền ra thành bột rồi đắp lên mấy cái răng sâu. Bảo đảm răng hết nhức đến cả chục năm sau luôn.

Nương cất gói nọc rắn, dặn Vĩnh ca:

– Hôm sau con mang gói mật gấu cho Đỗ lang y để ông dùng. Đây là thuốc quý, nhà mình cất riêng cũng không làm gì.

Hai ngày sau Tết Đoan Ngọ, Dương ông đi Lũng Kỳ theo lệnh quan trên. Trước đó Đỗ lang y nói với cha không cần lo lắng. Ông nghe lời đồn là có thay đổi quan gia trông coi vùng đất này. Là ai thì dân đen như họ cũng nộp thuế thôi; sẽ không có loạn lạc gì. Cha nghe xong cũng yên lòng.

Cũng trong ngày này, Tương huynh đi chành cùng nhà ngoại huynh ấy. Lần rồi thu được tiền lời do bán các giống cây làm huynh ấy rất mừng rỡ. Nhà ngoại huynh ấy muốn đi theo tìm mua giống cây mới nên đi chành sớm hơn mọi năm.

Sau ngày nghỉ, mọi người bắt đầu công việc vui vẻ hơn. Cách nhau vài ngày gặp lại có đủ chuyện để kể. Nương kéo tay ngũ cô hỏi chuyện nhà sui gia lục cô. Nhị bá thay mặt ông nội đến tặng lễ (do cha Tau Uon gần bằng tuổi nhị bá thôi, nên khi gặp ông nội nói chuyện hơi gượng ép). Nhà họ cũng trả lễ, lễ cũng trọng.

– Theo lễ nhà mình, mong là thật tâm coi trọng a Hạnh..

Nương nghe kể thở dài nói, đây là lo lắng nhất trong hôn sự của lục cô. Dù cùng sống trong vùng đất này nhưng mỗi gia đình Việt, Chân Lạp hay Tàu theo phong tục của mình. Khi kết sui gia chuyện này rất tế nhị, theo lễ bên nào? Nhà trai hay nhà gái? Chỉ có thể tùy cơ ứng biến.

Mai đang cùng lựa khoai lang giống, nói:

– Nương, khoai lang trồng mùa nắng ít sùng hơn mùa mưa năm rồi, chỉ là củ nhỏ hơn.

– Ừ, mưa nhiều quá khoai không ngọt, lại bị sâu ăn.

– Nương, hay mình đợi tháng chín hẳn trồng?

– Ý con là sao?

Mai nghĩ tháng chín trời còn mưa, nước ngọt rất thích hợp cho dây khoai phát triển; đợi đến tháng mười một trời bớt mưa lúc đó dây khoai có củ nhưng sẽ ít bị sâu ăn, làm củ khoai bị sùng.

Nghe Mai nói nương, ngũ cô và Cúc tỷ đều ừ, tính vậy rất tốt. Tháng mười một, mười hai nước còn đầy, muốn tưới nước cho dây khoai cũng không khó, hơi cực chút nhưng khoai sẽ có củ to, lại không bị sùng. Vậy để đất trống đến tháng chín cũng uổng.

– Nương không nhớ Tương huynh nói đậu nành trồng hơn ba tháng là thu được mà, giờ mình trồng đậu nành hết. Tháng chín hái đậu xong trồng tiếp dây khoai.

– Được không? Trước giờ không thấy ai làm, trồng liên tục đất bị bạc màu.

– Dạ được. Nhà mình có phân bón mà. Lúc cha bón phân lúa để lại một ít. Với nữa cây đậu chết đi cũng bồi thêm cho đất rồi.

Mai không dám nói là thật ra trồng xen kẽ làm cho đất đặc biệt là các cây đậu sẽ làm đất cân bằng dưỡng chất hơn. Đây là kỹ thuật xen canh của thời hiện đại.

Nếu trồng được vậy là thu được hai lần đậu và khoai, lương thực trong nhà được nhiều hơn, vậy, vậy được sao? Lúc cha nghe được cũng hết hồn, như a Mai nói nhà mình không sợ đất cằn, có phân bón bồi dưỡng.

Thật ra số giống đậu nành không đủ trồng hết. Nên vụ này là trồng đậu xanh, đậu đen và đậu nành. Tháng chín sẽ trồng khoai lang, khoai mì và khoai mỡ.

Nghe cách này, nghĩ đến số lượng hoa màu thu được cả nhà vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Sao trước đây chưa nghĩ ra cách này chứ? Trước đây chỉ có ít loại giống, đất rộng mênh mông mỗi năm một vụ đã không đủ sức làm. Nhưng thay vì khẩn hoang đất mới vất vả, thu được ít hơn. Trồng trên đất ruộng lâu năm sẽ tốt hơn nhiều.

Mang theo tinh thần phấn chấn tin tưởng vào vụ mùa mới, lớn nhỏ trong nhà bắt đầu trồng đậu. Trồng đậu phải gieo từng hạt vào lổ nên cần hai người đi từng hàng. Hàng người lom khom trên ruộng đúng nghĩ câu nói ‘bán mặt cho đất bán lưng cho trời’. Những nhà khác cũng đang trồng khoai đậu, hoa màu.

Cha nói Nguyễn bá cũng đào ao rộng, mua vịt con nhà Mai về nuôi. Con heo nái đẻ được tám con hồi tháng giêng, bá ấy giữ lại ba con nuôi, lớn hơn heo nhà Mai nhiều. Ở làng Đông Hồ đã có nhiều nhà bắt đầu nuôi gà vịt, nhưng heo thì chỉ có nhà Nguyễn bá và Mai nuôi. Cái khó là nuôi heo nái và heo con; giống nhà Nguyễn bá nhờ người ta đưa heo nọc đến phải trả ba phần heo con đẻ ra.

Mai muốn để nái một con heo cò và con heo bông nhà mình, nên để ý nuôi ba con heo cẩn thận. Còn việc tìm heo nọc giống thì sẽ nhờ nhà Nguyễn bá giới thiệu. Nhà mình nuôi heo nọc luôn được không? Con heo cò còn lại là con đực, chắc không dễ đâu! Kêu a Vĩnh “nghiên cứu” thử? Trước khi làm lang y thì làm thú y cũng tốt mà, ha ha.

Giống như gà vịt, thấy nhà mình nuôi nhà khác sẽ nuôi. Cuộc sống mọi người đều khá giả hơn. Ai cũng có đời sống sung túc, dân phong sẽ được nâng cao mấy hồi.

Rất nhanh đến ngày rằm tháng năm, An ca và Mai đang đào mấy cây mai trắng, mai vàng từ chùa về trồng. Hai cây mai trắng trồng trước cổng, hai cây mai vàng một cây trồng trước hiên nhà, một cây trồng gần cửa tiệm. Tưởng tượng mấy năm sau hai cây mai vàng nở hoa rực rỡ trong ngày Tết mà trong lòng lâng lâng sung sướиɠ. Cảm giác giống như quay lại hiện đại kéo gần khoảng cách ba trăm năm.

Trời chiều đang mưa, con vịt cồ đang lạch bạch theo sau con cá rô bự lóc từ đìa lên ruộng. Gai lưng cá rô rất cứng, cứ rẹt rẹt giương lên mỗi khi mỏ vịt rỉa nó. Mai không khỏi buồn cười nhìn chúng trước sau tiến về vũng nước trũng trên ruộng. Đợi đến khi gần đến vũng nước cô mới chạy đến bắt con cá rô bỏ vào đυ.c. Bụng nó to vậy chắc là đầy trứng, làm món cá kho tộ chấm với mướp non hấp cơm rất ngon.

Dạo quanh bờ ruộng một vòng, đυ.c đã gần đầy cá rô, vọp, ốc, thêm phần của a Phúc nữa là đủ đồ ăn cơm chiều nay rồi. Dầm mưa nãy giờ thấy hơi lạnh, Mai bắt tay làm loa kêu a Phúc cùng quay về. Trong tay a Phúc có hai con ếch bị trói bằng mấy cọng rơm, cái đυ.c cũng gần đầy. Càng ngày nhóc càng giỏi, nông dân chính hiệu rồi.

– Tắm nhanh, để cảm lạnh.

Nương lấy đυ.c rồi hối hai đứa đi tắm. Lúc tắm xong thì nghe sân trước lao xao có tiếng nói chuyện.

– Có ướt không? Thay quần áo đi.

Là dì dượng năm đến, hai người cũng bị ướt một chút, mép quần dính bùn đất từ bờ rạch vào nhà. “Phải tranh thủ lát đá lối đi trên sân mới được”, Mai tự nhủ.Chương 105: Dương ông mang về tin tốtMưa rả rít đến lúc chạng vạng mới dứt, không khí ẩm ướt làm món canh mướp nấu ếch thêm ngon. Sạp tre đặt gần bếp rất ấm áp, dì năm vừa ăn vừa kể chuyện ở nhà ngoại và mấy chuyện lạ các nơi.

– Nhớ chợ phiên Đầm Sen không? Có hai người tìm được miếng trầm lớn, bây giờ nhiều người đổ về đó tìm. Trầm đâu không thấy mà có người bị cá sấu cắn ở bìa rừng. Người ta xúm nhau gϊếŧ nó; tìm thấy trong bụng nó hai vòng tay bằng bạc.

– Trời, có biết là của nhà ai không?

– Không, không nghe xung quanh đó có người bị cắn tay. Người ta nói con sấu đó từ nơi khác đến. Mới đầu mùa bọn chúng đã xuôi về hạ nguồn rồi. Ai cũng đồn năm nay nước lớn.

Sinh vật nhạy với thay đổi của môi trường hơn. Người lớn tuổi hay nhìn phản ứng của động vật xung quanh để dự đoán thời tiết. Kinh nghiệm truyền miệng từ đời này sang đời khác, thành những câu thành ngữ như ‘chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm’ hay ‘tháng bảy kiến đàn là đại nàn hồng thuỷ’.

Lúc cả nhà ngồi cùng nhau trên hai bộ ván nhà trên, dì năm mới nói chuyện nhà ngoại chuẩn bị mở tiệm bán ghe.

– Cha xin đất ở ngã bảy gần chợ phiên, gần một quan cho một công đất ruộng (1). Mùng chín rồi là ngày tốt, cha cúng dựng nhà nhỏ và cầu nước neo ghe rồi.

– Vậy cha có nói khi nào xuống lấy ghe không? ở đây có một nghe lớn, làm thêm hai ba ngày nữa là được ba ghe nhỏ.

– Không nghe cha nói, nhà tỷ phu tính sao?

Nghe cha nói tình hình đóng ghe, Dượng năm hỏi tiếp. Cha chưa trả lời mà nhìn nương có ý hỏi. Thật ra chuyện bán ghe nương không rành, cha hỏi theo thói quen làm nương ngẩn ra.

– A Mai, con muốn nói gì?

Trời, Mai đâu có ‘giơ tay’ xin phát biểu đâu, dượng năm thật là!

– Dì dượng có nghe ông ngoại nói ai ở tiệm bán ghe không?

Mai hỏi như vậy để không nói thẳng tính toán đã có từ lâu của mình. Trước đây khi nói chuyện với cậu hai Mai đã tính sẵn các bước thực hiện.

– Ban đầu cậu hai cháu bán, sau đó a Sinh sẽ lo.

Đúng như Mai đoán, ông bà ngoại sẽ không buông việc làm ruộng. Việc này là để Sinh ca và mấy biểu ca có thêm đường mưu sinh sau này.

– Cha, việc bán ghe không dễ, có người lớn giống ông nội mới bán được. Còn phải hiểu biết mấy loại ghe này nữa. Để Bình ca và con vô nhà ngoại mấy ngày, có cha đi nữa mới được.

– Phải, phải.

“Lời a Mai nói đúng, mấy lần cha mời khách đến xem ghe đều dễ dàng mua bán, phần lớn là tin tưởng lời cha nói. Mua ghe là chuyện lớn trong nhà, không ai khinh suất”, Lê tứ không khỏi vui vẻ trong lòng nghĩ. Suy nghĩ cẩn thận xong ông nói.

– Vậy đóng xong cái ghe nhỏ dở dang này thì đem một lớn hai nhỏ đi vô đó.

Nói xong, cha quay sang nói Vinh ca:

– Mấy ngày này cháu chạy về Tô Châu thăm con đi. Lúc ta đi thì ở đây coi sóc chuyện trong xưởng.

– Dạ, cháu biết.

Nhị tẩu đã sanh em bé được gần tháng, là con gái. Nhà nội ai cũng vui mừng, Vinh ca thì khỏi nói rồi. Cứ mười bữa nửa tháng ca ấy lại chạy về nhà mẹ nhị tẩu thăm con thăm vợ. Đường từ đây về đó đi hơn một buổi, mỗi lần đi về gần hai ngày.

– Vợ cháu sanh rồi à, ta chưa biết. Ta có khúc vải nhỏ, gửi cháu để dành may quần áo cho con.

– Dạ, cảm ơn cô.

Dì năm nghe tin hỏi thăm thêm mấy câu chuyện con gái Vinh ca. Nương đã đi thăm một lần lúc vừa sanh xong nên góp thêm mấy lời. Vinh ca đâu có để ý chuyện lặt lặt lúc đàn bà ở cử hay con nít khóc la gì.

Dượng thấy mọi người nói xong thì quay qua chuyện bạch lạp.

– Trưa mai ta cũng đi, tiền bán lần này đây. Nghe dượng nói, dì năm mang túi tiền giao ra, nương đưa An ca đếm. Chuyện mua bán bạch lạp không ngờ êm xuôi như vậy. Trong thời gian này chưa có ai biết cách làm, mình tranh thủ kiếm tiền vốn.

Thấy Mai nháy mắt, nương nói chuyện ‘đặt hàng’ cho cửa tiệm như đã bàn. Hai hôm trước, nương đã dẫn An ca và Mai đến thăm nhà Tiêu Ân thúc, may là thúc ấy có ở nhà. Bé gái hơn sáu tháng tuổi sổ sữa tròn vo, bắp tay thịt săn chắc nhìn thấy cưng. Nương có mang theo hai bộ quần áo nhỏ xíu cho bé.

Tiêu Ân thúc làm mua bán vùng Lũng Kỳ, Cần Vọt chủ yếu là dầu đốt, vải bông, xạ hương và các trang sức bằng gỗ, bạc, đồng. Đôi khi là răng thú, da lông quí giá. Cân nhắc tính toán một hồi, Mai chỉ dám đặt thúc ấy hai loại vải trơn rẻ tiền. Làng Đông Hồ còn nghèo so với các làng lâu đời khác nên mấy món trang sức sẽ ít có người mua.

Vậy nên nhà Mai mua mấy món giống lần trước từ dì dượng.

– Ta thấy mua bán cây giống rất tốt, ta sẽ để ý các loại giống mới xem sao.

Lúc nghe kể chuyện bán cây giống của Tương huynh dượng rất hứng thú, gật đầu nói.

Sáng hôm sau, Mai thấy cha đứng nói chuyện riêng với dượng ở cổng trước. Cha muốn hỏi thăm tin tức mới đang truyền đi. Chắc cha sợ mấy đứa nhỏ trong nhà lo lắng nên mới hỏi riêng. Ha, Mai thấy người quá lo lắng cần trấn an là cha mới đúng. Mấy đứa con trai, kể cả Vinh ca đã lớn, cũng chẳng để tâm chút nào.

Qua ngày rằm cha đã làm xong chiếc ghe nhỏ thứ ba, chuẩn bị đem vào nhà ngoại. Cha dặn dò Vinh ca, Hân ca và thất thúc tiếp tục cưa xẻ gỗ cho ghe lớn, ghe nhỏ; và vẫn có ý chờ Dương ông về nên chần chừ thêm ba ngày nữa.

Lần này Dương ông được mọi người chờ đón từ lúc rẽ vào con rạch vào làng. Ông cũng hơi bất ngờ, kêu mọi người cùng vào nhà. Ông ngồi xuống bộ bàn ghế dài rồi nói ngay.

– Có tin tốt, Tân Quốc Vương có lệnh ban vùng này và miệt trong cho Mạc đại nhân. Không, bây giờ Mạc đại quan cai quản. Hiện giờ đang dựng dinh ở Lũng Kỳ. Trước mắt thuế ruộng đất được miễn ba năm. Sản vật phải nộp hai năm nay thì đợi qua mùa lúa sẽ có lệnh gửi đến.

– Tốt,

– Được rồi.

Nghe tin xong mỗi người một phản ứng, nhẹ nhõm vì kết cục đã định xuống, vui vẻ đươc miễn thuế ruộng đất, lo lắng vì chuyện nộp sản vật còn treo lơ lửng. Đợi tiếng bàn luận giảm xuống, Dương ông nói tiếp:

– Ta có gặp Vãi lần trước đến đây, nói chuyện tìm không được thầy đồ. Vãi hứa sẽ tìm giúp, còn có thể nói giúp chỗ Mạc đại quan nữa, rất nhanh sẽ có tin. Chúng ta cần chuẩn bị chỗ dạy học và nghỉ ngơi cho thầy đồ.

Có người đàn ông trung niên nói:

– Lúa vừa ra lá cụm, mấy ngày này đang dặm. Hay là đợi qua đợt này, Dương thúc chọn chỗ dựng nhà, chúng ta mỗi nhà phụ một tay.

– Phải, phải.

Thấy mọi người đều gật đầu Dương ông không phản đối, ông cũng phải ra thăm ruộng nhà mình. Mấy ngày nay đi mà trong lòng ông lo lắng không thôi. Nhóm người giải tán, về nhà lo việc nhà mình.

Cha kể lại cho cả nhà nghe lúc ăn cơm chiều, nói với nương.

– Sáng mai ta tranh thủ dặm lúa, giờ ngọ thì đi, nàng lo tiếp được không?

– Được, chàng đi đi.

– Ca, còn nhiều người ở nhà mà.

Thất thúc lên tiếng, mấy người ở nhà cũng hô phải. Lúc sạ lúa không đều tay hoặc hạt lúa bị mưa trôi đi, côn trùng ăn mất nên sẽ mọc không đều. Người nông dân sẽ nhổ mạ từ chỗ mọc dày sang cấy vào chỗ mọc thưa. Cả ruộng lúa mới đều, cây lúa phát triển đều, thuận lợi lúc làm đòng, thu hoạch.

Nghe tin về chuyện được miễn giảm thuế ai cũng vui mừng. Mai tự nhẩm trong lòng. Năm rồi mình “lạc” đến đây đúng vào năm 1698 theo dương lịch. Những năm tiếp theo vùng đất này sẽ càng phồn thịnh, mua bán trong vùng rất phát triển. Đặc biệt vị Mạc gia này có tài giao thương, xuất khẩu đi các nước rất tốt. Nhà mình cần chuẩn bị kỹ càng đón cơ hội này.

Haiz, đến lúc đó thì cũng cách mấy năm, vốn liếng tiếng Anh của cô còn được bao nhiêu đây? Học ngoại ngữ là phải ôn luyện mỗi ngày. Cả năm nay cô chỉ lẩm nhẩm trong đầu, quên đi nhiều rồi. Cô lại đang lo học chữ Hán Nôm nữa.(1): 1 công đất ngày xưa = 600m2Chương 106: Đường xa hóa gầnSắp xếp xong việc nhà ba cha con lên đường, cha chèo ghe lớn kéo theo một cái, Bình ca chèo ghe nhỏ cũng kéo theo một cái. Mai phụ nương xếp thức ăn dọc đường cùng mấy món đồ cho Lý thúc và nhà ngoại gồm đủ thứ đồ hái từ trong vườn, đặc sản ở chợ.

– Mùa này trời mưa gió, ba bộ nốp này mặc xong hong khô liền.

– Dạ.

Bộ nốp đi mưa giống như áo mưa ở hiện đại, dài ngang gối. Nốp được đan từ lát nhỏ giữ ấm, bên ngoài là lớp lá dừa che mưa. Bộ nốp này cũng che mưa được nhưng dùng xong phải hong khô, nếu không lớp lát bên trong bị ẩm mốc rất khó chịu.

Cha cũng cột lại phên tre ở mui cho chắc chắn hơn, tránh gặp mưa gió thổi bay đi. Mai quên mất là đi ghe mùa mưa vất vả hơn mùa nắng. Cô còn nhỏ không thể chịu được lạnh quá nên mang thêm một cái chiếu. Cúc tỷ biết ý xếp cái mềnh ngày thường hai chị em đắp theo luôn. May là chỉ ngủ một đêm trên ghe ở chợ Giồng Riềng, mong trời sẽ không mưa.

Cha dặm được gần nửa mẫu mạ mới đi, hơi trễ hơn lần trước nên lúc đến nhà a Sao trời đã tối hẳn. Cha và Bình ca đều là chèo một ghe, kéo theo một ghe không khỏi mất sức, hai cánh tay mỏi nhừ. Trên đường Bình ca còn dùng chân đạp chèo, tư thế rất khiếm nhã. Cô nương nhà người ta mà thấy chắc chạy mất giày mất dép.

Lý thúc và a Sao rất vui vẻ tiếp ba người, thêm củi vào đống lửa giữa sân, nướng cá, thịt khô. Mai vào bếp nấu nồi cơm, luộc trứng vịt và canh tôm khô đu đủ xanh. Cha tắm xong cùng Lý thúc đến nhà Trương bá nói chuyện cái ghe nhỏ. Được một lát thì Trương bá mẫu và a Thảo chạy sang.

– Để ta nấu cho, cháu đi tắm rửa nghỉ mệt một chút.

– Dạ không sao đâu, cũng không mệt gì.

– Được rồi, đi tắm đi. Con gái tắm trễ quá không nên. Ta có đem qua một góc thịt cầy, ướp sả ớt nướng rất ngon.

Mai nghe lời gật đầu rồi chuẩn bị đi tắm. Bé Thảo có vẻ tròn hơn trước một chút, mặt mũi sáng sủa, lanh lẹ xắt đu đủ nấu canh.

Lúc cha về có Trương bá, Trương tam thúc đi cùng, bốn người ngồi vô bàn. Bình ca dọn xong đồ trên ván cũng bị kêu ra ngồi. Mai phụ dọn cơm bàn trên xong thì ngồi cùng Trương bá mẫu và a Thảo ở sạp nhỏ trong bếp. Nghe loáng thoáng tiếng nói chuyện ngoài sân hình như Trương bá và Lý thúc sẽ cùng đi chợ Giồng Riềng với nhà mình. Bá mẫu nghe được nói:

– Ừ, đông người chút mới yên tâm. Dạo này không nghe nói có giặc cướp; nhưng nhà cháu kéo ghe theo làm người ta chú ý.

Đúng rồi, sao mình không nghĩ tới điểm này. Mấy chiếc ghe này là cả gia tài, nếu gặp người có ý xấu thật nguy hiểm. Bên ngoài sân Lê tứ cũng lên tiếng.

– Đệ thật không nghĩ đến an toàn, xém chút nữa gây hại. Nhờ Trương huynh chỉ dẫn nhiều hơn.

– Đệ không cần khách sáo. Ta quen lang bạt khắp nơi, có nhiều kinh nghiệm hơn. Nhà đệ hay qua lại đường này, ta và a tam đệ sẽ để ý cho.

– Phải, đừng quá lo lắng, chúng ta tương trợ nhau là chuyện nên làm.

Trương bá sảng khoái nói. Ông và đệ đệ quen đi lại vùng này và Trấn Giang. Từng vào rừng sâu lên núi thẳm lúc nào cũng phải đề phòng nguy hiểm từ thú dữ hoặc bọn giặc cướp.

– Đa tạ huynh.

Lê tứ thật sự cảm kích chắp tay nói.

– Đệ đã dặn a Tấn và a Vinh ở nhà chuyện huynh đến nhận ghe.

– Được, ta biết.

Đến đây thì trăng đã lên đến đầu ngọn tre, mọi người về ngủ. Một mình Mai nằm trên giường lạ nên trằn trọc khó ngủ. Lần này Mai không nghĩ đến chuyện an toàn trên đường, thật là thiếu sót. Sau này cần chú ý tin tức bên ngoài nhiều hơn, chăm chăm lo việc nhà mình sẽ khó lường được biến cố.

Có thêm Trương bá và cha con Lý thúc làm không khí náo nhiệt hơn. Tính tình Trương bá hào sảng, đúng kiểu hảo hớn tung hoành ngang dọc khiến cha rất nể phục. Ngược lại Truong bá cũng coi trọng sự chất phác, rộng lượng của cha; còn thêm tay nghề đóng ghe xuồng nữa. Nếu để ông tỉ mỉ đẽo gọt như cha chắc ông buồn đến điên luôn!

Mỗi người một tính, hoà hợp tương trợ nhau là quan trọng nhất để vượt qua thử thách, gian lao.

Đầu mùa mưa, khắp nơi như hồi sinh sau những ngày nắng nóng, nước mặn. Trái đước rụng xuống ghim vào dãy đất bồi phù sa từ từ vươn mầm xanh. Trên mảng rừng xanh, từng đàn chim cò lả lướt như múa điệu múa thần tiên, cánh trắng sải rộng loá nắng như mây ở thiên đường.

Âm thanh tiếng sóng vỗ, tiếng chim kêu, gió xào xạc vang mãi không thôi. Còn có tiếng khọt khẹt như mắc xương của đàn khỉ thoắt ẩn thoắt hiện ven bờ.

Thỉnh thoảng có gặp vài chiếc ghe xuôi ngược trên sông; nhiều người quay lại nhìn một đoàn năm chiếc ghe xuôi dòng lạ mắt. Nắng chiều ngã bóng dài che hết mặt sông thì đoàn người đến chợ Rồng Giềng. Hôm nay là chợ phiên, nhưng chợ đã vãn từ sáng. Trên mặt đất vương vãi mấy rổ tre, sọt tre cũ bị vứt đi. Hai đống lửa đã tàn tro và những dấu chân người đan chéo trên nền đất ẩm cho biết buổi chợ sáng nay rất náo nhiệt.

– Hôm trước nghe tin Mạc đại quan trở lại cai quản vùng này nhiều người mừng hớn hở; còn được miễn thuế ba năm nữa.

– Huynh biết vị này không?

– Không, ta chưa từng gặp. Nghe nói cũng xuôi ngược vùng này chục năm trước, quen biết rộng, tính tình rộng rãi phóng khoáng. Thuộc hạ có người rất giỏi võ nghệ. Có lần đυ.ng mặt bọn cướp ngoài kia, đánh bọn chúng chạy miết ra đảo không dám vô lại trong này. Haiz…, mong là lời đồn đúng. Trương bá nói chuyện bừng bừng, dù sao cũng từng trải nên câu cảm thán sau cùng chứa nhiều hy vọng lại cũng có không ít lo lắng. Mấy năm nay tương đối yên bình, nhưng Trương bá không mất đi cảnh giác.

Tuy có mình Mai là con gái, nhưng một phần cô còn nhỏ, một phần cha và Bình ca đều không nỡ để cô làm nhiều nên việc nấu nướng đều do mọi người làm. Hơn nữa nhóm Trương bá, Lý thúc và a Sao đều tận mắt thấy Mai chữa thương nên trong lòng càng nguyện ý thay cô làm việc. Huống chi chuyện ăn uống ngoài trời này họ đều quen làm.

Mai cũng vụиɠ ŧяộʍ nghỉ ngơi, hai ngày liên tục ngồi trên ghe cũng mệt mỏi. Ăn uống ngoài trời lạnh lẽo không khỏi uống rượu cho ấm người. Bình ca theo cha cũng uống được một ít, lạ là a Sao mới mười ba mười bốn cũng uống rượu. Ánh sáng lập loè không thấy rõ gương mặt hắn, chỉ có đôi mắt sáng như sao lạc trần gian lung linh trong đêm.

Đêm qua gió giông chuyển một hồi nhưng không mưa. Cả không gian như tích điện cứ âm âm thật khó chịu. Trương bá nhất quyết đưa nhà Mai đến ngã ba rẽ ra ngã bảy mới quay về. Cha mời đến nhà ngoại thì Trương bá và Lý thúc từ chối, hẹn lần sau sẽ đến thăm hỏi. Nhờ có hai người đi theo mà đường đi vừa an toàn, vừa rôm rả. Mai thích nghe Trương bá kể chuyện Đông Tây. Hóa ra đường về nhà ngoại cũng không cách trở xa xôi nữa.

Cha nhắc hai đứa con.

– Sau này nhớ kỹ ân tình Trương bá, Lý thúc đó.

– Dạ,

– Dạ.

Hai anh em đều gật đầu đáp. Hơn một canh giờ là đến con rạch vào nhà ngoại. Mai ngồi trên đuôi ghe bên này nhìn ngắm những mảng màu xanh đẹp hơn tranh vẽ hai bên bờ. Đoạn rạch này ít có bụi cây lớn nên có thể nhìn thấy đồng ruộng xanh mướt màu mạ non. Chen vào đó là những gò đất cao trồng cây ăn trái xanh rậm rì. Tối qua ở đây mưa nên bầu trời trong vắt.

Cha neo ghe vào cầu nước, cầu này không đủ dài cho bốn chiếc nên Bình ca cập hai ghe nhỏ vào bờ sông chờ.

Mai theo cha vào nhà, gọi a Duyên đang chơi ở sân. Hắn ngẩng đầu, vui vẻ khoanh tay thưa:

– Thưa dượng,

– Ừ,

Cha vào nhà trên gặp ông ngoại, Mai nắm tay a Duyên vào nhà sau.

– Tới rồi à, con tới với ai?

Sau khi thưa hỏi người lớn, Mai trả lời bà ngoại:

– Dạ, tới với cha con và nhị ca, có đem theo ba chiếc ghe mới.

– Vậy à? Đi ra xem.

Nhóm đàn bà con nít nhà sau đi nhanh lên cổng, đã thấy ông ngoại và cha đang nói chuyện:

– Hay là đem ra tiệm luôn đi, đi ta chèo cái này.

Lúc nãy cha đã tháo dây nối mấy chiếc ghe nên ông ngoại đi lên chèo chiếc phía trước. Mợ hai thấy vậy nói với ngoại.

– Để con phụ a Bình chèo ra đó, mấy ngày nay chắc mệt lắm rồi.

– Ừ, vợ a Sinh, con mang đồ trong ghe lên đi.

Dặn xong bà ngoại kéo tay Mai, a Duyên vào nhà; không cho hai đứa đi theo. ‘Từ từ, ngày mai ra xem cũng được’, Mai nghĩ bụng nên cũng đi vào nhà.

– Muội để ta, uống nước rồi ngồi nghỉ đi.

Căn phòng Mai ở là phòng cũ của nương và dì năm, ông bà vẫn giữ lại để hai nhà con rể về có chỗ. Mai định nằm một chút dậy nhưng ngủ quên đến khi gần chạng vạng thì mợ vào gọi dậy.

– Ăn cơm rồi ngủ tiếp, bóng đè không nên.

Biết cha và Bình ca đã mệt. Lại thêm cậu hai, Sinh ca và cả Hữu ca mấy ngày nay lo dọn dẹp bên tiệm mới chạy rã rời hai chân nên bàn ăn nhà trên cũng không nói chuyện nhiều. Ông ngoại dặn mọi người ngủ sớm. Bàn ăn sau nhà dọn chén đũa xong, bà ngoại hỏi thăm chuyện ở Đông Hồ, sạ lúa, nuôi heo. Mai tuần tự kể, còn nói chuyện ba con heo bị muỗi cắn quá trời, sợ tụi nó không lớn nổi.

– Con khéo lo, làm như ngũ cô con là được rồi.Chương 107: Đi chợ Trấn GiangBuổi tối ngủ thật sâu, gà mới gáy đầu canh năm cô đã thức dậy. Mới đầu cô còn mơ hồ không biết mình đang ở đâu, đúng là ngủ đến choáng đầu luôn.

Sáng nay ăn cơm, nhị tẩu để phần mang ra cho Sinh ca ngủ ngoài tiệm ăn. Cha chống ghe chở mọi người ra, chỉ còn mợ hai và nhị tẩu ở lại làm việc nhà. A Duyên tranh thủ cho đàn gà của hắn ăn no bụng mới chạy theo lên ghe.

– Đàn gà này ông bà nội cho riêng ba chúng ta đó. A Mai làm sao bán gà kiếm tiền đây?

Cơ ca kéo tay a Duyên lên ghe, xoay qua hỏi Mai. À, là muốn bắt chước nhà nàng sao!

– Ca, muội chưa rành xung quanh đây. Mấy ngày này lo chuẩn bị mở cửa tiệm trước. Xong rồi muội sẽ nghĩ cách cũng không muộn. Đàn gà còn nhỏ, chưa bán được.

– Được, ta biết.

Nghe Mai nói có lý, hai anh em hắn gật đầu. Đám gà giò này nuôi thêm hai tháng nữa mới được cỡ hơn hai cân, bán mới được giá, đúng là không vội. Nhóm người lớn nghe ba đứa nhỏ nói chuyện không khỏi mỉm cười.

Một khắc sau đã thấy mái nhà lá mới bên cạnh chợ phiên. Cầu ván dài neo bốn chiến ghe, ba mới một cũ nhìn rất ‘hoành tráng’. Nước trên mặt sông mờ mờ trong sương sáng, sóng dập dềnh nhẹ theo gió.

Phía sau có chiếc ghe chèo nhanh tới, người đứng chèo râu đen dài qua cổ lớn tiếng hỏi:

– Nguyễn huynh, chỗ này nhà huynh mở sao? Nghe nói bán ghe xuồng?

– Phải, mấy ngày nữa tốt ngày cúng khai trương, đệ đến uống chén rượu.

– Được, hôm đó ta đến chúc mừng nhà huynh.

– Được, đi đâu sớm vậy? Lúa dặm xong chưa?

– Vừa xong hôm qua. Nhà nhạc phụ ta bị cây ngã đè sập mái nên ta qua phụ sửa lại.

– Là mưa hôm trước? Có ai bị gì không?

– Phải, bên đó giông gió dữ lắm. May là chạy ra ngoài kịp. Không ai bị thương. Ta đi đây.

– Ừ, đi đi.

Thì ra hôm đó mưa lớn dữ vậy, may là không mưa ở chợ Rồng Giềng. Chiếc ghe kia chở hai thiếu niên chắc là con của người này, nhanh chóng lướt lên phía trước, mờ dần trong sương sớm.

Cửa tiệm dựng rất đẹp mắt, sân trước đã quét dọn sạch sẽ, có hàng đá nhỏ rải thành lối đi. Hai bên cổng có mấy cây lá kép giống cây hoa phượng. Gian nhà chính rộng rãi, gọn gàng có bàn dài và hai hàng ghế cũ, đã lên nước bóng loáng. Gian nhà sau có phòng nhỏ làm buồng ngủ và cái bếp hai lò. Kế bên là tủ gỗ để mấy bình đất chắc là trà bánh đãi khách. Ngoài bếp là hàng lu bốn cái mới toanh, cách đó mười bước là chòi nhỏ nhà vệ sinh.

Mai đi quanh nhìn không khỏi mỉm cười, ông ngoại đúng là ‘khỏi chê’, làm việc gì cũng chỉnh chu, cẩn thận. Chẳng trách người trong nhà ai cũng hơi sợ ông, mỗi lần nói chuyện với ông luôn nghiêm cẩn hơn bình thường.

Bà ngoại nấu nước trà, đặt mâm lên bàn dài rồi ngồi vào ván gỗ nhỏ bên phải. Bình ca bước lên châm trà vào chén rồi đứng sau lưng cha. Cậu hai ngoắc Mai đến gần, nhìn ông ngoại một cái rồi nói:

– Nghe dì dượng năm con ghé lại nhắn là con có tính toán chuyện bán ghe rồi. Con nói ông bà ngoại và cậu nghe đi.

– Dạ.

Mai từ từ nói lại mấy ý đã bàn trước đây. Nhà ngoại bán ghe sẽ nhận hai phần nhưng sẽ lo chuyện chở ghe từ Đông Hồ về đây. Cha và Bình ca sẽ ở lại mấy ngày để nói rõ công dụng từng loại ghe, làm gỗ gì, kích thước ra sao. Còn có cả ký hiệu mật nhận dạng ghe do nhà mình đóng.

Thêm một ý khác nữa là cửa tiệm sẽ nhận sửa chữa ghe luôn. Thời gian đầu cha và Bình ca luân phiên ở lại làm, chỉ dẫn nhà ngoại Sinh ca, Hữu ca làm. Mấy tháng sau hai người thành nghề thì thôi. Mai sẽ chỉ dẫn cách ghi sổ sách đơn giản nhất. Nên cô cũng ở lại đây một đoạn thời gian đến khi nhà ngoại tự mình làm được.

Nghe xong mọi người không khỏi trầm mặc. Xem ra chuyện lớn nhỏ gì cũng đã nghĩ trước hết rồi; chuyện cửa tiệm nhận sửa ghe rất tốt. Chỗ này ghe xuồng qua lại thường xuyên. Trước đây muốn sửa ghe phải kéo lên phía trên, gần trấn mới có thợ sửa.

– Hai cha con đi lại như vậy, chuyện đóng ghe ở Đông Hồ tính sao?

Ông ngoại hiểu biết, nghe ra được sự chu toàn của con rể với mình, không thể không lo lắng cho xưởng. – Có mấy đường ca của a Bình vào phụ. Con cũng tìm thuê mấy người trong làng nữa. Vài việc trọng yếu thì con và a Bình sẽ về làm.

Cha nói cho ông nghe tính toán ở xưởng.

– Vậy mấy ngày này tập trung thông thạo mấy loại ghe, con về nhà sớm chút cha mới yên tâm.

– Dạ, cha.

Mai nói nhỏ trong tai cậu mấy câu, cậu hai nhìn bốn đứa con trai một vòng rồi cất tiếng nói:

– Chuyện sửa ghe để a Sinh học trước, ghi ghép văn tự đứa nào muốn học làm?

– Nhà muội là An ca làm, học chữ hơi lâu chút nhưng sau này rất hữu ích. Tiền bạc trong nhà do ca ấy đếm hết.

Mai chen vô mô tả công việc để mấy biểu ca biết rõ hơn.

– Cha, con muốn học.

Là Cơ ca lên tiếng, xem ra tính chuyện bán gà cũng là ca ấy nghĩ đến. Cậu hai nhìn ông bà ngoại, thấy hai người gật đầu mới nói:

– Được, con theo a Mai học đi.

Theo đó, cha và cậu hai đi đặt dụng cụ làm mộc. Không cần nhiều như ở nhà Mai, chỉ vài món hay dùng, đặc biệt là nhựa trét và sơn phủ ghe. Mấy ghe cũ hay bị nhất, là do nước mặn ăn mòn, ghe bị rò nước hoặc con hà ăn làm mặt ngoài thủng lỗ chỗ. Gần như mỗi năm người ta đều phải trét hoặc sơn lại ghe. Đây là công việc không khó làm, mà lại kiếm được tiền.

Mấy đứa nhỏ không về nhà mà đi theo nghe cha nói sự khác nhau của mấy loại ghe. Cái ghe ngày nào cũng xài nhưng cũng chưa nghe ai nói rõ ràng rành mạch như vậy. Ông ngoại không khỏi gật đầu nghe cha nói, đúng là nghề nào cũng cần học hỏi, tìm hiểu.

Sau ngày chợ phiên là ngày tốt nên ông ngoại sẽ cúng khai trương. Bà ngoại và mợ muốn đi chợ ở trấn trên mua ít thịt heo và gia vị. Mai và a Cơ xin đi theo nên khuya dậy sớm, mặc thêm áo.

Trời mưa lất phất, gió thổi trên mặt sông càng thêm lạnh. Mợ hai một mình chèo để ba bà cháu ngồi trong mui tránh gió. Nhìn mợ mặc bộ nốp, đầu đội nón lá, tay chèo xuồng giữa trời khuya mưa giăng lất phất. Mai không khỏi cảm khái nghĩ ‘Người đàn bà thời nào cũng vất vả lo toan cho gia đình, chia sẻ gánh nặng nhưng không chắc được hồi đáp. Được đền đáp thì coi như có phúc, bằng không chỉ tự trách mình bạc phúc!’.

Gần hai canh giờ thì đến chợ. Trấn Giang vốn nổi tiếng sầm uất nhất, ngày thường vẫn có khách nhân đến mua bán. Cửa tiệm hai bên đường lớn rất khang trang. Có tửu lâu hai tầng, tường gạch xây bằng đất nung nhìn rất thuận mắt.

Chỗ đất làm chợ phiên thật lớn, Cơ ca đã đi mấy lần nên không ngó nghiêng như Mai. Ở đây người ta cũng bán trên sạp tre, có người bán nhỏ thì ngồi trên đất. Có cửa tiệm bán vải gai, vải thô, vải bông. Còn mấy người đàn ông râu tóc dài treo túi trên người bán mấy loại thuốc được rao là trị cảm, trị ho cho người già, con nít.

Mới ở đầu chợ đã nghe tiếng rao hàng, tiếng nói chuyện rôm rả dù mưa vẫn còn rớt hạt. Mấy cái nón lá rộng vành cũng che được mưa không len vào cổ áo, thêm nhiều người nên không thấy lạnh nữa.

Bà ngoại đi thẳng đến sạp bán thịt heo, lựa rồi mua miếng thịt ba rọi cỡ hai cân, mua thêm xương sườn, sườn non.

– Hai đứa đi mua ba lít rượu trắng trong kia. A Cơ, dẫn em đi chơi chút về chỗ neo ghe chờ bà nội.

– Dạ, bà nội.

Được bà nội cho đi một vòng, hai đứa nhỏ lấy tiền rồi chạy đi. Càng vô trong sạp bán đồ khô nên sạch sẽ, khang trang hơn. Có sạp bán cá khô, tôm mực khô rất lớn, gấp đôi mấy sạp khác.

– Ở đây có sạp nào bán gà, vịt hay trứng gà trứng vịt gì không?

– Có, hai sạp đằng kia.

Hiểu ý Mai, a Cơ trả lời, chỉ về hướng bên trái. Chợ này còn một phía kia nữa, gần như hình chữ L vậy. Quẹo qua góc là hai dãy sạp nối sạp bán rau tươi, trái cây. Đầu cuối bán gà rừng, gà nhà, gà con và trứng vịt; còn có thịt cầy, chồn, thỏ. Thấy có hai người đàn bà đang hỏi giá, Mai đi lại gần nghe.

Giá thịt này cao hơn ở làng Đông Hồ. Giao thông từ Trấn Biên, Phiên Trấn về dây thuận tiện, lại là vùng có nước ngọt quanh năm. Dân cư giàu có, sung túc hơn nên giá cả hàng hóa cao hơn xung quanh cũng phải. Trương bá cũng mang thịt quý đến đây bán do được giá hơn.Chương 108: Phụng Hiệp (1)Lúc quay trở lại thì ngã ba chợ có đám đông quay thành vòng tròn hứng thú nói cười. Hai đứa nhỏ chen vào xem, là Sơn Đông mãi võ. Gia đình này hơi quen, hình như là ba người biểu diễn ở Chợ Sông Lớn trước Tết. Bé gái vẫn giả trai đứng sau quầy bán hàng. Mấy tháng lang bạt làm da dẻ cô bé sạm đi. Đôi mắt đen hơn, mắt có vẻ to hơn, nhưng đuôi mắt vẫn có nét dịu dàng của nữ tử.

Gọi là Sơn Đông mãi võ vì những nhóm này đa số đến từ tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Họ biểu diễn võ thuật Sơn Đông cho mọi người xem. Sau đó giới thiệu rồi bán mấy loại thuốc gia truyền. Có nhóm còn tự làm bị thương rồi dùng thuốc để bà con tin công hiệu của thuốc. Thỉnh thoảng họ bán thêm mấy món đồ thiết yếu khác, hoặc bán trống, câu đối mấy ngày Tết. Các nhóm không sống cố định, họ lang bạt khắp các nơi.

Đứng xem một lát hai anh em ra về, Cơ ca ghé vào sạp mua rượu gạo. Mai quan sát xung quanh thêm lần nữa, vẫn chưa nghĩ ra cách bán gà vịt. Nhà ngoại có thể chịu vất vả đến đây bán gà vịt như hai sạp kia không? Đi gần hai canh giờ sợ là gà vịt mất sức, không bán được đem về sẽ phải tốn công nuôi mập lần nữa. Người lớn trong nhà còn lo làm ruộng, bán ghe. Việc đi lại này Hữu ca và Cơ ca khó xoay sở, cần kiếm cách khác mới được.

Mai dự dịnh chỉ ở lại nhà ngoại một hai tháng phụ giúp việc bán ghe. Những việc này cô chỉ có thể góp ý, các biểu ca phải tự lực mà làm. Cho nên trên đường về, ngồi trên ghe Mai cố tình diễn giải cho Cơ ca nghe và để bà ngoại, mợ hai cũng nghe.

– Muốn nuôi nhiều gà vịt, cần tìm cách bán ra đều đặn. Làng mình đa số đều có nuôi nên khó bán cho người trong làng. Không giống ở nhà muội trước đây.

Thấy a Cơ hơi rầu, Mai nói tiếp:

– Ca đừng nản. Từ từ nghĩ thêm.

– Ừ,

Miệng nói vậy nhưng hắn vẫn hơi thất vọng. Lần trước nghe thấy chuyện mấy anh em nhà Mai tích góp được tiền riêng, hắn rất thích. Nuôi gà vịt sao, hắn làm được; chỉ là phải có người mua mới được.

Mợ hai vừa chèo ghe vừa nghe hai đứa nói qua lại nãy giờ, cũng lên tiếng.

– Con lo học mặt chữ, tính tiền trước đi. Lỡ sau này bán được mà không biết tính tiền, bị người ta gạt còn không phải đáng lo hơn à.

Ha ha, ba bà cháu đều cười, mợ thiệt là!

Thời gian gần đây nhà Mai lo làm ăn, khấm khá lên làm cha nương và trượng phu vui mừng. Giờ còn giúp bên này mở tiệm bán ghe xuồng, là chuyện lớn. Rồi mấy đứa con trai học theo lo lắng việc nhà. Bà vui mừng nhìn con trai từng bước học hỏi, từ từ rồi hiểu chuyện hơn, sau này cuộc sống sẽ tốt.

A Bình đang tỉ mỉ đυ.c bảng hiệu gỗ theo nét chữ viết bằng mực đen, chữ này là ông ngoại thuê lang y trong cửa tiệm dược ở trấn trên viết. Hắn đυ.c sâu xuống nửa lóng tay rồi sơn màu đỏ lên là thành bảng hiệu đề ‘Phụng Hiệp’.

Đặt tên này vì người dân qua lại gọi ngả bảy sông này là ngả bảy Phụng Hiệp. Ông ngoại nói cũng không biết gọi vậy tự bao giờ. Người truyền người, miệng truyền miệng mà thành tên. Mai thì hớn hở trong bụng, Phụng Hiệp sẽ rất nổi tiếng trong nghề đóng ghe xuồng mấy trăm năm sau. Mình góp chút công, phải không?

Bà ngoại đã may xong phướn đỏ. Ngày mai giờ tốt sẽ kéo phướn, dựng bảng hiệu bắt đầu khai trương mua bán và sửa ghe xuồng.

Ông ngoại và cậu hai đã đi mời khách đến dự. Cha đang chỉ dẫn Sinh ca, Hữu ca làm mộc. Mỗi người đều có việc bận rộn mấy ngày nay. Tinh thần hưng phấn nên mệt nhọc bao nhiêu cũng không quản.

Sáng nay trời sắp mưa, mặt trời bị mây đen che lấp. Ông ngoại nhìn hướng đông vần vũ không lo lắng còn vui vẻ nói:

– Mưa đến giờ tốt là may mắn. Ta ra bên kia chuẩn bị tiếp khách.

– Dạ.

Cậu hai và cha đã ra cửa tiệm trước. Sinh ca và Bình ca đang chuyển thức ăn lên ghe đáp lời ông rồi khẩn trương chạy tới lui. Nhóm đàn bà con gái đều ở trong nhà, nấu nướng xong, dọn dẹp rồi hồi hộp chờ tin tức ngoài cửa tiệm. Dì năm cập ghe vào cầu nước, tươi cười bước lên nói:

– Cúng xong rồi nương, ngoài đó đông khách lắm.

– Vậy à? Con và con rể đến lúc nào? Abbott & Mosley Cream Carrara– Dạ, tụi con đến từ sớm, chờ cha cúng xong mới dẫn khách vào. Có người quen muốn đến xem cái ghe nhỏ, đang thương lượng với cha ngoài đó.

Nghe dì nói bà ngoại và mợ đều vui mừng. Cái này là dượng năm cố ý mời khách đến mở hàng cho tiệm rồi. Lúc nãy mưa không lớn, giờ trời đã hửng sáng. Người ở đây quan niệm mưa là lộc trời. Hàng năm mưa thuận gió hoà thì mùa màng sẽ bội thu; mưa mang đến sự sống cho vạn vật. Sáng nay khai trương có mưa nhỏ là điềm lành, cả nhà và khách nhân đều vui vẻ chúc mừng ông ngoại.

Qua giờ ăn cơm có mấy bà, mấy thím hàng xóm qua nhà chơi, bước vào cửa cũng nói mấy câu chúc mừng. Mọi người ngồi trên bộ ván nhà trên nói chuyện rôm rả, mợ hai và tam tẩu mang mâm trầu cau, bánh mứt ra đãi khách.

Dì năm thấy Mai đi xuống nhà sau cũng đi theo, kéo tay Mai ngồi trên sạp, mang bánh mứt ra ăn nói:

– A Cúc nói con biết làm bún gạo à? Ăn ngon lắm, chỉ dì làm đi.

– Làm bún hơi cực, dì ở trên ghe khó làm lắm. Con chỉ tam tẩu làm sẵn bún, dì chỉ nấu nước lèo thôi. Món này ăn nóng mới ngon.

– Ừ, trên ghe nấu nướng hơi bất tiện, hôm trước xém chút lửa bén sàn ghe. À, mà cửa tiệm mình có sửa ghe, cái này làm được sẽ có tiền đó. Cháu đúng là sáng dạ. Dượng cháu nói đầu óc cháu rất tốt đó. Làm ta được thơm lây.

Dì năm vui vẻ cười nói, ánh mắt long lanh nhìn Mai rất đắc ý. Tối qua trượng phu gặp khách, nghe chuyện nhà mình mở tiệm sửa ghe xuồng ở ngã bảy sông này không khỏi khen ý hay. Trước đây nhà mình bán bạch lạp cho các chùa lớn, nhà phú hộ quanh vùng này cũng khiến nhà chồng coi trọng hơn. Tuy rằng ngày thường mình hi ha không để ý chuyện chưa có con, nhưng gặp họ hàng nhà chồng không khỏi chột dạ. Nhờ chuyện này cũng đỡ mấy phần. Hơn năm nay thuốc thang bồi bổ vẫn không có tin gì, lo lắng cũng giấu trong lòng, phải tìm lang y giỏi mới được.

Thấy dì năm rơi vào trầm tư, Mai không nói tiếp. Trong lòng ai cũng có niềm riêng, người càng vui vẻ bên ngoài càng giấu trong lòng nhiều phiền muộn.

A, bún măng vịt; làng ở đây nhiều nhà, mấy làng bên cạnh cũng không nhỏ. Thay vì đem gà vịt lên trấn bán, nhà mình tự bán cũng được. Ngoài bún măng vịt, còn món gì cần gà vịt nữa? Món gì mà ở nhà người nông dân không thể làm mới bán được.

Đang miên man suy nghĩ, a Duyên và a Cơ chạy ào vào nhà:

– Cô, cháu đói bụng quá.

Dì cười kêu hai đứa ngồi xuống bàn tròn.

– Ngồi đi, cô bới cơm ăn.

Hai đứa nhóc này ham vui ở ngoài tiệm sáng giờ; chắc chưa ăn gì, đói bụng lắm mới chịu về. Hữu ca, Bình ca đi theo phía sau, ôm rổ đựng chén, nồi về.

– Vậy cô dọn cơm cho tụi con ăn luôn. Tiệc mãn rồi sao?

Thêm hai đứa lớn, dọn mâm cơm mới thoả đáng. Mai đứng dậy phụ dì làm. Bình ca đem nồi, chén đặt ở giàn sau bếp, trả lời:

– Vẫn còn vài người quen đang uống rượu. Khách của dượng mua một cái ghe nhỏ đó dì.

Thấy mấy đứa nhỏ về, mợ và tam tẩu vội xuống dọn rửa, nghe vậy không khỏi mỉm miệng cười. Vất vả mấy ngày nay cũng đáng. Mấy đứa con trai vừa ăn cơm vừa kể chuyện ở tiệm, ánh mắt lấp lánh vui vẻ. Trước đây cũng đi xem khai trương trấn trên, cũng không náo nhiệt như nhà mình làm.

Chiều nay cha vội vã về nhà, theo lời cậu hai dặn ghé ngủ đêm tại chợ Bàu Sen, gần sạp bán đồ gốm của bằng hữu cậu. Rời nhà hơn mười ngày cha cũng sốt ruột. Mai nhờ cha về nhà làm thêm cái khuôn đổ bún, khi nào dì dượng ghé thì mang vô nhà ngoại.(1): về địa danh và nghề đóng ghe xuồng ở ngả bảy sông Phụng Hiệp (xưa thuộc Cần Thơ, nay thuộc Hậu Giang), độc giả xem chính sử để hiểu rõ thêm.Chương 109: Tiệm bút nghiên và dược liệuMấy ngày sau có vài khách ghé hỏi giá đóng ghe nhưng vẫn chưa muốn mua. Chỉ có khách ghé sửa ghe thì được ba người. Bình ca cùng cậu hai, Sinh ca làm kiếm được gần hai trăm văn. Tiền không nhiều nhưng khởi đầu vậy đã tốt rồi. Ông ngoại và cậu vẫn ngày ngày thăm ruộng, làm đồng. Cửa tiệm do Sinh ca, Bình ca trông chừng. Đôi khi Hữu ca, Cơ ca và Mai ở cửa tiệm vừa học chữ vừa trông quán để người lớn ra đồng bón phân lúa, cuốc đất trồng khoai.

Ở đây có nhiều thuận lợi hơn Đông Hồ. Trấn trên có bán bút lông ngỗng, cọ tập viết, nghiên mực đầy đủ.

Nghiên mực bằng đá xanh, đẽo gọt trơn láng hình chữ nhật, còn khắc hình cây trúc hoặc hoa mai. Nghiên mực cũng có mấy cỡ, cỡ nhỏ bằng bàn tay, cỡ lớn nhất gần bằng hai gang tay. Mai thích thú ngắm nghía mấy hình chạm khắc trên nghiên. Cây trúc là tượng trưng cho người quân tử, bậc trượng phu. Cây mai tượng trưng cho cốt khí thanh cao của văn nhân mặc khách. Mai đương nhiên không mua, chỉ nhìn xem cho biết vậy thôi. Sau này khi nhà mình khá giả mới tính.

Mực viết cũng có mấy loại, loại tốt thì màu mực rất đẹp, có sắc sáng long lanh, để lâu không bị phai. Có thanh mực nhỏ cỡ ngón tay Hữu ca, hơi mềm, dùng mau hết và giá rẻ. Mai cầm thanh mực suy tính, đợi thêm thời gian mình thuộc nhiều chữ sẽ xin cha nương mua giấy mực, nghiên và bút lông đủ bộ mới được. Cũng không phải muốn luyện chữ thư pháp gì, nhưng cô nên tập viết hẳn hoi để ghi chép các việc quan trọng sau này.

Mấy đứa nhỏ đi một vòng ngó nghiên rồi đi ra. Chủ tiệm là một vị thúc thúc râu dài, mặc một thân quần áo xanh rất nho nhã. Ông thấy mấy đứa nhỏ không mua gì cũng không tức giận, đứng ở cửa sửa sang lại mấy xấp giấy lệch.

Dạo một vòng đường lớn trong trấn, a Cơ chỉ tửu lâu hai tầng phía trước nói:

– Lần trước xem múa lân ở đó.

A Duyên bĩu môi liếc hắn. Lần đó là Tết Nguyên Tiêu bà nội và nương không cho hắn đi, sợ hắn còn nhỏ lạc mất.

Vòng qua chỗ có hàng cây cổ thụ sum xuê là một tiệm dược liệu. Tiệm có hai gian, một gian bên trái bày từng hàng dược liệu; gian bên phải có hai ghế dài cho bệnh nhân ngồi chờ. Một vị lang y ngồi bên trong đang bắt mạch chẩn bệnh. Chỗ này là lần trước ông ngoại đến nhờ viết chữ.

Trấn này cũng chỉ vài người biết chữ. Nghe nói là vị thúc thúc chủ cửa tiệm bút mực viết chữ đẹp nhất, phí viễt chữ cũng cao nhất. Lần trước ông ngoại đến thì cửa tiệm đóng cửa nên đến tìm lang y nhờ giúp.

Mai đột nhiên nhớ đến chuyện tổ ong nên kéo mấy biểu ca đi vào. Thấy mấy đứa nhỏ đi vào, trưởng quầy hơi nhíu mày, bước ra phía trước. Mai không đợi ông hỏi đã chắp tay thưa, rồi nói:

– Nhà cháu có lấy được tổ ong lớn, không biết bá bá có muốn mua không?

– Lớn cỡ nào? Nhiều không?

Ông tưởng mấy đứa nhỏ vào quấy phá, không ngờ muốn là bán mật ong. Pha chế dược liệu cũng dùng mật ong. Đôi khi trong các đơn thuốc bổ dưỡng, kiện thân cũng cần nên ông muốn thử xem.

– Mỗi tổ lớn cũng hơn một cân. Tổ nhỏ nhà cháu để ở nhà bán hàng xóm, chỉ bán tổ lớn.

Ý Mai nóii cho ông biết nhà mình có nhiều, còn biết chọn loại tốt bán ra ngoài.

– Tổ lớn là nữa quan một cân, nhiều sáp quá thì giá rẻ hơn.

Ha, Mai chỉ muốn bán mật, còn sáp dĩ nhiên là nhà mình cần dùng, làm sao bán đi.

– Nhà cháu chỉ lấy mật, sáp ong chỉ thỉnh thoảng mới lấy.

Trưởng quầy thấy lạ, xưa nay người ta bán cả tổ ong. Nhiều người còn hút mật để lại bán riêng, làm gì chỉ bán mật, bé gái này muốn gạt ông sao? Thấy nghi ngờ trên mặt ông, Mai nói thêm: – Nhà cháu có học một chút y thuật, biết là mật ong chế biến thuốc phải dùng loại tốt. Pha trộn là chuyện không đúng, có khi vô tâm lại hại người.

Nghe Mai nhắc nhà mình có biết chút y thuật, trưởng quầy hơi ngạc nhiên. Ông nhìn kỹ lại tiểu cô nương trước mặt. Quần áo sạch sẽ, gương mặt tròn tròn, đôi mắt đen long lanh, nói chuyện rất rành mạch. Lại nhìn ba đứa con trai, không phải nhà rất nghèo, cũng tính đủ ăn đủ mặc. Cả ba đứng phía sau nghe hai người nói chuyện chăm chú, không chạy loạn, động tay động chân.

– Nếu mật loại tốt thì một quan hai một cân. Nhưng ta phải xem trước mới trả đúng tiền.

– Dạ, đương nhiên là vậy. Khi nào bá bá cần?

– Cứ mang đến đây, ngày nào cửa tiệm ta cũng mở đến giờ dậu.

– Đa tạ, cháu sẽ nói cha nương ở nhà biết.

Mai không hẹn ngày mà chỉ nói có mật sẽ mang đến, trưởng quầy cũng gật đầu ưng thuận. Dù sao đi lấy tổ ong không phải dễ, có ngày tìm được, có ngày không.

Lúc ra khỏi cửa tiệm, Mai nhìn quanh để ghi nhớ vị trí tiệm dược liệu này. Phía trước là tửu lâu lớn, còn có mấy cây cổ thụ. Thật ra cửa tiệm có bảng hiệu, nhưng Mai chưa nhận ra mấy chữ này. Cô đương nhiên không hỏi trưởng quầy rồi, từ từ cũng biết tên thôi, không vội.

Lúc lên ghe đi về, Hữu ca ôm bụng cười nói:

– A Mai, nhà mình ai biết y thuật vậy?

– Gì chứ? Là Vĩnh ca đó, học y thuật gần một năm rồi. Muội cũng biết một chút mà.

Mai giương mi, lớn tiếng nói làm ba đứa con trai càng cười dữ hơn. Không phải nói học y thuật hai ba chục năm mới làm được lang y sao? Có người cũng không thể làm lang y mà chỉ đứng bốc thuốc như trưởng quầy đó. A Vĩnh mới học chưa được một năm mà a Mai nói khoa trương quá đi. Ha ha ha.

Nhìn mấy biểu ca cười ngặt nghẽo Mai không khỏi hơi quê, xị mặt không nói nhìn ra hai bên bờ sông.

Từ làng lên Trấn Giang này có mấy ngã, theo sông lớn sẽ nhanh hơn. Lần này chỉ có mấy đứa nhỏ muốn đi chơi nên cậu hai dặn phải đi theo rạch nhỏ phía trong. Con rạch rộng cỡ tám thước, nước không sâu, hai bên bờ là hàng dừa nước, cây bần vươn ra mặt nước.

Có đoạn con rạch cặp sát ruộng lúa. Một bầy cò trắng chân cao hơn cả thân lúa đang chăm chỉ mò tôm bắt cá. Thân cò trắng toát trong nắng, cái cổ dài, mỏ hồng hồng sụt vào nước ruộng, ngẩng lên nhịp nhàng rất ngộ. A Duyên không ngồi yên, bẻ nhành cây bần khua loạn xạ làm bầy cò hết hồn bay vụt lên. Tiếng kêu như đánh động, từng đợt cò trắng bay vυ't lên loang loáng ánh nắng thật sinh động.

– Ca, bụi cây thơm kìa, dừng lại xem có trái chín chưa.

Không kịp đợi Hữu ca tìm chỗ đất khô, a Cơ đã nhanh tay bám lên thân cây bần rồi chuyền vào trong lên bờ. Trên gò đất cao là mấy bụi thơm rất lớn, lá gai tua tủa xung quanh. Tháng này trái thơm bắt đầu chín rồi. Đứa dùng cây đè đầu nhánh gai, đứa bẻ trái cũng không tránh khỏi bị răng cưa trên lá làm xướt da.

‘Lần sau phải mang theo túi lát mới được’ nhìn mấy gò đất gần đó có không ít bụi cây thơm Mai nhủ thầm. Cô rất thích ăn thơm, nấu canh chua cá lóc, xào lòng gà, lòng vịt hay làm mứt thơm đều là món khoái khẩu. Mình làm nước ép thơm mật ong rất tốt cho ông bà ngoại, cho cậu hai nữa.

Gần nửa canh giờ, đi một vòng tìm trái chín, bốn đứa hái được chục mười sáu trái, thảy lên ghe rồi tiếp tục xuôi con rạch về nhà. Nước sắp ròng rồi, gió thổi ngược làm quai nón lá căng lên, cấn vào cổ hơi khó chịu. Mai gỡ nón ra, phơi mặt cho nắng gió giống mấy đứa con trai. Mái tóc cô đã dài gần nửa lưng, được cô thắt thành bím. Gió thổi nhẹ làm những sợi tóc bay bay, mát rượi, còn thoảng mùi vị của nước ngọt, hương mạ non. Cảm giác không gò bó, thật sảng khoái!Chương 110: Tai nạn bất ngờA Bình đang cùng cậu đóng kệ kê trong phòng ở tiệm bằng mấy cây tràm đốn ở ven sông. Hơn nửa tháng nay, Sinh ca ngủ ở tiệm cùng Bình ca. Sau này Bình ca về Đông Hồ thì có Hữu ca thế, vấn đề là không thể để phu thê Sinh ca ngủ riêng vậy được. Hai người thành thân hơn ba tháng không thể tách ra lâu vậy. Nhà ngoại muốn có cháu chắt nữa chứ. Thế nên phòng ngoài tiệm được sửa sang kín đáo hơn, vợ chồng Sinh ca sẽ ngủ đêm ở đó. Hai người cũng không dị nghị gì, mà Mai cảm thấy như vậy càng tốt, có không gian riêng thoải mái hơn.

Bà ngoại còn mua một cặp ngỗng con nuôi thả ngoài tiệm, ngỗng giữ nhà cũng lợi hại lắm. Chó thì chưa xin được, cứ nuôi ngỗng trước. Con người ít khi chịu được đơn độc, luôn muốn xung quanh mình có chó, heo gà vịt. Bằng không cũng cặm cụi trồng rau trồng hoa, không thể rãnh tay chân được.

Nhìn Bình ca chăm chỉ đẽo gọt, bà ngoại hài lòng mỉm cười. Đứa nhỏ này tính tình thật tốt, khéo tay hay làm. Chợt nghĩ nó cũng mười sáu rồi, năm sau tìm mối kết thân là vừa. Nghĩ là nghĩ vậy thôi, bà không tiện nhúng tay vào, cháu ngoại trai nên để bên nhà sui gia lo liệu, phải coi ý tứ nhà bên đó thế nào mới được.

Bà chợt nhớ đến con trai thứ tư vắng số, nếu nó còn thì giờ nhà cũng không đơn bạc như vậy. Có thêm mấy đứa cháu vui cửa vui nhà. Biết đâu có cháu nội gái cũng nên. Vừa nghĩ đến cháu gái thì ghe mấy đứa nhỏ về tới.

– Nương ơi,, chiều nay nấu canh chua thơm ăn đi.

A Duyên xách sợi gai buộc cuống hai trái thơm vào sân sau, nói với mợ hai. Mợ gật đầu

– Được, hái nhiều không?

– Nhiều, ca đang mang lên.

Nhìn con trai út mồ hôi nhễ nhại chạy tới lui xách thơm mợ vui vẻ hỏi chuyện, còn kéo nhóc lại dùng tay áo lau mồ hôi cho hắn. Thấy bà nội đi ra, hắn nhanh nhảu kể chuyện a Mai lúc sáng; còn làm điệu bộ như diễn tuồng làm hai người lớn bật cười.

Cậu hai ở gần đó cũng nghe thấy, lắc đầu nhìn Mai đi xuống. Nắng làm hai má bé gái hơi ửng đỏ, tinh thần thoải mái, vô tư lự.

Cảm giác mấy ánh mắt khác thường, không đợi Mai kịp suy đoán chuyện gì cậu đã lên tiếng:

– Nghe nói sáng nay a Mai nhà ta lừa bán được tổ ong lớn rồi, ăn mừng đi nương.

Ha, Mai buông mấy trái thơm xuống đất, chạy lại nhéo tai a Duyên làm nhóc la oai oái, giãy thoát rồi chạy ra sau lưng bà ngoại.

– Ta đâu có nói lừa, cha tự nói thôi.

– Hứ,

Mai không thèm nghe hắn biện bạch, cứ dí theo, hai đứa nhỏ vòng vèo quanh người lớn đuổi bắt. Nhóc Duyên này khoẻ thiệt, Mai quệt mồ hôi trên trán nói:

– Lần sau bán mật ong sẽ không dẫn a Duyên theo đâu.

Điểm trúng huyệt hắn rồi! Ha ha.

Nhóc nghe vậy nhăn nhó muốn khóc.

– Mai mốt ta không kể nữa, được không?

Mai không thèm liếc hắn, đi vào nhà rót chén nước uống. Lúc đi ra nói với mợ hai:

– Nước trái thơm pha mật ong rất bổ dưỡng, chút nữa con làm cho ông bà ngoại uống.

– Để mợ xẻ lấy mắc ra cho, con làm không khéo đứt tay.

– Dạ, mợ. Lấy cùi ra luôn đó mợ.

Thấy Mai không thèm để ý mình, còn muốn làm nước thơm mật ong, chắc ngon lắm. A Duyên đành tự mình chạy lại gần nói:

– Nè, nhéo đi.

Nhìn hắn đưa lỗ tai lại gần làm Mai không nhịn được, xém chút đã cười ra tiếng. Kéo cái lỗ tai lại gần miệng nói:

– Không được thèo lẻo, nhớ không?

Nhóc gật đầu ừ rồi đi theo nhìn Mai làm nước ép thơm. Lựa trái thơm chín nhất đưa cho mợ hai. Lúc mợ đang xắc bỏ mắc thơm thì Mai lấy bình mật ong, múc vào mỗi chén một muỗng. Ở đây không có vải mùng lọc nên Mai cắt nhỏ miếng thơm, bỏ lõi ruột ở trong, đổ ít nước ấm vào. Cô quậy đều cho thơm ra nước, vớt bỏ xác; nấu nước vừa pha sôi lên hai lượt, tắt bếp đợi nước bớt nóng thì đổ vào chén mật ong. Ngoài hai chén pha riêng cho ông bà, Mai còn làm thêm một bình để cả nhà uống. Chén nước ấm, ngọt ngọt chua chua của thơm, cộng với hương vị thanh của mật ong uống vào rất dễ chịu:

– Cái này thêm mấy lát gừng nữa, hôm nào trời mưa uống sẽ ngon, phòng cảm lạnh nữa.

– Ừ, ngon thiệt. Vài hôm nữa lên xóm trên hái thêm. Trên đó nhiều bụi lớn lắm, chắc sắp chín rồi.

– Ca kiếm cây con nhổ về trồng trong vườn đi, lúc nào muốn uống cũng được.

Mai vẫn thích tự mình trồng, hái ăn sẽ thoải mái hơn. Mình tốn một chút công tưới nước bón phân bù lại không lo lắng, tranh giành.

– Ừ, trồng trong nhà đi, cái này dễ trồng lắm.

Mấy ngày trôi qua rất nhanh, lúa trên ruộng đã cao qua đầu gối, bắt đầu tẻ nhánh rồi. Mấy cơn mưa liên tục làm mặt sông rộng hơn. Mai thấy hơi nhớ nhà rồi. Nhóc Phúc có mập lên nữa không? Bây giờ ao sen chắc đã tàn, đài sen kết hột non, ăn ngọt giòn.

A, không biết mọi người dựng xong chỗ học và nhà ở cho thầy đồ chưa? Tìm được thầy đồ chưa? Cũng may ở đây mỗi ngày đều dạy a Cơ viết chữ, bản thân mình cũng ôn lại; nếu không chắc đã quên không ít rồi.

Ở nhà không ai nhắc nhở, a An, a Vĩnh có chịu học thêm chữ mới không đây?

Mưa lớn nữa rồi, nước mưa văng lên làm ướt đất ở hiên trước cửa tiệm. Mấy đám lát ven sông oằn mình theo gió, mặt sông dần trắng xoá. Sinh ca thấy mưa lớn vội lấy cuốc đào mấy rãnh đất dẫn nước chảy xuống sông. Sau đó ca ấy không vào nhà mà đi men bờ sông bắt cua. Trời mưa mát mẻ là lúc cua hay bò ra miệng hang nhất, canh lúc nay mà chận miệng hang chụp nó là xong.

Sinh ca lom khom nhìn bờ sông tìm hang cua, Mai đưa mắt nhìn ra giữa sông mờ mịt nước.

“Hình như có ghe đang ở giữa dòng, mưa lớn vầy mà qua sông làm gì?” Thoáng bóng dáng đen đen làm Mai giật mình, nhìn kỹ lại; ‘đúng là có ghe’.

– Ca, nhìn kìa.

Mai la lớn, ngoắc tay nhưng Sinh ca không nghe, không thấy. Hữu ca và a Cơ trong nhà vội vã chạy ra. Thấy Mai chạy vội ra sân, hai đứa cũng chạy ra theo. Lúc đến gần Sinh ca, Mai gọi lớn, tay chỉ về hướng đó.

Chiếc ghe đó chưa chìm hẳn mà còn chòng chành tiến về bên này. Sinh ca quăng mạnh cái đυ.c lên giữa sân, nhảy ào xuống, lội về hướng chiếc ghe. Hữu ca và a Cơ định nhảy theo, Mai kéo lại nói:

– Không được, ca chạy về nhà báo ông ngoại và cậu. Nhanh.

Vừa nói, Mai vừa tháo dây neo buộc chiếc ghe nhỏ, đẩy hai anh em lên ghe. Giữa dòng sông sâu, a Hữu còn không chắc chống được nói gì đến a Cơ. Hai đứa con trai cũng liệu sức mình, vội chống ghe nhanh về nhà.

Mai lo lắng nhìn bóng Sinh ca dưới dòng nước, trời mưa lạnh mà lưng cô ra mồ hôi từng dòng; tim đập nhanh ầm ầm trong tai. Chợt nhớ phía trước chợ phiên hay có ghe thương lái neo lại chờ con nước. Cô chạy nhanh trên đường đất lầy lội về phía trước, nước mưa chảy trên mắt không mở được, cô vẫn cứ chạy.

May quá, có ghe neo lại, tiếng chân chạy trên cầu ván làm chiếc ghe hơi lắc, một bóng người trên ghe ló ra. Mai nói từng câu ngắn, chỉ về hướng giữa sông.

– Lấy ghe nhà cháu, ghe mới nhẹ hơn.

Ghe thương lái lúc nào cũng chở khẳm đồ hàng, làm sao ra đó kịp, nghe Mai nói hai người vội chạy nhanh đi trước. Lúc Mai đến chỗ neo ghe nhà mình thì thấy hai vị thúc bá ấy đã chèo ra được một đoạn. Tầm mắt Mai không thấy được Sinh ca hay chiếc ghe kia nữa. Mưa nặng hạt, gió mạnh hơn, nước sông cuồn cuộn.

Đã qua bao lâu rồi? Một khắc? Nửa canh giờ? Vẫn chưa thấy cậu hai ra, mà hướng Sinh ca cũng không có ai! Không cần tự nhát mình. Sinh ca rất khoẻ, lại sống ở đây hiểu rõ con sông này, ca ấy sẽ qua được.

Rốt cuộc cậu hai và Bình ca đến, Mai kể lại rất nhanh tình hình.

– Con vào nhà đi, ông ngoại đến ngay.

Nói rồi cậu chèo nhanh theo hướng Mai chỉ. Lát sau, ông ngoại chở Hữu ca và bà ngoại đến. Bà kéo Mai vào nhà, lấy quần áo mang theo ra cho cô thay. Bà nấu nước nóng pha bình trà gừng để sẵn trên bếp. Ông ngoại và Hữu ca đội nón lá, mặc nốp đứng trên cầu ván quan sát.

Lúc bà ngoại biết có thêm hai người đi trước cậu hai thì có vẻ yên tâm hơn. Bà đi quanh dọn dẹp trong tiệm, xếp lại mấy bảng gỗ học chữ trên bàn. Đốt nén nhang trên trang thờ rồi ngó chừng bếp lửa.Chương 111: Thuận lợiLúc nén nhang tàn thì có tiếng nói bên ngoài, hai bà cháu bước vội ra hiên. Một nhóm người dìu nhau trước sau đi vào. Thấy Sinh ca đi phía sau cùng nói chuyện với ông nội Mai nhẹ nhàng thở ra.

Nhóm đàn ông quần áo ướt nhem đi vào, bà ngoại kéo Mai xuống bếp trông bếp lửa. Hữu ca lên xuống lấy nước trà gừng cho từng người. Hai vị thúc bá uống chén nước ấm bụng rồi đứng dậy đi về, họ về lại ghe, vừa thay quần áo vừa cho hai người khách mượn đồ của mình mặc đỡ.

Ngồi trong bếp, Mai nghe loáng thoáng câu chuyện. Hai người là bằng hữu, có việc đi ngang khúc sông này trưa nay. Không may trời đổ mưa lớn, nước cuốn theo mấy cây bị trốc gốc, ghe họ không tránh kịp còn bị cuốn theo dòng. Họ tìm cách thoát ra khỏi vòng xoáy thì một cái chèo vướng theo nhánh cây trôi đi. Một người không chống nổi dòng nước nên bị trôi theo một đoạn từ Trấn Giang về đến đây.

Giữa mặt sông dòng xoáy nước dãn ra, tưởng là thoát được nào ngờ ghe xoay ngang, nghiêng thành bị nước nhấn chìm hơn nửa. Mưa to gió lớn làm họ mất định hướng, ghe chòng chành sắp chìm. Lúc muốn thoát ra lội vào bờ thì người lớn tuổi hơn vì đuối sức sau mấy giờ liền, bị vộp bẻ chân không lội được. Người trẻ tuổi cương quyết không buông tay, mà sức hắn cũng đã cạn không thể dìu được người kia vào bờ.

Mưa gió như vầy, đâu có ghe xuồng nào ở gần mà kêu cứu. Lúc họ gần như tuyệt vọng thì Sinh ca đến, ca ấy dìu người lớn tuổi bám vào thành ghe. Một mình Sinh ca cũng không thể dìu cả hai. Người trẻ tuổi còn sức chống chọi nên nhờ Sinh ca đưa người lớn tuổi vào bờ trước. Mình sẽ chờ ghe nhà Mai ra cứu.

Tiếp đó có ghe hai thương lái, rồi cậu hai và Bình ca ra tới. Người đã cứu lên ghe, họ còn muốn vớt một số đồ quí giá của người bị nạn trước khi ghe chìm hẳn nên quay vào bờ chậm. Trong nhà nói chuyện, ngoài nhà đã ngớt mưa. Thấy mọi việc đã ổn, bà ngoại, Mai, Bình ca và Hữu ca về nhà. Bây giờ người ở nhà đang nóng lòng trông đợi.

Chiều hôm đó, nhà có thêm bốn người khách dùng cơm. Bà ngoại nấu canh gà cho nhiều gừng để trừ hàn, giải lãnh. Gương mặt người bị nạn lớn tuổi – xưng là Đoàn Bằng – xanh xao, vàng vọt.

Mai cảm thấy nghi ngờ lời họ nói, kiệt sức sau mấy giờ chống dòng xoáy cũng không thể xuống sắc như vậy, tại sao muốn giấu chuyện mình có bệnh? Mà cũng không thể la lên “tôi có bệnh” phải không! Mai lắc đầu cho qua chuyện này.

Ăn cơm xong, hai người bị nạn đứng dậy chắp tay tạ ơn ông ngoại đã cứu nguy, xin được đền ơn.

– Không cần đâu, cứu người lúc nguy khốn là chuyện nên làm. Nhà ta chỉ ra chút công sức, không thể nhận trả ơn. Thật ra cảm ơn hai vị huynh đệ này mới đúng.

Ông ngoại thoái thác công lao nhà mình, chuyển sang hai thúc bá kia:

– Ha ha, chúng ta chỉ ra chút công thôi. Như Nguyễn thúc nói, chuyện nên làm.

– Phải, hai vị cứ nghỉ ngơi lại sức, rồi xem tính toán hành trình của mình như thế nào.

Thấy hai bên đều cương quyết, hai người khách không nhắc đến nữa, ngồi nói chuyện một lát thì cáo từ. Tối nay cậu hai ra tiệm ngủ và trò chuyện cùng hai người khách. Họ xin ngủ lại một đêm ở bộ ván trong quán; ngày mai sẽ lên trấn thu xếp công việc.

Qua giờ Hợi mà Mai chưa ngủ được, cơ thể rất mệt mỏi nhưng tinh thần vẫn căng thẳng. Lăn qua lăn lại trên giường đến lúc trời khuya lắm mới chợp mắt ngủ được. Mơ mơ màng màng cô thấy trước mắt là màn mưa trắng xoá, nước cuồn cuộn dâng lên, lạnh buốt da, thấm vào tận xương. Mai giật mình tỉnh giấc, ngoài trời đang mưa, cái mềnh vải mỏng rơi xuống đất tự bao giờ. Cô lồm cồm bò dậy, lấy mềnh lên, cuộn người lại cho ấm hơn. Tiếng mưa lộp độp trên mái lá đều đều ru cô chìm vào giấc ngủ muộn.

Sáng hôm sau theo thói quen thức dậy nhưng cổ họng nóng khan, đầu lâng lâng; ‘không được bệnh’ MaiI nhủ thầm. Bà ngoại thấy Mai nhăn mày, nét mặt liu xiu vội kêu Hữu ca bắt con gà nấu cháo gừng cho Mai ăn tiếp. Mai ráng tự pha chén nước mật ong gừng uống.

– Vô giường nằm ngủ tiếp đi con, cháo chín ngoại kêu dậy. Hôm qua dầm mưa chắc cảm rồi.

Ngoại sờ trán cô không thấy nóng, mới chớm bệnh, mong là ăn cháo gà sẽ hết. Nhờ chén nước Mai thấy bụng ấm hơn, nằm xuống là ngủ ngay. Tỉnh tỉnh mê mê ăn thêm chén cháo nóng, lần này ngủ sâu gần hai canh giờ.

‘Rốt cuộc vượt qua cơn cảm lạnh’, ngủ dậy cảm thấy tinh thần sảng khoái, Mai nghĩ. Đã qua giữa trưa, trong nhà còn bà ngoại ngồi đan lát, người lớn chắc ra đồng hoặc đi cửa tiệm rồi. Thấy Mai bước ra, ngoại hỏi:

– Khoẻ chưa? Ăn thêm chén cháo nữa đi.

Vừa nói bà vừa đứng dậy, Mai vội ra sóng chén nói:

– Ngoại, con tự múc cháo được. Con khoẻ rồi.

– Ừ, con gái không được để lạnh. Sau này nhớ nghe chưa?

– Dạ.

Từ ngày ở đây, Mai rất chú ý dinh dưỡng, ăn uống đủ chất, còn đi bộ mỗi ngày nên so với ở hiện đại lúc chín tuổi Mai khoẻ mạnh hơn nhiều. Có lẽ hôm qua lo sợ quá, dầm mưa lạnh nên cơ thể yếu ớt; phải chú ý chuyện này hơn.

Đang ngồi ăn cháo thì Cơ ca chạy vào nói:

– Bà nội, mò được rồi, hai rương đồ lớn.

Mai không hiểu là rương đồ gì thì Cơ ca hăm hở nói tiếp.

– Trả tiền mỗi người lặn mò một trăm văn đó nội, thưởng Trần thúc với Trung huynh thêm năm mươi văn nữa.

Giống như ca ấy được cho tiền vậy, mắt sáng rỡ. Lúc ăn cơm chiều Mai mới biết chuyện xảy ra. Sáng nay hai người gặp nạn hôm qua không vội lên trấn trên mà nhờ người lặn mò mấy rương đồ bị chìm hôm qua. Biết có tiền công nên mấy thúc bá lặn giỏi trong làng đều xung phong lặn tìm. Quả thật tìm được hai rương lớn, còn lôi cái ghe bị lật úp lên nữa. Nhưng chiếc ghe bị nứt ván đáy, một bên mũi ghe cũng hư.

Hai người trả tiền công cho nhóm người mò xong thì quyết định mua ghe lớn nhà ngoại, để lại ghe cũ Sinh ca, Bình ca sửa chữa. Họ hẹn hơn tháng sau sẽ đến nhận, còn trả trước tiền công. Tính ra nhà ngoại ‘trúng mánh’ rồi; hơn nửa tháng khai trương đã bán được hai chiếc ghe, sửa chữa ghe cho khách qua lại nữa. Chuyện mở tiệm bán ghe ngay ngả bảy Phụng Hiệp đúng là thuận lợi hơn dự đoán. Ông ngoại và cậu không khỏi nhìn cháu gái nhỏ thêm mấy lượt. Con bé đúng là sang dạ, linh mẫn. Chuyện này người trong nhà biết là được, không nên đồn đãi ra ngoài. Bữa cơm chiều cả nhà đều vui vẻ.

– Cha thấy ghe họ dùng nhìn khác chúng ta, chắc do miền ngoài đóng.

Buổi tối cả nhà ngồi nói chuyện ông ngoại lên tiếng. Miền ngoài là cách người ở đây gọi vùng từ Trấn Biên ra Chánh Dinh. Cậu hai gật đầu:

– Con cũng nghĩ vậy, gỗ dày được ngâm kỹ, nặng lắm. Cái này đi biển cũng được. Cháu sửa được không?

Câu sau là cậu đang hỏi Bình ca.

– Cháu thấy gỗ dày hơn loại mình có. Chắc phải tìm mua.

– Ừ, vậy con đi xưởng trấn trên hỏi, tranh thủ tìm nhanh chút.

Ông ngoại nghe Bình ca nói, quay sang dặn cậu. Dù sao đã nhận tiền và hẹn người ta rồi, phải làm cho kịp.

Cậu hai cùng Bình ca mang theo mẫu ván đi xưởng trên tìm, quả thật là gỗ quý. Cậu chỉ mua đúng mấy miếng cần thay cho khách. Lúc Mai đang ở cửa tiệm nhìn loại gỗ mới thì nghe có tiếng ghe cập vào cầu ván. Ra cửa nhìn thì Mai vui vẻ gọi:

– Thúc, sao đến đây? Đi với ai vậy?

Phía sau thất thúc không có ai. Không thể nào, thúc chưa đến đây bao giờ, làm sao biết đường; không đợi Mai đoán mò, thúc đã cười nói:

– Có mấy người nữa theo ghe dì dượng cháu vào nhà ngoại trước rồi, ta đem ghe mới này vô đây luôn.

A, có người nhà theo, không biết là ai; gần tháng rồi cũng nhớ mọi người. Vào trong sân có mái che đang sửa ghe, mọi người chào hỏi nhau xong thất thúc theo làm luôn. Theo cha làm đóng ghe gần năm nay, thất thúc cũng đã thành thục rồi.

Mai muốn chạy về nhà ngoại xem ai đến nhưng cô không chèo nổi ghe lớn của cậu, hai ghe nhỏ mới để bán nên không dùng được. Cô đành phải chờ lúc nghỉ ngơi nhờ Bình ca đưa về. Chỉ hơn một khắc sau, sân trước đã nghe tiếng chân bịch bịch chạy vào.

– Lục tỷ, tỷ ơi.

Ha ha, là a Phúc đến, người chưa thấy đã nghe tiếng rồi!

Mai không khỏi mỉm cười đi ra, có a Phúc, Vĩnh ca và nương. Ba đứa nhỏ quấn thành một chùm, nương cười vuốt tóc Mai hỏi:

– Bà ngoại nói hôm trước con cảm, đã hết chưa?

– Dạ, hết rồi nương.

Trong rổ nương ôm theo có đu đủ chín và nước thơm ép. Nương hỏi thăm cậu hai mấy câu rồi vào bếp nhóm lửa làm nước thơm mật ong. Mỗi ngày tam tẩu đều nấu bình nước nóng ủ trong vỏ dừa khô để sẵn, vừa tiếp khách vừa để mọi người uống. Có khi tẩu ấy còn chặt sẵn mấy trái dừa để trên kệ nữa. Cây nhà, lá vườn, tốn chút công chăm sóc không sợ thiếu ăn, khát uống.

A Phúc chạy lăng xăng thám thính, nhìn ngó xung quanh, miệng hỏi đủ thứ.

– Ca xin lang y nghỉ học hả?

– Sư phụ đi Lũng kỳ, hơn mười ngày mới về. Ta xin nghỉ vô đây.

Lâu ngày gặp lại, Mai rù rì nói chuyện với a Vĩnh, hỏi thăm mấy chuyện trong nhà, trong làng.

– Tháng tám sẽ có thầy đồ đến làng mình đó. Đầu tháng chín sẽ mở lớp dạy.

– Vậy hả? Tốt quá.

Thật ra, dù có thầy đồ thì Mai cũng không được đi học như mấy đứa con trai. Thời này chỉ có tiểu thơ nhà quan lại mới được học ít chữ, mà cũng do nữ quan dạy tại nhà. Chuyện con gái đến trường học với thầy đồ là chưa từng có. Bất công như vậy nên Mai đã nghĩ ra cách khác để theo học chữ, chắc chắn không thể mù chữ được.

Nương pha nước xong, nấu thêm ấm nước nữa thì đứng dậy đi về, Mai theo nương về nhà trong. Nhà ngoại vẫn ra đồng chăm sóc lúa ruộng, tưới nước cho khoai đậu, vườn cây ăn trái nên chỉ có bà ngoại ở nhà lo bếp núc, nương và Mai cũng nên về phụ lo cơm chiều.Chương 112: Bán mật ongDì dượng năm không ở lại mà đã lên ghe đi buôn bán. Ông ngoại dặn đốt đống lửa lớn trong sân, hai bàn cơm đặt gần nhau. Ở đây làng xóm lâu đời, cuộc sống khá hơn ở Đông Hồ, nhiều nhà dùng đèn dầu ăn cơm, may vá. Ít có nhà tụ tập quanh đống lửa lớn, nướng thức ăn ngay trên lửa như ở các làng mới.

Trăng tròn treo lơ lửng trên ngọn tre, tiếng chim tu hú kêu xa xa. A Phúc lắng tai nghe hỏi nương:

– Chim gì kêu vậy nương? ở nhà mình không có.

– Ừ, chim tu hú.

Bà ngoại ăn cơm xong, đang ngồi nhai trầu, đưa tay ngoắc a Phúc. Hắn bưng chén canh húp hết rồi chạy lại ngồi kế bà.

– Cháu nghe tiếng nó kêu không? Tu …. hu…hú.

Thấy a Phúc lắng nghe tiếng chim xa xa, bà ăn thêm miếng cau rồi kể chuyện sự tích con tu hú. Mai ăn cơm xong cũng ngồi gần nghe bà kể. Hơi khác chút so với truyện ở hiện đại.

– Sau này làm chuyện gì cũng cần sự kiên nhẫn, ông bà có câu ‘dục tốc bất đạt’ nhớ nghe.

Mấy đứa nhỏ cái hiểu cái không gật gật đầu. A Duyên chắc đã nghe mấy lần rồi, không chăm chú như a Phúc mà nghĩ nghĩ rồi nói:

– Ông sư đó nghe hiểu tiếng chim nên bị biến thành chim. Sau này cháu chỉ học tiếng người thôi, chắc chỉ làm người.

Ha ha, thì ra hắn nghĩ lâu vậy là nghĩ chuyện này.

Từ đầu năm đến giờ nương về nhà ngoại hai lần, làm ông bà ngoại rất vui vẻ. Sáng sớm nương dậy cùng bà ngoại vo gạo nấu cơm, giống như mười mấy năm trước con gái còn ở chung, hai người nhỏ giọng nói chuyện nhà. Nhìn cảnh ấy, Mai không khỏi xúc động, trong mắt cha mẹ con cái luôn còn nhỏ dại.

Mấy đứa nhỏ vừa ăn sáng, vừa nói chuyện sôi nổi. Hôm nay là chợ phiên trấn trên, mấy đứa sẽ đi bán tổ ong do nương mang đến xong thì được đi chơi vòng quanh trấn luôn. Thất thúc, a Vĩnh và a Phúc là lần đầu tiên đi nên rất háo hức. Hai đứa nhóc cứ thì thầm nói chuyện, a Duyên khoa tay múa chân kể đủ chuyện trên trấn mà hắn biết cho a Phúc.

– Ăn no mới được đi,

– Dạ.

Bà ngoại ‘dằn’ làm mấy đứa nhỏ ráng ăn hết cơm, đồ ăn trên bàn. Mợ hai và nương đang coi lại mấy tổ ong, xếp vô giỏ đệm từng cặp bình đất.

– A Mai thiệt hay, đi một chuyến lên trấn đã kiếm mối bán rồi. Người lớn chúng ta đi tới lui bao nhiêu bận mà đâu có nghĩ ra.

Mợ hai vui vẻ nói, còn kể chuyện Mai ba hoa với chưởng quầy dược liệu nữa. Nương liếc Mai nói:

– Cũng không biết giống ai!

Lúc dì dượng năm xuống Đông Hồ nhận đèn cầy, Mai đã nhắn mang mấy tổ ong lớn, ngon lên bán làm cha nương ngạc nhiên. Đúng là không nghĩ ra Mai tìm người mua nhanh vậy. Dì dượng năm cũng cười nói không biết sao mình không nghĩ bán cho tiệm dược liệu chứ, không nhanh nhạy nữa rồi!

Chiếc ghe chở tám chín đứa nhỏ, mấy giỏ đệm mật ong, còn hai rổ đựng bình nước, khoai, cơm, cá khô mang theo. Cậu hai nhét vô tay Mai mấy văn tiền; nương cũng đưa túi tiền cho thất thúc dặn dò. Có thức ăn, được mang theo tiền, được đi chơi cả ngày hôm nay làm đứa nào cũng háo hức.

Thất thúc, Hữu ca và Bình ca thay phiên nhau chèo ghe lên trấn. Mặt trời sắp lên rồi. Giờ đến chợ phiên thì cũng gần vãn, nhưng mà tụi nhỏ cũng thấy không sao. Vốn chỉ đi xem chợ cho biết, không cần mua đồ gì nên đi trễ không sao. Cái chính là được đi vòng vòng trong trấn, nhìn mấy cửa tiệm lớn, nhà ngói đỏ ngói xanh của phú hộ.

– Lần trước ta còn thấy xe ngựa nữa đó. Con ngựa lông đen huyền, cao lớn.

Nghe Hữu ca nói, mấy đứa càng ngóng nhìn về phía trước, mong mau đến trấn. Nắng sớm xuyên qua màn sương tạo ra đủ sắc màu. Mấy con chim dậy sớm nhảy nhót trên cây tìm thức ăn, ríu rít nói chuyện cùng nhau.

Đúng là chợ phiên sắp vãn rồi, chỉ còn vài người khách mua vội đồ. Bến ghe còn gần chục chiếc đang neo. Mai trả hai văn cho lão ông trên bến.

– Nhà con đi bán đồ, xế mới về lấy ghe được không?

Lão ông nhìn một đám đứa nhỏ đang xách mấy giỏ đệm gật gật nói:

– Được, nhà ta ở kia, xế đến đó lấy ghe.

– Dạ, đa tạ ông.

Đi một vòng xem chợ, rồi rẽ vào đường lớn trong trấn. Hai bên đường là những ngôi nhà tương gạch, mái ngói khang trang. Có nhà sân lớn cổng vào là hai trụ gạch xây lớn, bảng hiệu sơn xanh, sơn đỏ. Theo con đường lần trước, vòng qua ngã này là đến cửa tiệm dược liệu.

Bên này vẫn còn ba người chờ khám bệnh. Mai bước vào trong chào chưởng quầy. Ông ngẩng đầu thấy một đám lố nhố con nít hơi giật mình, nhìn thấy tiểu cô nương lần trước dẫn đầu đang cười giải thích:

– Hôm nay chợ phiên, ông bà cho phép tụi cháu lên chợ chơi. Cháu cũng mang theo tổ ong, bá bá xem đi. Nghe Mai nói thất thúc và Bình ca để bốn giỏ đệm xuống, lấy từng bình đất ra, mở nắp cho chưởng quầy xem. Ông ấy lấy cây đũa gỗ từ trong quầy ra thử mật ong từng bình. Đúng là mật tốt, lấy từ rừng trong kia, hương vị không sai. Ông không khỏi nhìn kỹ lại mấy đứa nhỏ, quần áo tươm tất, không mới không cũ. Trong rổ có mấy thức ăn mang theo; đúng lời tiểu cô nương này nói là đi lên trấn này chơi; đồ ăn để dành ăn dọc đường. Gia cảnh chắc không tệ nhưng không phải nhà phú quý, nhưng dám giao chuyện mua bán lớn này cho mấy đứa nhỏ, cũng thiệt là lạ.

Tám bình mật này bán được tám quan, là số tiền lớn đối với nhà thường dân nên chưởng quầy ngạc nhiên cũng đúng. Ông nghĩ là vậy nhưng không trì hoãn, vào trong mang tiền ra. Từng xâu tiền được Mai đếm cẩn thận, mỗi xâu một trăm tám mươi văn là nửa quan, ba quan cũng mất gần một khắc mới đếm xong và một đỉnh bạc là năm quan.

Cất xong tiền Mai cảm ơn rồi hỏi.

– Bá còn muốn mua nữa không?

– Còn, có loại tốt giống này thì mang đến cho ta.

– Dạ được, nhất định.

Hẹn thời gian hơn tháng nữa mang thêm xong, Mai và mấy đứa nhỏ chào rồi đi ra. Lúc đi khuất khỏi tiệm, mấy đứa đều vui mừng hớn hở, a Cơ hít hà nói:

– Muội hay thiệt, đếm tiền nhanh như vậy.

– Phải đó, nếu là đệ, đệ không đếm được.

Hữu ca cốc đầu a Duyên nói:

– Còn không biết ráng học.

Thất thúc đưa tay lên miệng suỵt, ra dấu nói nhỏ thôi. Dù sao đang ở trên đường, không thể lớn tiếng cho người khác biết tụi nó đang giữ nhiều tiền. Mai chỉ quán nước gần đó nói:

– Khát nước chưa, ghé đó ngồi chút đi.

– Ừ, đi đi.

Quán nước là mấy cái bàn ghế gỗ cũ đặt dưới bóng hai cây cổ thụ rậm rạp xanh mát. Cách một khoảng là cổng vào ngôi nhà nhỏ. Thấy có khách vào, một thiếu niên cỡ tuổi Hữu ca từ trong nhà đi ra hỏi:

– Huynh đệ uống gì?

– À, huynh bán cái gì?

Hữu ca nhìn nhìn quầy bên trong hỏi, đúng là không biết quán này bán gì. Phía ngoài có hai quài dừa; trên quầy là một rổ trái cam, quýt.

– Ở đây ta có nước trà nóng, nước dừa tươi, rượu gạo, rượu nếp, chè đậu xanh; còn có trầu cau tiêm sẵn.

Nghe thiếu niên kể một loạt cũng đa dạng, mấy đứa nhỏ uống nước dừa và chè đậu xanh; còn trà rượu gì đó bỏ qua đi.

– Rổ cam quýt này cũng bán hả?

– Ừ, năm văn một chục, nhà ta trồng đó, rất ngọt.

Thất thúc nhìn rổ cam quýt hơi lạ nên hỏi. Mấy loại trái cây này ở Đông Hồ chưa có ai trồng; ở đây thì có nhà trồng rồi. Cơ ca kéo tay áo thất thúc nháy mắt ra hiệu. Đợi thiếu niên vào trong nhà múc chè, Cơ ca nói:

– Gần nhà mình có trồng, về nhà đi ta đi xin cho thúc ăn, không cần mua.

Nhà ông bà ngoại có vườn trái cây, thất thúc mới đến hôm qua nên chưa kịp đi xem, nghe vậy gật đầu. Nếu nhà mình có thì đương nhiên không cần tốn tiền mua.

Trên đường thường có người qua lại, lúc nãy có chiếc xe bò đi ngang; nhưng mà tụi nhỏ đang trông mong thấy xe ngựa. Ngồi quán ven đường nghỉ chân, uống nước, ăn chè còn nhìn người qua lại cũng vui. Mai mang gói khoai, mực khô ra nhấm nháp.

Trời trưa rồi, tửu quán bên kia bắt đầu có khách, mấy đứa nhỏ nhìn hâm mộ. Người đến tửu quán ăn uống đều là người khá giả, xa nhà làm ăn hoặc công chuyện gì đó; là tầng lớp rất xa lạ với tụi nhỏ. Như Tương huynh đi chành hay dì dượng năm buôn bán cũng không ghé vào tửu quán ăn mà tự nấu nướng trên ghe hoặc ghé vào bãi đất trống nào đó nấu nướng thức ăn, nghỉ đêm. Cho nên nhìn thấy nhóm người ra vào tửu quán ăn mặc sang trọng, quần áo khăn đầu đủ màu nhìn vui mắt, đẹp ý.

– A Bình, phải hai người hôm trước không?

Nghe Hữu ca gọi, mấy đứa quay qua nhìn trước cửa tiệm dược liệu. Hai người đang đi vào chính là Đoàn Bằng bá và nghĩa đệ Hồ Lung gặp nạn chìm xuồng hôm trước. Hai người họ chưa rời khỏi trấn, chắc lưu lại trị bệnh cho Đoàn bá rồi.

Hôm trước nghe cậu hai nói riêng với ông ngoại chuyện tối hôm tai nạn. Đoàn bá tối đó ho rất dữ, cậu hai từ giường trong đi ra thì thấy Hồ thúc đang cho bá ấy uống thuốc, là thuốc viên từ trong bình sứ trắng nhỏ. Thêm việc hai người rất hào phóng trả tiền cho thợ lặn mò rương đồ, cậu và ông đều đoán hai người không phải là thương lái bình thường. Nhìn quần áo hai người mặc hôm nay, với thần thái trầm ổn càng thể hiện họ không phải dân thường.Chương 113: Miệng hại thânBình ca chưa kịp kể xong chuyện tai nạn cho thất thúc nghe thì tiếng lộc cộc vang khắp đường.

– Xe ngựa, kìa!

A Cơ chỉ chỉ chiếc xe ngựa sang trọng đang chạy về hướng dược quán. Con ngựa ô to lớn kéo xe ngựa gỗ có rèm che màu xanh biển. Phía trước có hai hàng binh lính chạy nhanh hô to dẹp đường. Không chỉ nhóm tụi nhỏ mà có mấy người đang đi trên đường cũng chậm bước nhìn xe ngựa đang dừng lại. Hình như có chuyện quan trọng cấp bách đang xảy ra.

Từ trên xe có cô nương trẻ và bà bà lớn tuổi vội vã bước xuống, quay người ôm một người khác quần áo hoa lệ từ trong xe ra. Có hai người lính đã chuẩn bị sẵn cáng nhỏ đưa thiếu phụ ăn mặc hoa lệ vào trong phòng chẩn bệnh.

Phía trong truyền ra tiếng hô to nhỏ, rất ồn ào. Bên ngoài nhiều người tò mò hỏi han sự tình. Ào tới theo là chiếc xe bò, cũng dừng trước cửa dược quán. Trên xe là một người đàn bà cỡ năm mươi tuổi, dáng người nở nang, gương mặt tròn trịa đang nhăn nhó, có vẻ rất khổ sở, hai mắt đã sưng đỏ. Bà vội vàng vào trong mặc kệ phía sau có hai cô nương đang mang túi vải, rương gỗ đủ thứ.

– Là chuyện gì vậy? Có người bệnh sao?

Tiếng hỏi han, xầm xì lan ra. Một lát sau có mấy người ngồi vào ghế quán nước nói chuyện, tụi nhỏ bên này lắng tai nghe.

Thì ra phía trên trấn có nhà phú hộ Bùi, hôm nay có người thân từ xa đến thăm. Ai ngờ vị khách đó gặp tai nạn, trợt chân té, cái thai mấy tháng động, vội vàng đến lang y nhờ cứu chữa. Vậy thiếu phụ quần áo hoa lệ là người bệnh. Quần áo rộng rãi lại được người nâng đỡ nên lúc nãy Mai không nhận ra là đang mang thai.

– Nghe nói vị trong đó là phu nhân nhà quan, nhìn xe ngựa đi, chưa thấy cái nào đẹp giống vậy, phải không?

Nhóm mấy người lớn kêu hai chai rượu gạo và khô mực, vừa nhâm nhi vừa nhìn xe ngựa bình phẩm.

– Nhìn con ngựa đi, ngựa này đi ngàn dặm không?

– Làm gì có, ngươi nói bộ thiên lý mã sao?

Mấy đứa con trai say mê nghe chuyện ngựa nào tốt, nuôi rồi chăm sóc ra sao. Câu chuyện mọi người hình như hơi đi xa qua chuyện ngựa rồi!

Mai lại buâng khuâng lo lắng tình hình bên trong. Thai phụ nếu té nặng sẽ ảnh hưởng đến thai nhi, không biết vị lang y đó chẩn bệnh sao rồi? A, hình như mời bà mụ đỡ đẻ đến? Sanh non sao?

Mai khều tay áo Vĩnh ca, nhỏ giọng hỏi:

– Đỗ lang y có dạy bắt mạch chẩn bệnh cho thai phụ chưa?

– Chưa, sư huynh còn chưa học được nữa là ta.

Ừ, mình đúng là mơ tưởng, a Vĩnh cũng không phải thần tiên. Mai đang lơ mơ nhớ lại ít kiến thức về chuyện sanh non và trẻ con thiếu tháng thì nghe tiếng chào.

– Là mấy cháu à, vô trấn làm gì?

Đòan bá và nghĩa đệ đi ra, định ngồi xuống bàn bên kia thì thấy mấy đứa nhỏ nên đi qua. Thưa hỏi xong thì Bình ca đáp:

– Dạ, tiểu thúc và đệ cháu từ Đông Hồ vô. Ông bà ngoại cho cả đám đi chơi một buổi. Bá khoẻ chưa?

– Khoẻ hơn rồi, định ở lại vài ngày nữa thì đi.

Nhóm người lớn bên kia thấy Đoàn bá đi ra từ dược quán tưởng là người quen với chủ xe ngựa, hỏi vọng qua:

– Trong đó sao rồi huynh?

Hồ thúc cười cười trả lời:

– Ta ghé mua thuốc, thấy nhà họ vội vã nên ra đây chờ. Ta cũng không rõ.

– A,

Thì ra không quen, là người qua đường giống họ thôi. Qua giờ ngọ rồi, mấy đứa nhỏ đứng lên chào Đoàn bá đi về. Bá ấy nhất định đòi trả tiền nước dừa và mấy chén chè của tụi nhỏ. Qua lại hai câu không thể từ chối nên tụi nhỏ cảm ơn rồi đứng dậy. Chưa kịp đi ra thì có hai người lính bước tới, chắp tay chào mời Đoàn bá, Hồ thúc vào trong. Nhìn nhìn mấy đứa nhỏ rồi kéo vào luôn.

Có chuyện gì vậy? Mai nhíu mày nhìn Đoàn bá có ý hỏi:

– Ta cũng không biết.

– Xin hỏi kéo tụi cháu vào đó làm gì? Cháu phải về nhà.

Mai không bước đi mà nhìn người lính lớn tuổi hơn nói.

– Ta chỉ nghe lệnh thôi, vào trong đi.

Không được, nếu không biết là chuyện gì thì không thể vào. Mai nắm tay a Phúc, Vĩnh ca chặt hơn, ra hiệu không thể đi. Bên trong dược quán chưởng quầy đi ra, chắp tay chào Đoàn bá nói:

– Xin thứ lỗi, có chuyện nhờ quý vị tương trợ, có thể vào trong nói chuyện được không?

– Vậy được.

Đòan bá suy nghĩ, nhìn mấy đứa nhỏ rồi gật đầu, quay sang nói thêm với thất thúc:

– Cứ vào đi.

Mấy đứa nhỏ nhìn nhau rồi nhìn Mai. Mai nhìn ra xung quanh vẫn còn đông người, bên kia tửu quán có người ăn xong cũng đi ra nhìn về bên này. Mai chăm chú nhìn chưởng quầy, bá ấy thấy lo lắng trong mắt cô, chắp tay lần nữa nói:

– Tiểu cô nương không cần lo lắng, thật sự có chuyện cần nhờ hỗ trợ.

Bước vào trong dược quán, qua khỏi gian phòng chẩn bệnh thường ngày là sân rất rộng. Gần một nửa sân là chỗ phơi lá thuốc, từng mẹt tre xếp trên dàn; mùi thuốc lẫn trong không khí. Thật không nghĩ là phía sau tiệm thuốc là khung cảnh như thế này.

Băng qua sân là đến mấy gian nhà tường gạch, mái ngói. Nhóm nhiều người đang đứng trước hàng hiên nhà. Chưởng quầy dẫn đoàn người đi thẳng vào sảnh, gian phòng sau sảnh hơi rộng có hai vị lang y đã ngồi sẵn ở bàn, còn có người đàn bà tròn trịa mắt hoe đỏ đứng gần cửa ra phòng bên kia. Chưởng quầy ngăn mấy đứa nhỏ lại chỉ muốn một mình Mai đi vào/ Mai hiểu ý nên gật đầu với Bình ca, thất thúc cùng mấy đứa con trai đứng bên ngoài, cô nắm tay Vĩnh ca nói:

– Ca cháu đang học y thuật.

Chưởng quầy gật đầu, đóng cửa phòng. Lang y và mấy người lớn chào hỏi xong, lang y lớn tuổi hơn nói:

– Hai vị thứ lỗi,

Tiếp đó vị lang y lớn tuổi họ Trần nói rõ tình hình. Thiếu phụ mang thai gần tám tháng, bị trật chân té nên động thai. Lang y xem mạch quả thật không ổn, nếu không sanh cả người lớn và thai nhi đều nguy hiểm nên đã bốc thang thuốc dục sanh. Bà đỡ đã mời tới, đang lo chuẩn bị trong phòng. Dục sanh sớm, may mắn có thể cứu cả hai, nếu không …

Nói đến đây thì trong phòng nghe tiếng khóc của người đàn bà bên kia. Trần lang y bỏ qua, nói tiếp.

– Dược quán hiện không có nhân sâm quý hiếm trợ sức thai phụ. Lần trước bốc thuốc có biết nhơn huynh có nhân sâm quí chưa dùng. Mong Đoàn huynh nhượng lại. Trần mỗ ghi ơn và trả ngân lượng đầy đủ.

Phụ nhân bên kia đi lại chắp tay nói:

– Kính xin nhị vị giúp đỡ, ơn nghĩa này ghi tạc trong lòng. Người nhà ta sẽ tìm nhân sâm khác thay thế và bồi thêm tiền.

Đòan bá gật đầu ra hiệu cho Hồ thúc, nói:

– Nhị vị chớ lo lắng, nghĩa đệ ta về khách điếm lấy nhân sâm đến. Xin chờ thêm một khắc.

– Đa tạ.

Hồ thúc đứng lên bước nhanh ra ngoài. Trong phòng trầm lặng, không ai lên tiếng. Mai ho lên nho nhỏ hỏi:

– Xin hỏi chưởng quầy và lang y, muốn tụi cháu vô đây làm gì?

Câu hỏi rất đúng lúc, hình như ngoài chưởng quầy ra ai cũng không hiểu vì sao dẫn một đám nhóc vào đây. Chưởng quầy nhìn Mai nói:

– Lần trước ta nghe cháu nói biết y thuật, nên muốn lưu cháu lại.

Thật ra Lê chưởng quầy cũng không hiểu vì sao mình có cảm giác tiểu cô nương này có thể giúp được. Lần trước nghe cô nương nhỏ tuổi mà nói năng mạch lạc, ý tứ trong mắt rất kiên định; không phải ba hoa. Sáng nay lúc mua mật ong, nhìn cách tiểu cô nương bình thản đếm tiền, nhận tám quan mà không hề lúng túng giống như đã làm việc này hàng ngày; thật sự làm ông ngạc nhiên. Chất lượng mật ong cũng thuộc loại nhất phẩm, đúng như lời nói.

Chưởng quầy vừa định nói tiếp thì ngoài cửa nhiều tiếng bước chân đi nhanh vào. Dẫn đầu là một người đàn ông khoảng chừng hơn hai mươi tuổi, gương mặt sạm nắng, bên hông mang kiếm, ánh mắt sáng quắt.

– Nương, tỷ tỷ sao rồi?

Là đệ đệ của thai phụ nên không khỏi khẩn trương. Người đàn bà nghẹn ngào nói lại tình hình. Trần lang y đứng dậy mời người mới tới nói:

– Bùi đại nhân, mời ngồi.

Tiếp đó là kể lại tình hình sức khoẻ thai phụ và các việc đang làm. Bùi đại nhân đứng dậy chắp tay tạ ơn Đoàn bá.

– Đa tạ. Chúng ta sẽ tìm gấp nhân sâm cùng loại hoàn lại cho hai vị.

– Không sao, ta có thể chờ.

Bùi đại nhân lại quay sang Trần lang y hỏi:

– Theo ý lang y, dục sanh lúc này có thể cứu cả hai, nhưng thai nhi gần tám tháng có thể khoẻ mạnh sao?

Hỏi đúng vấn đề rồi, thật ra đây là điều Mai lo lắng, định chờ chưởng quầy nói xong thì hỏi lang y. Không ngờ chuyện cô ba hoa về chuyện biết y thuật lại bị kéo vào đây, đúng là cái miệng hại cái thân.

Trong đầu Mai nhảy qua rất nhiều kiến thức vô tình đọc được trước đây. Trẻ sanh non không đủ sức khoẻ trong môi trường tự nhiên, phải đặt trong phòng vô trùng, điều kiện ổn định. Thậm chí nhiệt độ xung quanh phải giống như lúc trong bụng mẹ mới tăng khả năng sống sót.

Nhìn quanh mấy gian nhà và sân vườn này, có thể tạo ra phòng vô trùng và giữ nhiệt độ ở ba mươi bảy độ không?

– Lão phu cũng lo lắng chuyện này, may mắn phu nhân sanh đặng, người lớn dùng thuốc sẽ vượt qua nguy hiểm, nhưng thai nhi sẽ nguy hiểm hơn.

Lời này không trấn an được hai người Bùi đại nhân và Bùi phu nhân bên kia, mà khiến họ lo lắng hơn. Xem ra phụ thân đứa bé này rất mong đợi đứa nhỏ, mà người này không phải dễ chọc. Thai phụ về thăm nhà lại gặp tai nạn đến động thai, không biết sự tình bên trong là gì.

Mai cúi đầu nói nhỏ trong tai a Vĩnh mấy câu, a Vĩnh mới đứng lên nói:

– Cháu có nghe nói một cách để thai nhi ít mấy phần nguy hiểm trong mấy ngày đầu khi mới sanh ra.

– Thật?

Mấy câu trả lời đều cao giọng, nghi ngờ là đúng rồi. Dù sao cũng chỉ là hai đứa nhỏ, có học qua y thuật cũng chưa đủ bắt mạch xem bệnh.

– Ý của ca ca là giúp tiểu công tử mới sanh bớt mấy phần nguy hiểm, không đảm bảo bình an vượt qua. Dù sao còn phải xem bản thân tiểu công tử sức khoẻ ra sao nữa.

Câu này là ‘bảo hiểm’ cho cô và a Vĩnh, không ai bảo đảm trẻ sanh non sẽ khoẻ mạnh hoàn toàn. Mà trẻ sơ sinh đủ tháng vẫn luôn có nguy cơ huống chi là thiếu tháng.

Vị Bùi đại nhân nhìn chăm chú qua lại gương mặt hai đứa nhỏ, hồi lâu sau nói:

– Ta để Trần lang y theo hỗ trợ.

– Được.

Mai không nhanh không chậm gật đầu, muốn có người theo nhìn càng tốt. Cô cũng chỉ biết lý thuyết, cần có người thuần thục mới giúp làm được. Huống chi ở dược quán này, không có Trần lang y hỗ trợ cô cũng không làm gì được. Mong là đứa nhỏ này được dưỡng tốt ở mấy tháng đầu, giờ sinh ra sẽ đủ sức đề kháng.Chương 114: Trẻ sanh nonHồ thúc mang túi vải gói nhân sâm đến, giao cho Trần lang y xong thì đứng dậy muốn cáo từ. Mai cũng nói để mấy đứa nhỏ về nhà thông báo, hơn nữa chỉ cần Mai và a Vĩnh ở lại đây là được rồi.

Lúc ra ngoài, Đoàn bá dặn Hồ thúc đi theo về nhà Mai nói rõ hơn, tránh người nhà lo lắng. Thấy vậy thất thúc nói:

– Vậy ta ở lại đây.

Có thất thúc ở bên ngoài càng tốt. Mai dặn thúc theo lời chưởng quầy, không cần lo lắng cô sẽ chạy ra vào báo tin.

Lúc từ ngoài quay vào sảnh đã thấy phòng phía sau người ra vào bận rộn. Thuốc dục sanh có tác dụng rồi. Thời này lang y chỉ ở ngoài phòng sainh hỗ trợ, mọi việc trong phòng đều do bà đỡ và người nhà lo liệu.

Mai và a Vĩnh gặp Trần lang y nói mấy việc cần chuẩn bị. Vị lang y trẻ tuổi bên cạnh nghe xong thì theo lời Trần lang y đứng dậy đi cùng lo liệu. Căn phòng ‘vô trùng’ Mai chọn là một phòng đôi, mặt sau phòng đi vào sân nhỏ riêng biệt. Gian trước có giường nhỏ, bàn tròn gỗ. Gian sau lớn hơn có giường lớn, tủ quần áo và cửa sổ rộng thoáng mát.

Bên kia có tiếng kêu rên từng đợt làm ai nấy đều căng thẳng. Nhờ hai người đàn bà đến lau dọn sạch sẽ hai gian phòng, mang màn cửa, mền gối cũ giặt trong nước nóng. Đồ mới thì hong nắng ở sân trong. Chưởng quầy mang mấy thang thuốc theo lời Mai dặn hun trong phòng. Mai và a Vĩnh cũng thay quần áo cũ, tắm qua nước nóng. Bộ quần áo mượn chưởng quầy hơi rộng chút, Mai phải dùng dây vải buột ống quần, buột tay áo nhìn rất kỳ dị, buồn cười. Kệ đi, đợi nương mang quần áo mình lên thay sau vậy.

Hai canh giờ trôi qua, hai gian phòng bên này đã chuẩn bị xong. Không khí trong phòng thoáng mát, được hun bằng dược liệu, trong các góc phòng cũng đặt hương liệu tiêu độc, diệt khuẩn. Thật ra Mai chỉ nói yêu cầu, Trần lang y rất nhanh hiểu ý cô, tự mình ra phương thuốc.

Trời đã dần tắt nắng, người nhà mình chắc sắp đến rồi. Gần bốn canh giờ, thiếu phụ bên kia vẫn chưa sanh được. Chưởng quầy mang theo túi vải đi đến nói:

– Người nhà cô nương đến rồi, ta an bày họ ở tạm phòng bên kia.

– Cảm ơn bá, cháu đi gặp nương một chút. Bá cho người chuẩn bị than, lỡ trời mưa có dùng ngay.

– Được.

Mai dặn Vĩnh ca hun thanh trùng quần áo rồi đi nhanh ra ngoài. Ở sảnh có nương và cậu hai đang nói chuyện với thất thúc.

– Cậu, nương.

– Sao rồi?

Nương bước nhanh qua định ôm Mai nhưng cô né ra, giải thích sơ sơ chuyện cô và Vĩnh ca làm.

– Chưởng quầy nói nhà mình ở tạm phòng kia, con và Vĩnh ca ở đây, đừng lo lắng quá.

Lúc quay vào, đi ngang qua gian phòng ngoài, vị Bùi đại nhân vẫn ngồi ở đó gương mặt trầm trầm, khẽ nhíu mày mỗi lần nghe tiếng rên từ phòng sản phụ. Theo lời lang y, đây là thai thứ hai của sản phụ nên bản thân sản phụ biết giữ sức, theo lời bà đỡ cầm cự đến giờ này. Nếu là thai đầu càng khó khăn hơn.

Giày vò gần hai canh giờ nữa, phòng sản phụ cũng hô lên:

– Sanh rồi, được rồi.

Hai lang y đều nhanh chân bước vào gian ngoài phòng sanh,

– Nâng phu nhân dậy, đút thuốc này, phải uống hết mới được.

– Là tiểu thơ,

Tiếng bà đỡ nhỏ giọng nói,

– Sao không khóc, bà mụ, bà nhìn xem làm sao?

Tiếng nương của thiếu phụ nghẹn ngào, ôm tả lót đung đưa đung đưa. Lúc bà mụ ôm đứa bé, đánh đét vào mông hai ba cái vẫn không nghe tiếng khóc, cả phòng đều lặng người. Mai được chưởng quầy dẫn vào. Đứa trẻ nhỏ xíu, cả người xanh xanh tím tím.

– Lang y, thông mũi, thông họng đi.

Trần lang y làm vài động tác, rồi lại đánh vào mông. Hai lần thông mũi thì đứa nhỏ mới ‘oa oa’ khóc nhỏ xíu, ai nấy thở phào nhẹ nhõm.

– Nhanh, ôm vào phòng bên này.

Bùi phu nhân ôm tả lót, che gió đi vào hai gian phòng bên này. Đến gian trong, Mai ngồi trên giường nhận tả lót ôm vào người. Bà còn lo lắng nhìn Mai ôm đứa nhỏ thì bị Vĩnh ca kéo ra ngoài. Phòng này phải tắm rửa sạch và thanh trùng quần áo mới được vào.

Vĩnh ca nằm ngay ngắn trên giường, áo ngoài đã cởi ra. Mai tháo tả đứa nhỏ, đặt nằm lên ngực a Vĩnh. Đúng là bé xíu như con mèo, chân tay quắp lại, gương mặt nhăn nhúm, đầu thì loe hoe mấy cọng tóc.

Bên ngoài trời bắt đầu mưa lâm râm. Trần lang y mặc đồ mới thay, đứng hun trong khói thanh trùng rồi mới nhẹ nhàng đi vào. Đưa tay bắt mạch đứa bé, chân mày hơi nhíu rồi đi ra.

– Tiểu thơ yếu quá, mạch tượng không ổn.

Là Bùi đại nhân đứng bên ngoài phòng, nghe xong không lên tiếng bước đi. Mai kéo màn cửa lại, mang bếp than đỏ lửa đặt ở gian ngoài, hơ tay nóng rồi xoa nhẹ lên tay chân đứa nhỏ. Vĩnh ca mười một tuổi, thân nhiệt nóng hơn người lớn một chút nên Mai mới nhớ ra cách này. Người ta dùng cách này để giúp trẻ sanh non từ từ quen với môi trường bên ngoài. Sợ khói than làm không khí ngột ngạt, Mai dặn chưởng quầy chỉ mang than được đốt đỏ vào, vừa tàn lửa là mang ra ngay.

Hai khắc sau, Bùi phu nhân mặc đồ vải bông, bưng mâm nhỏ đi vào, trên mâm là chén nước ấm. Mai chỉ dẫn cách ủ ấm em bé, đến phiên Mai ôm bé sưởi ấm thì Bùi phu nhân thấm môi cho bé. Chắc là hơi đói bụng rồi nên bé phản xạ mấp môi, hé miệng mà hai mắt vẫn nhắm nghiền.

Nhìn Bùi phu nhân tỉ mỉ bôi nước lên miệng, nhẹ nhàng xoa vuốt tay chân cho bé, Mai nhìn ra được bà rất thương yêu bé con này. Cả ngày nay căng thẳng chờ đợi làm gương mặt bà mệt mỏi, mắt sưng đỏ nhưng vẫn dịu dàng chăm sóc quan tâm.

– Ta kêu bà vυ' thay quần áo thanh trùng rồi, nữa canh giờ nữa là cho bú được.

Đêm dần trôi qua, trong phòng vẫn như cũ, giữ ấm cho đứa nhỏ, thấm ướt môi. Đứa bé vẫn chưa bú được sữa trực tiếp, lấy sữa ra ngoài rồi thấm liền lên môi cho bé. Lúc nửa đêm Trần lang y đã đến bắt mạch một lần, dặn tiếp tục giữ ấm cho bé. Phu nhân bên kia kiệt sức nên ngủ sâu, từ từ sẽ hồi phục.

Đến khi trời sáng hẳn thì có tiếng lao xao ngoài cửa. Tiếp đó là một bé gái cỡ tuổi Mai đi vào, cũng mặc áo vải bông, tóc dài buộc gọn sau đầu.

– Đây là Mạc tam tiểu thơ.

Là tỷ của đứa bé mới sanh, nhìn cách ăn mặc thì chắc là đến giúp chăm sóc em bé rồi. Từ hôm qua, Trần lang y và bá mẫu hiểu cách Mai muốn chăm sóc nên cô cũng yên tâm giao lại, thức qua một đêm cũng mệt mỏi quá.

– Ta đã dọn sạch sẽ gian phòng bên kia, hai vị qua đó nghỉ ngơi, người nhà vẫn còn bên đó.

Người đàn ông trung niên, râu đen rậm hơi khom người khách sáo nói.

– Đa tạ.

Mai và a Vĩnh không nhiều lời đi theo ông ấy băng ngang sân qua gian phòng bên kia. Nhà họ đã bao hết dược quán này rồi? Cũng phô trương ghê!

Cậu hai, nương và thất thúc đang ngồi trên bàn, chắc chờ hai đứa cùng ăn sáng nên chưa ai động đũa. Thấy người đến thì đứng dậy chào hỏi.

– Mời các vị dùng bữa sáng đạm bạc, rồi nghỉ ngơi. Cần gì gọi ta một tiếng.

– Không dám, tạ ơn Bùi quản gia.

Còn lại người trong nhà nương kéo hai đứa ngồi xuống ghế hỏi:

– Chuyện sao rồi? Hai đứa làm ta lo lắng muốn chết.

– Dạ, phu nhân đã khoẻ rồi, còn tiểu thơ vẫn chưa biết sao.

– Vậy sao tụi con nhận trị được.

Mai nhìn a Vĩnh để hắn nói lại tỉ mỉ chuyện ngày hôm qua. Cậu hai nói trước:

– Vừa ăn vừa nói, không cần hấp tấp.

Đúng là đói bụng rồi, tối qua đến canh ba là Mai và a Vĩnh đã ngả lưng ngủ ở giường ngoài, sáng nay dậy sớm hơn ngày thường, bận rộn nhìn ngó đứa bé xong mới ra đây. Bữa cơm là nấu cơm trắng ‘nàng thơm’ nên ăn rất ngon miệng, món thịt rim với tôm càng đã lột vỏ, canh chua lá me cá lóc bông. Món nào cũng nêm gia vị vừa miệng, tươi ngon.

– Là đặt tửu lâu bên kia mang qua, vẫn còn nóng hổi.

Cậu hai ăn trước mấy và cơm nói cho mấy đứa nhỏ biết. Vĩnh ca vừa ăn cơm vừa nói tỉ mỉ tình cảnh hôm qua.

– Ừ, hai đứa đã nói như vậy, có Trần lang y chứng thực mới tốt. Tránh người ta nghi kỵ, hiểu lầm.

Cậu hai gật đầu nói, tính ra hai đứa chỉ nói cách làm đứa bé sơ sanh kia có thể qua nguy hiểm, chứ không phải bảo đảm trị hay chữa bệnh gì. Ai cũng không thể đảm bảo trẻ sơ sanh thiếu tháng như vậy an toàn vượt qua nguy hiểm.

Nương đã sanh con mấy lần, càng hiểu rõ trẻ sơ sanh yếu ớt cỡ nào nên hỏi thêm:

– Phải làm như vậy trong bao lâu?

– Dạ, ít nhất một tháng. Lúc đó Trần lang y có thể dùng một ít thuốc cho nó uống được.

– Ừ, ta nghe nói cho người vυ' nuôi uống cũng có một phần tác dụng.

Đúng là cho người mẹ uống thuốc, thông qua sữa cũng ảnh hưởng đến trẻ. Trước lúc đó thì là chuyện đứa nhỏ có vượt qua tháng đầu tiên này không mới được.Chương 115: Ai dám đảm bảoTrên bàn có dĩa cam, nương lấy dao cắt làm sáu. Mai không thích ăn bao trắng của múi cam nên tỉ mẩn bỏ hột, ăn từng ruột cam trong múi. Cậu hai và thất thúc ăn luôn phần bao trắng nên rất nhanh gọn, một lần là một miếng.

Lúc ăn cơm gần xong thì trời ui ui rồi mưa rớt hột. Mai theo nương về phòng ngủ thêm; Vĩnh ca cũng lên giường chộp mắt. Cậu hai đội khăn, xách nón lá ra ngoài, dặn nương:

– Ta ra bến ghe nhắn về cho cha nương ở nhà hay rồi quay lại.

– Dạ được, ca đi đi. Ở đây có muội và a Tấn được rồi.

Hai đứa nhỏ mệt mỏi nên ngủ rất nhanh, lại thêm mưa nhẹ giấc ngủ càng sâu. Không biết bao lâu thì nương lắc tay Mai kêu dậy.

– Mai, dậy đi con. Bên kia đang gấp lắm.

Mai tỉnh dậy từ giấc ngủ sâu, chưa nhớ ra chuyện gì, cái gì mà bên kia gấp lắm? Ai gấp? Chợt nghe có tiếng trầm trầm của đàn ông nói nhanh:

– Cô nương, đứa bé không khoẻ, mời cô nương qua gấp.

A, đứa bé, Mai vội vàng xỏ giày rồi đi nhanh ra khỏi phòng, bên kia a Vĩnh đã tỉnh, đang chờ Mai trước hiên. Mưa đã tạnh rồi, có mấy vũng nước đọng trên sân, con đường lát đá xanh thì đã khô ráo. Hai đứa nhỏ đi như chạy qua sân, phía sau là chưởng quầy bước dài theo sát nút.

Trong căn phòng hôm qua, vị Bùi đại nhân đang nhìn ra cửa, Trần lang y đứng bên cạnh. Thấy hai đứa nhỏ bước vội lên nói.

– Ta vừa bắt mạch, mạch yếu ớt hơn sáng nay, không biết tại sao.

– Đi, qua đó xem sao. Ca, nhanh.

Không đợi mấy người lớn đồng ý, Mai đã vội kéo tay a Vĩnh đi. Màn cửa đã vén lên, Mai ngăn mọi người ở bên ngoài, cô chỉ đứng ngó vào trong, gian ngoài có một thị nữ đang lau bàn. Mai nhíu mày nói với chưởng quầy:

– Nhờ thúc thay màn mới, giặt nước nóng hong kỹ như cháu nói hôm qua. Mang hết bếp than này ra ngoài, chỉ dùng than đã đỏ lửa. Mang quần áo đã thanh trùng của cháu và ca cháu đến.

Nghe tiếng Mai nói bên trong đi ra hai người, một là Bùi phu nhân, nương của Bùi đại nhân. Một là người đàn bà cỡ hơn bốn mươi tuổi, ăn mắt rất tề chỉnh, trên người còn thoang thoảng mùi phấn hương.

– Phòng này cần thanh trùng mới được vào, không thể quá đông người, nhiều nhất là ba người thôi.

Nghe Mai nói, Bùi phu nhân ngập ngừng rồi quay sang nói với người đàn bà đi chung:

– Mạc nội quản nghỉ ngơi trước, ở đây đã có ta lo.

Vị nội quản hơi nhíu mày có vẻ không hài lòng thì Bùi đại nhân đã nói:

– Nương tiếp Mạc quản sự ở gian khách bên kia đi. Tỷ sắp tỉnh rồi, ở đây để Trần lang y chu toàn.

– Được.

Bùi phu nhân không chần chờ nữa mà kéo người đi, tỳ nữ mang chậu than ra theo. Rất nhanh quần áo mới được mang tới, giống như hôm qua Mai cẩn thận làm bản thân sạch sẽ, thanh trùng; cùng Trần lang y, a Vĩnh đi vào gian trong.

Đứa bé do bà vυ' ôm trong lòng, gương mặt nhỏ xíu vẫn xanh xao, da nhăn nheo. Vĩnh ca nằm xuống giường, thay bà vυ' ủ ấm đứa bé. Trần lang y bắt mạch trên cổ tay mỏng như que củi. Mai ra hiệu bà vυ' ra gian ngoài chờ. Đợi lang y đi ra thì ba người ra gần cửa ngoài nói chuyện cùng Bùi đại nhân và chưởng quầy phía ngoài.

– Mạch đứa bé yếu ớt lắm.

Bà vυ' lo âu, lắp bắp nói:

– Sáng nay tiểu thơ vẫn chưa bú được, phu nhân vẫn thấm nước và ít sữa trên môi, không thấy gì khác thường.

– Có.

Đợi bà nói hết Mai lên tiếng làm mọi người trầm mặc, Mai mới nói tiếp:

– Mọi người không tuân thủ lời ta dặn.

Ý Mai là những biện pháp giúp thanh trùng và làm sạch không khí trong phòng. Nó cũng quan trọng như việc giữ ấm đứa bé ở nhiệt độ cơ thể người. Cân nhắc cách dùng từ, Mai giải thích kỹ hơn tại sao phải thanh trùng và giữ không khí sạch.

– Những cách này là để tạo ra không gian sạch và nhiệt độ gần giống trong bụng thai phụ. Đứa bé quá nhỏ, nếu hít phải bụi than hay hương phấn sẽ không thở được.

Nghe Mai nói tỉ mỉ một lát, Trần lang y gật đầu, nhìn Mai thêm cẩn thận.

– Ta hiểu ý rồi. A Sang, đã nghe hết rồi chứ. Ngươi canh giữ ở đây, nhất nhất làm theo.

Bùi đại nhân quay đầu nói với người thanh niên đứng phía sau. Hắn đáp dạ rồi bước lên bên cạnh cửa nhận nhiệm vụ. – Nhờ lang y chuẩn bị thuốc làm sạch miệng lưỡi, chiều nay phải tập em bé bú sữa rồi.

– Được. Gọi người qua thay đi.

Trần lang y nói với bà vυ', bà quay đi báo người thay mình. Mai và a Vĩnh còn nhỏ, không biết cách hơ than ủ ấm cho đứa bé nên luôn có người giúp mới được. Bùi đại nhân thấy sắp xếp xong thì quay bước ra phòng trước.

Trong lúc đợi bà vυ' khác tới, Mai vào phòng trong mở cửa sổ để xua đi hương phấn và khói than còn sót lại. Không khí sau mưa thật trong lành, vừa qua giờ ngọ nên nắng chiếu thẳng giữa sân, bóng cây tròn như cái dù.

Sau khi Bùi đại nhân cử người trông coi, Trần lang y cũng hiểu rõ nên chiều nay hai gian phòng yên tĩnh, chỉ có người cần thiết mới dám vào. Bùi phu nhân không nghỉ ngơi mà ngồi gian ngoài chờ Trần lang y chuẩn bị ít thuốc làm sạch miệng đứa bé. Đôi mắt bà thâm quầng, đầu tóc búi vội vàng sau gáy loà xoà mấy lọn tóc dài, gương mặt tròn hiện rõ nét mỏi mệt. Thấy Mai nhìn bà hơi lâu, bà cười kéo tay Mai nói:

– Thật không biết sao cảm tạ ơn ngươi, ta chờ xem đứa bé bú được sẽ nghỉ ngơi. Lúc nãy ta đã gặp nương và cậu ngươi, xin họ nán lại thêm mấy ngày.

– Không có gì, phu nhân cần giữ sức khoẻ.

Mai không nhiều lời, vị phu nhân này kiến thức rộng rãi cũng tự biết là đứa bé không thể một hai ngày là khoẻ. Bà biết tự chăm sóc mình trước rồi mới nói chuyện chăm sóc người khác.

Bùi phu nhân gật đầu hiểu ý. Sản phụ đã qua nguy hiểm, chỉ cần tĩnh dưỡng sẽ phục hồi sức khoẻ. Nhưng trẻ sơ sanh thì khác, phải tỉ mỉ chăm sóc mới được, không thể lơ là, qua loa. Tất cả đều phải để tâm, mấy tháng đầu, mấy năm đầu; đợi đứa trẻ biết ăn biết nói mới bớt lo.

Qua một ngày mà trẻ sơ sanh không thể uống sữa sẽ rất nguy hiểm. Từ lúc sanh ra đến giờ, đứa nhỏ ngủ miên man, chỉ thấy đôi mi mắt hơi nháy, hơi thở nhẹ như khói. Cuối giờ mùi đứa bé é lên làm mọi người vui mừng, chắc là biết đói, biết khát rồi.

A Vĩnh và Mai ngồi gian ngoài chờ, gian trong là lang y, Bùi phu nhân và bà vυ' hơ nóng, làm sạch miệng xong thì lang y ra ngoài ngồi. Chắc là đang dạy bé bú sữa nên lang y không tiện ở trong đó.

Hơn khắc sau Bùi phu nhân đi ra nói:

– Chưa có sức bú, mới chép miệng một lúc đã ngủ rồi. Ta dặn bà vυ' canh giờ tập lại.

Đang nói giữa chừng thì bên ngoài có tiếng chân người, vị đội trưởng bên ngoài lên tiếng:

– Trình phu nhân, thiếu phu nhân và Mạc tam tiểu thơ đến.

Bùi phu nhân đứng dậy ra ngoài, dặn dò vị thiếu phu nhân và tiểu thơ mới tới mấy việc cần để ý. Đợi hai người đó thay xong quần áo thanh trùng thì bước vào. Mọi người chắp tay chào hỏi xong, nói mấy việc cần chú ý thì chia nhau rời đi. Trần lang y, Vĩnh ca và Mai cũng về phòng mình nghỉ ngơi. Trước lúc bước đi Trần lang y nói:

– Mấy lời lúc sáng Lê cô nương nói ta còn vài điều chưa hiểu rõ, mong là hôm khác cô nương giảng giải thêm.

– Trần bá bá không cần khách sáo, cháu chỉ nghe nói rồi làm theo. Lúc nào bá rãnh rỗi cháu sẽ nói cái cháu biết.

– Được.

Nhìn ông quay đi Mai le lưỡi với a Vĩnh, mai mốt cô đã chuồn về Đông Hồ rồi, không tin là ông ấy tìm tới được. Về đến phòng nghe cậu hai nói ông bà ngoại nhắn là cứ ở lại thêm mấy ngày, cửa tiệm ghe vẫn đang sửa ghe, không có việc gì lớn.

Lúc Mai ngủ dậy thì trời đã tắt nắng, nương ngồi vá áo bên cửa sổ.

– Rửa mặt đi, rồi ăn cơm.

Cơm được ủ ấm trên chậu than ngoài cửa phòng, thấy nương dọn lên bàn trong phòng mình Mai hơi ngạc nhiên. Dù là người nhà nhưng cậu hai và thất thúc không đi vào, có việc thì đứng ở ngoài cửa gọi vào.

– Bùi quản gia mời cậu con và a Tấn đi tửu lâu gặp rồi, sẽ ăn cơm chiều ở đó luôn. Con qua gọi a Vĩnh đi.

– Dạ.

Thì ra là vậy. Nhìn cơm canh trên bàn nương có vẻ bất an nói:

– Mấy món này là đặt ở tửu lâu mang đến, cũng không rẻ.

Bữa cơm là gạo trắng, thịt kho hột vịt, ba con tôm càng nướng và một tô canh trái khổ qua dồn thịt. Đúng là mấy món ngon, những nhà nông không thường nấu, chỉ nấu mấy ngày lễ Tết cúng tổ tiên ông bà. Mai nhìn nương rồi nói:

– Nương đừng lo lắng, là nhà họ đãi khách mà, mình đâu có đòi hỏi gì. Với nữa, cậu hai không nói gì hết nên không sao đâu.

Cũng đúng, Nguyễn thị nghĩ. Nhị ca đi theo là trông chừng mấy đứa nhỏ, nếu có chuyện gì không phải ca ấy sẽ nhắc nhở. Thật ra, bà còn bồn chồn chuyện khác mà Mai không hiểu. Từ nhỏ giờ Nguyễn thị chưa từng gặp nhiều người ăn mặc quí phái, sang trọng như vậy nên không tránh khỏi lo lắng. Hơn nữa, qua đến giờ chỉ ngồi không, cơm đưa đến miệng, ăn xong cũng có người dọn rửa, lại toàn món ngon làm bà không quen. Từ khi bảy tám tuổi biết làm việc nhà, việc đồng đến giờ có bao giờ thảnh thơi ngồi không như bây giờ. Trong tay bà lúc nào cũng có việc cần làm, cả ngày hôm nay tay chân rãnh rỗi thật không quen.

Mai không biết, không nhận ra đơn giản vì cô vẫn chưa hoàn toàn là ‘người ở đây’. Đối với người hiện đại thì phải nghỉ ngơi cuối tuần, còn phải đi du lịch hàng năm thư giãn. Nên chuyện Nguyễn thị có thể rãnh rỗi cả ngày ở đây là bình thường, cô còn nghĩ nói nương có thể đi dạo chợ hay ra ngoài xem hàng quán bên ngoài cho biết.Chương 116: Những lựa chọn tương laiBàn tiệc ở tửu lâu do Bùi quản gia mời, ngoài cậu hai và thất thúc thì chỉ có Trần chưởng quầy là khách. Còn lại hai người là đội trưởng cận vệ a Sáng và một quản sự khác.

Nguyễn Cần vừa nâng ly rượu đáp lễ Bùi quản gia vừa nghĩ “lần này a Mai, a Vĩnh thật sự giúp Bùi gia việc lớn nên họ mới khách khí, có lễ như vậy. Nghe nói Bùi gia là gia tộc lớn có quan hệ rộng. Bùi gia ở Trấn Giang này là dòng thứ mà đã có quyền lực, tài lực lớn vậy. Nhìn số lính canh, người hầu tề chỉnh vậy quả thật hiếm thấy. Bùi gia rất coi trọng vị sản phụ và đứa bé vừa sanh ra nên mới khách khí với mình. Xem ra nhà chồng sản phụ cũng là không phải thường dân.”

Bùi Thân là họ hàng xa của Bùi lão gia. Ông bắt đầu vào Bùi phủ ở Chánh Dinh từ năm mười bốn tuổi, đến nay đã gần ba mươi năm rồi. Hai mươi năm trước dòng thứ Bùi gia là Bùi lão gia bây giờ chuyển vào Nam, định cư ở Trấn Biên xa xôi, hoang sơ. Bùi Thân lúc đó còn trẻ, cùng lão gia, phu nhân chịu nhiều gian khổ, gầy dựng Bùi phủ. Ông từ một thanh niên cường tráng làm hộ vệ, học cách quản sự rồi trở thành tổng quản lo chuyện trong ngoài của phủ, là cánh tay đắc lực nhất của Bùi gia.

Mấy năm nay Bùi gia mở rộng thế lực xuống vùng Trấn Giang này. Ông vẫn còn khoẻ nên luôn theo bên người Bùi tam thiếu gia Bùi Nghĩa bôn ba xuôi ngược. Ông vừa là bảo vệ vừa dẫn dắt thế hệ sau của Bùi gia.

Lần này Bùi nhị tiểu thơ, giờ là Mạc phu nhân về thăm nhà ngoại trước kỳ lâm bồn lại xảy ra tai nạn. Nếu thật sự có chuyện không hay với Mạc phu nhân và đứa bé sơ sanh thì Bùi gia khó ăn nói với Mạc gia. Đó là chưa kể đến các quan hệ quyền thế gia tộc bên trong.

Bây giờ Mạc phu nhân đã qua cơn nguy hiểm nhưng vị tiểu thơ mới sanh vẫn còn nguy hiểm. Nghe ý tứ Bùi phu nhân và tam thiếu gia thì hai đứa bé a Vĩnh và Mai là mấu chốt. Hai người đã dặn dò ông phải đối đãi tốt với người nhà của chúng.

Sau mấy lượt nâng ly cạn chén, trò chuyện ông biết thêm về gia cảnh Lê gia, Nguyễn gia. Đa số người nông dân ở đây đều quanh năm tay lấm chân bùn, quanh quẩn ruộng vườn. Người trầm tĩnh, có hiểu biết như Nguyễn Cần trước mặt là hiếm thấy. Thấy người sang không luống cuống, không bợ đỡ, giữ được ánh mắt thẳng thắn như Nguyễn Cần làm ông không khỏi khách khí thêm hai phần.

Trong lòng nhớ đến hai đứa nhỏ được xem là tiểu lang y đang chăm sóc Mạc tiểu thơ cũng càng thấy lạ. Nghe Trần lang y và chưởng quầy nói cách chăm sóc trẻ sơ sanh thiếu tháng là do hai đứa nhỏ đề ra, đúng là lạ lùng nhưng lại hiệu quả. Trước mắt là ổn định tâm mạch đứa trẻ, nếu qua được mấy tháng đầu thì tốt biết mấy.

Còn chuyện kể trưa nay đứa bé gái thản nhiên lên tiếng ‘đuổi’ vị Mạc quản sự kia ra ngoài theo kiểu ‘không phận sự, miễn vào’ làm ông vừa ngạc nhiên vừa khoái trá. Bà già Mạc đó cầu kỳ kiểu cách, còn có ý trách cứ Bùi gia thất trách để xảy ra tai nạn làm ông rất khó chịu. Bùi gia lo lắng cho nhị tiểu thơ gấp mấy lần ở Mạc gia chứ.

– Nhà Nguyễn đệ có cửa tiệm bán ghe xuồng à?

Tiếng chưởng quầy cắt đứt suy nghĩ miên man của Bùi quản gia. Nguyễn Cần gật đầu nói:

– Phải, cũng mới mở tháng trước.

– Bán ghe gì?

Tiếp đó Nguyễn Cần nói các loại ghe nhà mình bán, a Tấn bên cạnh nghe, gật đầu phụ hoạ. Trong bàn tiệc này hắn nhỏ nhất, về vai vế thì ngang hàng với Nguyễn Cần nhưng tuổi tác và kinh nghiệm thì thua xa. “Phải nghe nhiều học nhiều mới được” hắn tự nhủ. Mới hai ngày nay chuyện hắn nghe, thấy đã vượt qua rất nhiều những hiểu biết và tưởng tượng của hắn.

Từ nhỏ đến năm trước, hắn chỉ biết mình sẽ theo cha huynh đi biển đánh cá, quanh quẩn ở làng chài. Sau đó tứ ca muốn hắn giúp cưa gỗ đóng ghe. Thấy mình giúp được tứ ca, lại kiếm không ít tiền cho cha nương, hắn rất vui mừng, càng không ngừng cố gắng.

Hai ngày nay nhìn thấy người Bùi gia, nghe những chuyện họ đã từng trải qua, những nơi họ từng đi đến. Đặc biệt phong thái uy nghi của vị Bùi đại nhân – tam thiếu gia đó càng khiến hắn nể trọng.

Thì ra thế giới bên ngoài thật rộng lớn, có nhiều con người thú vị như vậy. Hắn ước gì mình có sáu lỗ tai tám con mắt để nhìn nghe hết mọi chuyện. Nếu mình cũng được đi ra bên ngoài như họ, có thể không? Trong lòng hắn có một thôi thúc không tên, trong trí như có ánh sáng dẫn lối, sẽ có cơ hội! Sẽ tìm cơ hội!

Hắn nghĩ mình sẽ theo tứ ca, cả đời đóng ghe xuồng, rồi làm ruộng. Trước là phụng dưỡng cha nương khi tuổi già. Sau là cưới vợ sanh con nối dõi, chăm lo gia đình. Nhưng mà nếu hắn có thể dọc ngang khắp nơi như họ thì sao? Có thể tận mắt thấy cảnh ngựa xe tấp nập, ghe ba tầng nhà năm gian. Hoặc hắn lênh đênh trên biển rộng bao la, không phải vào buổi đêm đánh cá mà chỉ vì muốn nhìn mặt biển mênh mông. Càng nghĩ hắn càng chìm đắm trong tưởng tượng huy hoàng được dựng lên từ những chuyện vừa nghe được mấy hôm nay. Bữa cơm kết thúc mà hắn như còn muốn nghe thêm, biết thêm.

Ngày hôm sau, giữa giờ dậu Mai và a Vĩnh đi đến phòng ngoài sảnh chính thì thấy một thị nữ mười mấy tuổi đứng chờ.

– Phu nhân mời hai huynh muội vào gặp mặt một lát.

– Được. Phòng sản phụ cũng có hai gian, vị Mạc phu nhân nửa nằm nửa ngồi trên giường ở gian trong. Mạc phu nhân cũng cỡ ba mươi,gương mặt tròn, nước da trắng vẫn còn xanh xao nhưng ánh mắt sáng có thần. Xem ra sức khoẻ của bà đã hồi phục rồi.

Mạc quản sự đứng bên giường, còn có Bùi phu nhân ngồi trên cái ghế ở bàn tròn giữa phòng. Hai đứa nhỏ chắp tay chào hỏi xong thì nghe Bùi phu nhân ân cần hỏi:

– Ăn cơm chưa? Thức ăn vừa miệng không?

– Dạ đã ăn rồi. Thức ăn rất ngon.

Mai hơi cười từ tốn trả lời. Bà nói tiếp:

– Lúc nãy Trần lang y nói tiểu thơ đã biết bú sữa, chắc là đói nên cứ ư ư đòi bú.

Nghe bà nói không khí trong phòng thoáng vui vẻ, nhẹ nhàng. Mai cũng thở dài nhẹ nhõm. Vị Mạc phu nhân nhìn Mai như thế ánh mắt thêm hiền hoà nói:

– Còn nhờ huynh muội hai ngươi để ý thêm, mấy ngày ở lại đây cần gì cứ nói, đừng ngại.

– Dạ biết, đa tạ phu nhân.

‘A cũng ít lời quá’ Mạc phu nhân nghĩ, ‘dù sao cũng chỉ là trẻ con, không biết tận dụng cơ hội yêu cầu gì thêm sao! Nên gặp người lớn trong nhà mới được’. Nghĩ vậy nên bà không nói tiếp chuyện với hai đứa nhỏ mà hỏi Bùi phu nhân sắp xếp người chăm sóc đứa bé thế nào. Mai và a Vĩnh chỉ đứng nghe một lát rồi đi ra ngoài thay quần áo vào phòng trong của em bé.

Lúc đến phòng thì bà vυ' đang cho đứa bé bú sữa. Phòng ngoài có hai đứa trẻ cỡ tuổi Mai, mặt mũi sáng láng, da trắng, dáng người tròn tròn. Mạc gia tam tiểu thơ hôm qua đã gặp. Bé trai có nét giống vị Bùi đại nhân ở sóng mũi thẳng, mày đen rậm, chắc là con trai Bùi đại nhân, Mai đoán vậy. Đứa bé trai liếc nhanh quan sát a Vĩnh và Mai xong cũng không nói gì.

Bốn đứa trẻ trong tuổi hiếu động mà lại ngồi im lặng trong phòng này nhìn cũng thật buồn cười! Mai thì ‘già’ rồi không tính, ba đứa nhỏ còn lại thật sự hết ý kiến!

Lúc bà vυ' và thị nữ đi ra có mang theo chậu than còn đỏ lửa. Hai người cúi đầu chào hai vị công tử, tiểu thơ rồi lui ra. Mai đứng dậy nói:

– Hai chúng ta vào trong đây.

Đứa bé gái gật đầu miệng mấp máy như muốn nói gì đó, sau lại vẫn không lên tiếng.

Đêm nay trăng rất sáng, bầu trời không gợn chút mây. Mai nằm ôm đứa bé trong ngực, cảm giác hơi thở rất nhẹ của nó. ‘Cố gắng lên nào bé con, bên ngoài có nhiều cảnh đẹp, có muốn nhìn xem không?’ Mai nhủ thầm như trò chuyện với đứa bé, như tự nói với mình.

Ban ngày đã nghỉ ngơi đủ nên giờ cô chưa thấy buồn ngủ. Đầu óc cô nghĩ ngợi mông lung, thoắt nhớ nhà, thoắt nhớ bạn bè, thoắt nhớ đến anh ấy. Lúc nghe tin Mai bệnh mất, anh ấy có buồn không? Chắc có, nhưng giống như mất đi một người bạn thôi!

Ừ, anh ấy chỉ xem mình là bạn, hay em gái học cùng trường! Hai dòng nước mắt lại tự nhiên lăn dài trên má. Đã biết sự thật này mấy năm rồi, vậy mà mình vẫn còn lưu luyến. Thật ra anh ấy chưa hề nói gì. Nhưng lúc anh ấy lên đường du học đã không cho mình biết giờ bay, chuyến bay. Anh không muốn mình đi tiễn, như vậy là quá rõ rồi. Anh cũng không thường gửi email, mỗi lần chat đều trả lời rất ngắn.

A, mình còn copy mấy tin chat vào máy tính. Không biết có ai nhìn thấy rồi đoán ra không nữa. Mong là không, mong rằng nó mãi là bí mật của riêng mình.Chương 117: Đâu có nhiều Mạc giaTiếng bước chân đi vào làm Mai giật mình thoát khỏi hồi ức, nhắm mắt giả vờ ngủ. Bà vυ' nhẹ nhàng hong tay trên bếp than rồi hơ khắp người ủ ấm cho đứa bé. Trống điểm canh vang lên, Bùi phu nhân đi vào ra hiệu a Vĩnh và Mai về nghỉ. Đêm nay Mai không cần ngủ ở gian ngoài mà đi về phòng ngủ cùng người nhà; nương và cậu hai cũng còn thức chờ hai đứa về mới vào trong ngủ.

Hôm nay là ngày thứ năm rồi, đứa bé đã biết bú sữa. Mà cái nết bé cũng không vừa, lúc đói bụng cũng é lên rất lớn; xem ra có khí lực rồi. Trần lang y theo sát xem mạch ngày hai lượt, gương mặt ông đã tươi trở lại.

Mấy hôm nay cửa hiệu dược và phòng chẩn bệnh đều đóng cửa, chỉ lo điều tri cho vị khách quý này. Ông đã nói chưởng quầy, cũng là đường đệ của mình dán cáo lỗi cùng khách nhân. Nay sức khỏe của đứa bé có tiến triển, thai phụ đã hồi phục, coi như gánh nặng được cất đi rồi.

Hôm qua, Mạc phu nhân cho mời nương và Ma vào phòng trò chuyện. Nương hơi căng thẳng, lại ít lời nên Mạc phu nhân hỏi han vài câu, nói cảm ơn rồi cho lui ra. Vị Bùi đại nhân không còn túc trực ở đây nữa. Ông để lại lính gác rồi thi thoảng ghé thăm, hỏi thêm vài câu.

Sáng nay, biết Bùi đại nhân đến, cô nhờ Bùi quản gia xin vào gặp mặt. Mai đang cùng cả nhà đứng trong phòng lớn ở sảnh trước. Cô đang thương lượng với Bùi đại nhân để về nhà.

– Ý Trần lang y sao?

Vị Bùi đại nhân này cũng không dễ chọc, hỏi Trần lang y như vậy khác nào nói Mai đẩy trách nhiệm qua cho ông ấy. Ông ấy đương nhiên là muốn Mai ở lại rồi. Nhưng mà Trần lang y còn đang muốn hỏi thêm cô cách chăm sóc trẻ sơ sanh nên cứ nhăn mày chưa trả lời.

Ba bên giằng co không ai lên tiếng. Đúng là không thể đắc tội thầy thuốc và con nít. Cuối cùng Bùi đại nhân đành lên tiếng.

– Ta bảo Bùi quản gia đưa người nhà ngươi về. Biết nhà cửa sau này xin đến hậu tạ.

– Không dám, đa tạ Bùi đại nhân.

Biết nhà đến hậu tạ hay đến sai bảo đây, thôi kệ đi, về nhà trước, chuyện mai mốt tính sau. Năm người nhà Mai chắp tay chào hỏi một lượt rồi lên xe ngựa ra về. Ra đến ngoài đường nương thở dài nhẹ nhõm làm Mai hơi cười. Nương thiệt lạ, ở đây được thảnh thơi cả ngày, ăn uống có người lo mà mặt mày cứ âu sầu.

Thất thúc và a Vĩnh ngồi hai bên người xà ích (đánh xe), vui vẻ hỏi chuyện con ngựa đen đang dùng, hỏi cách thúc ấy đánh xe. Nếu như thân thuộc dám đòi đánh xe thử luôn. Xe ngựa không đi nhanh lắm, nhìn nhà cửa hai bên đường trôi qua cũng thú vị. Nhiều người nhìn theo người nhà Mai ngạc nhiên, có mấy đứa nhóc chỉ trỏ, nói thầm vào tai nhau rồi cười rất vui vẻ; giống như mấy tụi Mai hôm trước quá!

Xe ngựa chạy trên đường đất gần bến ghe thì xốc nảy, không thoải mái lắm. Dưới bến đã có chiếc ghe lớn hai tầng, hai phòng trên có cửa sổ che rèm lụa xanh rất đẹp. Thật sự là dùng ghe này đưa người nhà mình về tận nhà sao? Bùi quản gia cưỡi ngựa theo sau đang vượt lên dặn dò xà ích và nhóm thợ chèo trên ghe.

Ha ha, a Phúc, a Duyên thấy chiếc ghe này chắc thích mê luôn, tiếc là tụi nó không được ngồi, cũng không được đi xe ngựa!

Hai phòng trên chắc dành cho mấy phu nhân tiểu thơ ngồi và nghỉ ngơi lúc đêm. Mọi người cũng không vào khoang trong bên dưới mà ra ngồi cùng Bùi quản gia ở khoang ngoài. Nắng bắt đầu gay gắt nhưng có gió từ mặt sông nên cũng rất dễ chịu. Sau mấy ngày quanh quẩn trong phòng kín giờ được ra ngoài hít khí trời giống như chim xanh được thả về rừng.

– Bùi bá, ghe này đóng ở đâu vậy? Đẹp quá!

Nghe Mai hỏi, Bùi quản gia vui vẻ nói:

– Đóng ở vùng Mang Thít đưa vào đây (1). Cái này trước đây có buồm đi biển được. Lão gia tìm người sửa đổi để phu nhân dùng đi trên sông thuận tiện hơn.

Thì ra là vậy, mọi người đều chăm chú lắng nghe Bùi quản gia chỉ mấy chỗ đã sửa.

– Từ Mang Thít vào đây xa không bá?

– Theo hải trình từ Mang Thít vào Trấn Biên thuận lợi thì mười ngày nửa tháng, mùa mưa bão có khi gần một tháng. Từ Trấn Biên về đây thì không xa lắm.

Bùi quản gia vừa trả lời vừa liếc nhanh ánh mắt Mai. Ông có cảm giác tiểu cô nương ‘đã đến đó’ rồi thì phải, giống như người ta hỏi về một nơi mình đã từng đi qua. Nhưng chuyện này sao có được, mình nhìn lầm rồi! – Gần nhà cháu ở Đông Hồ có Nguyễn thúc thúc đi Chánh Dinh hồi sau Tết, mất gần hai tháng đó.

Mai như vô tình nói chuyện Nguyễn gia làm Bùi quản gia hiểu ra: thì ra đã nghe chuyện này.

– Đi Chánh Dinh vậy là mau rồi.

Đây là lần đầu tiên đi trên sông Hậu, mặt sông rộng mênh mông, ngút tầm mắt. Cô chỉ thấy màu xanh rừng cây và màu mây trời hòa quyện. Hai bên bờ rừng cây rậm rạp, từng rặng dừa nước, cây bần, lát chen nhau. Mặt sông rộng nước đầy màu vàng đυ.c ngầu phù sa; giữa sông mặt nước loáng ánh nắng chói chang.

Bùi quản gia và cậu hai thỉnh thoảng nói chuyện lúa gạo, thương lái mua bán nông sản từ Trấn Giang đi Trấn Biên.

– Năm rồi, trên đó lập Dinh, đưa mấy ngàn binh từ Mang Thít vào. Sắp tới sẽ thêm nữa. Nhóm người Tàu ở Cù Lao Phố thấy động đã bắt đầu tản đi. Lại thêm mấy năm trước giữa họ cũng có khúc mắc, sẽ tản về miệt này nhiều.

– Ta cũng nghe nói vậy. Miệt Đông Hồ, Rạch Giá giờ do Mạc đại quan nhân trông coi, mong là không còn nạn cướp, giặc giã,..

A, Mại đại quan nhân, Mạc phu nhân,… không lẽ là?

Nhìn thấy mọi người như giật mình nhớ ra rồi nhìn mình dò hỏi. Bùi quản gia bất đắc dĩ cười nói:

– Đâu có nhiều Mạc gia vậy, đúng rồi.

A, mình vậy mà gặp được nhà quan lại rồi sao! Lại chính là Mạc đại quan cai quản vùng này.

Thông tin này làm mọi người chấn động, ai cũng có suy nghĩ riêng.

Bùi quản gia như có như không liếc nhanh quan sát khuôn mặt mọi người. Ông tự nghĩ “Biết được rồi, tiếp theo họ sẽ làm gì? Hai họ Bùi Mạc kết thông gia không phải ngẫu nhiên. Bên ngoài nhìn vào thì Mạc gia giao thiệp rộng. Các thế lực nhà Chúa Đàng Trong, Tân Quốc Vương Chân Lạp hoặc Xiêm La, Lao Ai đều có giao tình với họ Mạc, lại thêm nhóm người Tàu vượt biển lưu vong.

Nhưng thực hư, lợi hại bên trong không phải ai cũng rõ. Tiềm lực Bùi gia không nhỏ, nếu không thì làm sao nhị tiểu thơ Bùi gia làm chánh thất họ Mạc được? Mấy mươi năm nay Bùi gia đã âm thầm gầy dựng thế lực nơi này. Trong tối, ngoài sáng khó người nào biết tường tận.

Thật ra vị Mạc gia kia cũng có mắt nhìn người, chuyện ông chủ động đề nghị kết thân luôn khiến Bùi lão gia suy đoán, Mạc gia biết được bao nhiêu về Bùi gia? Cái vỏ bọc thương gia bên ngoài che dấu bên trong là gì? Thân sơ thế nào?

Nhưng chuyện kết thân ông vẫn quyết làm. Ban đầu Tam thiếu phản đối, nhưng không làm thay đổi được lão gia. Mấy năm nay tam thiếu gia vẫn còn bất mãn, thành ra xuôi ngược bên ngoài, ít về TRấn Biên. Nhị phu nhân tìm cách theo con trai về đây, lão gia cũng không quản. So tài trí, bản lĩnh thì thế hệ Bùi gia tiếp theo chỉ trông cậy vào Tam thiếu gia. Lão gia không thể già néo đứt dây. Ông tạm lui để mặc con trai ngang dọc.

Chuyện trong ngoài xưa nay ít người phân biệt rõ, Bùi quản gia hy vọng một nhà tiểu cô nương biết lẽ hơn thiệt.

Vị phu phân đó là Mạc phu nhân sao? Còn trẻ như vậy? Nếu theo cô nhớ thì Mạc đại nhân năm nay đã ngũ tuần rồi, vị phu nhân kia còn chưa quá ba mươi. Mạc phu nhân không phải vợ đầu tiên, chắc cũng phải người trẻ nhất trong nhóm thê thϊếp của ông rồi. Lần mang thai này lại là tiểu thơ, hai nhà Bùi Mạc có thất vọng không?

Haiz, những chuyện này sao tự nhiên lien quan đến nhà mình rồi? Nên cách xa một chút, Mai tự nhắc trong lòng. Mai nhìn sang cậu hai và nương hơi im lặng, ít lời hơn. Xem ra là mọi người cùng ý nghĩ rồi. Muốn dựa hơi người sang, cũng cần có bản lĩnh. Nhà mình làm nông dân sống nhàn nhã với cá đồng tôm sông, ngày đủ hai bữa là tốt rồi.(1): Mang Thít là tên gọi cũ của Phan Thiết ngày nayChương 118: Xôi gà chiênHơn một canh giờ thì đến ngả bảy Phụng Hiệp. Đoạn này chỉ là một nhánh của Hậu Giang nên mặt sông nhỏ hơn nhiều. Nhớ tới chuyện tai nạn hôm trước ở khúc sông này, vậy lúc nước lũ về càng có nhiều ghe xuồng chìm sao? Xuồng phải lớn như vầy mới mong lèo lái qua cơn lũ. Mai không khỏi chăm chú nhìn từng chi tiết chiếc ghe, cô thầm ghi nhớ trong đầu.

Thấy chiếc ghe lớn tiến vào, mấy nhà đầu làng đều đi ra nhìn. Chuyện về nhà hôm nay không báo trước nên ông bà ngoại, mợ hai và tam tẩu đều ra ruộng. Trong nhà chỉ có a Cơ và hai nhóc Duyên, Phúc đang cho gà vịt ăn và đùa giỡn trong sân. Vĩnh ca và thất thúc đi lên trước vào nhà sắp xếp bàn ghế. Nương đi vội ra sau bếp bắt nồi nấu nước, kêu a Cơ chạy ra ruộng mời ông bà nội về nhà.

Nhà trên cậu hai mời Bùi quản gia vào trong bàn khách dài giữa nhà. Nhóm mấy người lính thì tự giác chia hai nhóm. Nhóm đứng gác ngoài cổng, nhóm theo vào ngồi một bên bộ ván. Chưa uống hết chung trà thì ông bà ngoại về. Ông ngoại sửa lại khắn vấn đầu rồi bước ra chào khách. Bà ngoại thì vào bếp với nương, nhỏ to kể chuyện đã xảy ra.

Nhà trên Bùi quản gia hỏi thăm gia cảnh, chuyện vãn vài câu thì nói muốn đi xem mấy cái ghe. Bên ngoài cầu ván, mấy đứa nhỏ đang ngắm nghía cái ghe lớn đẹp, còn ganh tỵ với a Vĩnh và Mai được đi trên ghe lớn. Lúc Bùi quản gia đi ra nghe mấy đứa nhỏ vẫn còn rì rầm nói chuyện thì quay lại nói với ông ngoại:

– Nguyễn bá để các cháu lên ghe luôn đi.

– Thật ngại quá.

– Không có gì, đừng khách khí.

Nói rồi ông còn ý tứ nhìn Mai và a Vĩnh một cái. Cậu hai hiểu ý gật đầu, dặn mấy đứa:

– Tạ ơn Bùi quản gia. Lên ghe không được phá đó.

– Dạ.

Ngoài cửa tiệm vang lên tiếng cưa đυ.c, xẻ gỗ. Sinh ca, Bình ca và Hữu ca đổ mổ hôi dầm dề, sắp đến giờ nghỉ trưa, chắc là làm ráng. Ông ngoại đi trước dẫn giải mấy câu về chuyện mở tiệm, xưởng đóng thì ở nhà Mai ở tận Đông Hồ.

Bùi quản gia vừa nghe vừa đưa mắt quan sát xung quanh. Vị trí đúng là rất thuận lợi, chuyện sửa ghe cho khách thương hồ qua lại cũng kiếm được tiền, lại làm bước dẫn cho khách đến mua ghe. Đúng là khéo tính toán.

Trên sông có chiếc ghe nhỏ cập vào bờ, là một lão ông và thiếu niên. Lão ông nhanh nhẹn bước lên chào ông ngoại. Cậu hai và Sinh đều đi lên chắp tay thưa. Thì ra là ông nội của tam tẩu, là bằng hữu thâm giao của ông ngoại.

Nhóm người không vào trong nhà khách mà dừng lại xem mấy cái ghe. Bùi quản gia và nhóm tùy tùng đi theo đều ngạc nhiên nhìn hình dáng cái ghe nhỏ, thật sự mới lạ, bộ dạng ngồ ngộ.

– Có thể cho người của ta lên thử không?

– Đương nhiên, mời Bùi gia.

Bùi quản gia gật đầu, một người lính chắc là trưởng đội bước lên ghe chèo thử. Ông nhìn các “bậc thang” trong lòng ghe, nhanh chóng nắm được công dụng của nó, đứng trụ vững vàng trên các bậc rồi chèo đi. Nhìn xem ông không tốn chút sức nào, lượt về ông lại ngồi xuống chèo thử, chiếc ghe cứ thế lướt nhẹ trên mặt nước.

Ông gật đầu nhìn Bùi quản gia. Ông ngoại nhìn bóng nắng chắp tay mời:

– Mời Bùi quản gia ở lại dùng bữa cơm đạm bạc.

– Đa tạ Nguyễn bá, ta phải về trấn có việc. Hẹn Nguyễn bá lần sau sẽ làm phiền.

Miệng nói là muốn về nhưng chân ông không bước ra. “Còn chuyện gì sao?” Mai thầm nghĩ trong bụng, “không phải muốn đến biết nhà biết chỗ thôi sao? Muốn đền ơn?”

– Bùi bá bá thấy ghe này không? Rất tiện lợi mà giá lại rẻ nữa, chỉ có nhà cháu đóng được thôi. Bùi bá đi nhiều nơi, quen biết nhiều, nếu thấy có ai cần, giúp giới thiệu đến mua. Nhà cháu rất cảm ơn.

Nghe Mai nói xong, ông ngoại tiếp lời:

– Phải, nhà lão mới ra làm ăn. Sau này nhờ Bùi quản gia lưu ý một chút.

“Chỉ vậy thôi sao? Không đòi hỏi gì thêm à?” Nghĩ vậy, nhưng ông chắp tay cười nói:

– Đương nhiên, Nguyễn bá chớ khách sáo. Hay là như vầy đi, ta mua chiếc ghe này về dùng việc trong nhà. Sau này có ai cần ta cũng dễ dàng nói chuyện.

– Vậy thì đa tạ. Ghe này để giăng câu thả lưới trong rừng thưa, hoặc vào mùa nước nổi là tiện nhất.

Chuyện mua bán rất nhanh, Bùi quản gia trả tiền xong thì thong thả từ biệt lên ghe về. Haiz, tiễn xong “khách quí” về rồi, nhóm người lớn thở phào nhẹ nhõm. Lần này bán được chiếc ghe nhỏ mà cả nhà không vui chút nào. Ông ngoại và cậu không hiện ra nét mặt nhưng ánh mắt có vẻ cảnh giác. Là lo lắng chuyện Bùi gia “muốn” gì sao? Hai bên đều thăm dò qua lại, Bùi gia bên kia chắc cũng muốn biết nhà Mai sẽ “đòi hỏi” trả ơn cứu tiểu thơ đó bằng cái gì đây mà. Trời ơi, không cần nghĩ nhiều như vậy, đợi vài ngày họ biết là nhà mình không mong được hồi đáp thì sẽ yên lòng thôi. Chỉ là có một chuyện “bí mật” về cái ghe nhỏ cô cần nói trước với ông ngoại và cậu, phòng hờ thôi. Mai theo ghe về nhà ăn trưa rồi ngủ một chút.

Lúc cô ngủ dậy đã qua giờ mùi, nước lớn rồi, iếng bìm bịp kêu vang. A Vĩnh đã dậy trước đang lom khom ngoài vườn. Mai ra bờ hào chỗ a Cơ và hai đứa nhỏ vừa chăn vịt vừa nặn đất. Bầy vịt lớn nhanh, mỗi con đã được cỡ một cân rồi. Mấy đứa nhỏ vẫn còn bàn tán về chiếc ghe lớn sáng nay.

– Sáng nay tỷ được đi xe ngựa hả? đã không?

Mai hơi bĩu môi nói, ngồi xe ngựa lúc đường bằng thì được, gặp đường đất gập ghềnh thì trời ơi, đau mông đau lưng muốn chết. Mấy đứa nhỏ ha ha góp lời vào. A Phúc hỏi:

– Tỷ, nhà mình đóng được ghe lớn giống vậy không? Tỷ vẽ đi, cho cha đóng.

– Chưa được đâu,

“Tưởng dễ lắm hả nhóc?” với nữa ghe lớn thì cần nhiều người chèo, không thấy ghe đó cần sáu người mới chèo được, nhà mình ai chèo đây? Nhưng mà mai đang nghĩ đến cái ghe đủ lớn hoặc là cái bè thành cao hơn để chở ghe mới từ Đông Hồ vào đây. Khách mua thấy ghe mới toanh chưa hạ thủy sẽ thích hơn nhiều là ghe đậu dưới bến, đúng không? Rồi còn chuyện lật ghe nữa, nghĩ cách để ghe nhà mình an toàn hơn, giảm tai nạn.

Buổi chiều lúc từ cửa tiệm về Hữu ca chọc Mai,

– Nghe nói là mấy ngày nay a Mai oai lắm nha, được làm khách sang.

Ha ha, là thất thúc kể rồi. Mấy hôm nay Mai thấy thúc ấy rất thích nghe chuyện từ mấy thúc bá lính tráng kể, còn theo cậu đi tửu lâu nữa. Lúc chiều ở tiệm không khỏi khoe khoang những chuyện được nghe. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn; thất thúc nghe học nhiều là chuyện tốt.

Ha, đúng là mấy hôm được ăn gạo trắng, cơm thịt ngon miệng. Mai lại gần nhỏ giọng hỏi nương. Nương nghe cũng động lòng nhưng còn ngần ngừ, mợ hai cười nói:

– A Mai muốn ăn món gì hả? Coi mợ làm được không, mợ làm cho.

Mai cười cười dạ nhỏ, cô không trả lời mà nhìn nương. Nương đành nói:

– A Mai nói muốn làm món ngon đãi ông bà ngoại, là nó thấy nhà bếp Bùi gia làm. Chỉ là hơi tốn kém.

Mai biết nương cũng muốn làm món ngon cho ông bà ngoại, đúng là làm món này hơi “hoang phí” chút.

– Là món gì? Cũng không phải là không ăn được.

Có cậu hai lên tiếng, nương nói cách làm; là món xôi chiên gà. Thật ra món này không phải Mai thấy nhà bếp Bùi gia, chưa chắc họ đã biết món này. Xôi chiên gà là món khoái khẩu nhất của Mai ở hiện đại. Xôi chiên vừa giòn lớp ngoài vừa mềm lớp trong, thịt gà ngon lại béo, a, nghĩ tới đã thèm rồi. Món này nguyên liệu không khó tìm, gà và xôi nhà ngoại đều có. Chỉ có dùng dầu hơi nhiều, lúc chiên phải đổ ngập con gà và xôi thì mới ngon. Mai đã nói nương là chặt con gà làm bốn mới chiên, đã “tiết kiệm” dầu hơn rất nhiều rồi.

Mấy ngày nay ở chỗ Bùi gia ăn được món ngon, cậu hai và nương đương nhiên muốn người nhà cùng hưởng nên cuối cùng là đồng ý làm xôi chiên gà ăn sáng mai. Mấy đứa nhỏ hí hửng chờ món ăn mới, sốt sắng bắt ba con gà, ngâm nếp.

Buổi tối nay Nguyễn gia yên bình trôi qua. Nhà Bùi gia ở Trấn Giang thì không được vậy. Bùi tam công tử ngồi trong phòng nghe quản gia báo mấy chuyện trong ngày. Đến chuyện đi Nguyễn gia thì hỏi thêm:

– Thúc có hỏi thăm xung quanh không?

– Bẩm có, Nguyễn gia cũng được lòng người trong làng. Đúng là mới mở bán ghe gần đây, những chuyện khác không có điều tiếng gì. Chỉ là công tử xem cái ghe nhỏ này thử. Ta thấy rất lạ, với dạng đó mà giữ được thăng bằng tốt vậy thì chưa từng thấy.

Công tử gật đầu, ra dấu chú ý.

– Lúc chiều a Bàn và nhóm lính chèo thử mấy lượt, nếu dùng loại này đi tuần trên mấy vùng đồng bưng rất thuận lợi. Vận chuyển quân dược hay truyền tin rất nhanh, lại kín đáo.

Vừa nghe đến đó Tam công tử càng tập trung. Trương Bàn là đội trưởng trong nhóm quân thân cận, là người có kinh nghiệm dày dạn, nếu đã nói vậy thì chiếc ghe này quả đáng xem. Tam công tử nghĩ vậy liền đứng dậy, ra hiệu đi ra ngoài xem cái ghe. Bên ngoài trời đã tối hẳn, trăng hạ tuần đã qua khỏi ngọn tre.

Để làm được món xôi gà chiên đúng bữa ăn sáng, ngoại, nương và mợ hai, phải dậy từ canh tư. Ba người nhóm bếp, làm gà, nấu xôi. Canh năm thì người trong nhà đã dậy, tam tẩu từ ngoài tiệm chống ghe vào phụ. Mùi gà và xôi hấp cách thủy bay ra thơm phức. Mấy đứa nhỏ chạy xuống bếp dòm ngó, mợ hai theo lời Mai nói khéo léo bọc xôi xung quanh gà rồi thả vào nồi dầu vừa sôi bắt đầu chiên. Lúc này mùi thơm càn lan rộng, bụng Mai đã réo inh ỏi. Hơn một năm rồi mới được thấy lại món này.

Hôm qua trong nhà chỉ có hai con ga mập, mợ hai qua hàng xóm mua được con gà mái mập mạp hơn ba cân. Sáng nay lại tốn nửa nồi dầu để chiên, nương gõ đầu Mai nói “Phá của”. Đúng là món ăn nhà giàu, đủ công phu mà hao tốn không ít. Bình thường nhà nào có tiệc mới dám ăn uống như vầy. Nói ra bên ngoài biết chắc bị đồn đại dữ lắm.Chương 119: Bí mật gia truyềnĐợi ông ngoại và cậu hai ra thăm ruộng về cả nhà ngồi vào hai bàn ăn. Ngoài xôi gà chiên là món chính, vẫn có cơm cá kho và canh rau như thường lệ. Ông ngoại nhìn một góc tư con gà “làm nhưng”, bên ngoài là lớp xôi chiên giòn thật thơm. Ông bẻ cái đùi đưa cho a Phúc, rồi nói mọi người ăn cơm. Cậu hai cũng bẻ cái đùi cho a Duyên. Hai nhóc hớn hở ăn đùi gà, bẻ xôi ăn cùng. Mấy đứa nhỏ đều có đùi để ăn.

Mai ngồi bàn sau cũng được bà ngoại bẻ cho cái đùi gà mập, thịt dày xương nhỏ. Mai híp mắt tay xé thịt gà, tay gắp miếng xôi. Dùng dầu dừa để chiên, mùi vị hơi khác nhưng như vầy đã đủ ngon rồi.

Chưa ăn hết đùi gà thì ngoài sân có tiếng chân người, rồi nghe tiếng chào hỏi. Tam tẩu đứng dậy ra ngoài rồi vào nói:

– Là cậu ba và a Hào tới.

– Vậy hả? Con coi dọn thêm chén đũa đi.

Bà ngoại nói rồi định đứng dậy thì có một người đàn ông cỡ hơn ba mươi cùng một thiếu niên đi xuống thưa.

– Bá mẫu khỏe! Tỷ, cô ba.

– Ừ, gặp bữa ăn cơm cháu.

– Dạ,

Nói rồi hai người lên bàn trên, a Duyên và a Phúc bị đuổi xuống bàn dưới. Ha ha, sáng nay Mai đã kéo hai đứa ngồi dưới này mà không chịu. Chạy lên bàn trên rồi cũng bị kêu xuống. Ổn định xong chỗ ngồi thì nghe tiếng ông ngoại hỏi chuyện.

– Dạ, hôm qua cháu ngoài ruộng cả ngày. Tối về nhà mới hay nhà bá có khách, nghe Trần bá nói không có gì, cháu nghĩ chạy qua xem sao.

– Ừ, không có gì đâu. Cháu đã dặm lúa hết chưa. Bên đó nghe nói bị mưa lớn đầu mùa chết nhiều hả?

– Dạ, nhà nào cũng bị xoáy hốt một mảng. Cháu dặm gần xong rồi.

– Thiếu mạ thì qua đây lấy.

– Dạ, nhà con chắc còn đủ.

Bàn dưới bà ngoại dặn mợ hai:

– Còn một nữa con gà, để lại a Hào mang về cho con Bạch.

– Nương, hay để lần sau làm rồi cho.

– Con cứ gói lại đi, lần sau cái gì.

Mai nhớ lại hình như hôm đám cưới Sinh ca có nhà cậu ba, em trai mợ qua phụ giúp. Chỉ là không nhớ có ai tên Bạch không, chắc là con út của cậu ba.

Hai chị em mợ hai mồ côi cha mẹ từ nhỏ, mợ hai đã từng vất vả cuốc đất khai hoang, mượn từng hạt giống, củ khoai gieo trồng. Tiếng đồn mợ giỏi giang cần mẫn ai cũng biết. Năm đó bà ngoại có việc sang làng bên, giữa đường trúng gió ngất bên bờ rạch, nhờ có mợ đi ngang vội cõng bà lội ruộng băng đường đến lang y kịp lúc. Ân nghĩa hai nhà bắt đầu từ đó, năm sau ông bà ngoại nhờ người mai mối cho cậu hai. Có nhà ngoại giúp đỡ, còn phụ trợ để cậu ba thành gia thất, cuộc sống ngày càng ấm no. Giao tình hai nhà càng sâu.

Mai chợt nhớ đến Trần lão ông hôm qua. Từ lúc ông ấy đến và sau đó ra về, Trần lão ông không nói gì, chỉ đứng sau lưng nghe ông ngoại nói chuyện. Dáng người ông hơi gầy, thấp hơn ông ngoại một chút. Quần áo đơn sơ, râu tóc đã bạc, đôi tay gân guốc, gương mặt xương xương. Ông cứ ở đó, không một lời dư thừa nhưng ai cũng hiểu ông đến làm gì. Nghe tin nhà ngoại có khách lạ, lại có quân lính, không biết lợi hại như thế nào nhưng ông vẫn đến, làm chỗ dựa cho bạn thâm giao.

Cậu ba cũng vậy, nghe tin thì chạy đến. Phần tình nghĩa này ngàn vàng khó mua được. Chẳng trách ông bà ngoại đều quí, coi cậu như con trai trong nhà.

Buổi sáng ăn xôi sẽ no cả ngày, Mai xoa xoa cái bụng thấy thỏa mãn. Chuyện cái ghe nhỏ không biết khi nào mới bị phát hiện. Mình nên nghĩ xa hơn, làm các bước chuẩn bị đi. Nghĩ vậy Mai lên nhà trên nói nhỏ vào tai cậu hai. Cậu gật đầu thưa ông ngoại.

– Cha, con tính để a Hào qua phụ sửa ghe. Có thêm người làm để a Bình về. Ở lại lâu cũng không tiện.

Ông ngoại chưa gật đầu mà quay sang như hỏi ý cậu ba, cậu đứng dậy chắp tay nói:

– Được vậy thì tốt quá. Cháu sẽ để a Hào qua, nhờ bá phụ và tỷ phu chỉ dạy nó.

– Được, ngày mai tốt cháu dẫn qua sớm, cúng lạy tổ rồi học luôn. Mấy lúc mùa màng thì về làm ruộng.

– Dạ, đa tạ bá phụ.

– Ừ, thiếu mạ thì qua đây lấy, đừng có bỏ đất không mà tội.

– Dạ, cháu biết.

Mặt trời vừa lên thì cậu ba và a Hào lên ghe đi về. Mấy đứa con trai ha ha hi hi hẹn gặp hắn ngày mai nữa, thiệt là.

Ở nhà sau Phương thị không khỏi xúc động. A Hào đi theo học đóng sửa ghe thì nhà đệ đệ sẽ khá lên mấy hồi. Bao nhiêu năm nay, nhà bên này làm chỗ dựa cho tỷ đệ mình, ân nghĩa này làm sao báo đáp.

Từ ban đầu nhà chồng đã không chê bà mồ côi, nhà cửa trống không, ruộng đất không đủ ăn, áo quần không đủ mặc. Một chút ơn cõng mẹ chồng băng ruộng có đáng gì. Bà luôn dặn mình hết lòng hết dạ đối đãi nhà chồng. Bà luôn cảm thấy được hồi đáp gấp mấy lần công mình bỏ ra, là cha nương đã khuất để phước đức nên tỷ đệ mới có quý nhân giúp đỡ. Từ khi ở đây, công việc chính của Mai là dạy chữ và con số cho mấy đứa con trai. Việc nhà, giặt giũ mợ hai đều không để cô làm, cũng không bắt cô học vá áo, thêu hoa, làm nút như ở nhà. Mai càng thích, chỉ là cô nhớ vườn cây thuốc và mấy bộ chữ mẫu ở nhà.

Như ngày thường, cô theo ghe Bình ca ra cửa tiệm. Mấy hôm nay lo sửa cái ghe của Đoàn bá. Gỗ càng quý càng phải cẩn thận, làm hư là phải mua gỗ mới, lỗ công lại lỗ tiền. Cho nên chỉ có Bình ca tỉ mẩn làm. Sinh ca và Thất thúc thì quét sơn, vẽ hiệu cho mấy cái ghe mới, còn đóng hai hàng “ray” kéo ghe lên xuống nữa.

Cuối tháng sáu, mưa không lớn nhưng cứ chợt đến chợt đi. A Phúc và a Duyên thì ngoài chuyện cho gà vịt ăn thì rủ nhau lội rạch bắt cá bắt tôm. Mỗi lúc đến giờ học chữ thì vặn vẹo cả người như bị kiến bu, thiệt là bực mình.

Hôm trước Mai thấy loại giấy dó sơ tương đối rẻ, còn có xấp giấy màu nâu đυ.c lổ sẵn làm từ lá cây thốt nốt, giá cũng không mắc. Mai đang muốn thử làm loại ghe lớn, nên các bản vẽ sẽ nhiều, cô cũng cần ghi lại các chỉnh sửa nữa, không thể ghi nhớ trong đầu được, lỡ nhầm lẫn thì hại nhiều hơn. Phải xin nương tiền mua mới được, không thể quá tiết kiệm.

Nghĩ là làm, cô lại chỗ a Bình đang đυ.c đẽo, đưa ly nước rồi rù rì nói chuyện. Hôm trước a Bình chỉ thấy chiếc ghe lớn Bùi gia đã mê mẩn lắm rồi, nếu nhà mình đóng được thì đã biết mấy.

– Ừ, để ca hỏi ý cha trước, mà muội vẽ lâu không?

Mai không vội trả lời, chỉ liếc hắn. Bộ tưởng cô là thần thánh sao, cái ghe đó cấu tạo và vận hành khác hẳn loại ghe đơn giản nhà mình đang làm.

– Phải tốn công rất nhiều, còn phải tìm mua cây gỗ lớn, ghép gỗ nữa đó.

Hắn gật đầu hiểu ý, đúng rồi, đâu có dễ dàng vậy.

– Nghe nương nói cha đã đặt thêm hai cái cưa lớn, đυ.c, bào nữa. Cũng tốn nhiều tiền rồi. À, mà nhà mình còn tiền bán mật ong và đèn cầy, chắc còn đủ.

Ha, thì ra a Bình cũng để ý chuyện tiền bạc trong nhà, không phải là không biết gì.

Buổi trưa tam tẩu chống ghe mang cơm qua tiệm, mấy đứa nhỏ đều ngồi dưới sạp tre gần bếp ăn. Hôm nay có cơm chiên với tôm, rồi cá lòng tong chiên giòn ăn với nước mắm chua ngọt, dùng dầu lúc sang chiên gà còn lại. Mợ hai và tam tẩu chế biến thêm mấy món chiên để tận dụng dầu. Đúng là ăn một bữa ngon, lỗ cả ngày công. Lúc ăn cơm mấy đứa nhỏ còn nhắc không biết khi nào lại ăn được món xôi chiên gà nữa! Ha ha, coi bộ hơi khó rồi!

Trời hơi âm u, gió trên song thổi vào hơi lạnh. Mai đang ngồi trên bộ ván học chữ thì nghe a Duyên la lớn.

– Tam ca ơi, có ghe lớn. Đến nhà mình sao?

– Đâu?

Mấy đứa đều đi ra sân ngóng nhìn về mặt sông. Đúng rồi, chiếc ghe lớn hôm qua đang rẽ nước tiến vào. Hình như người đứng mũi ghe là Bùi đại nhân. Có chuyện lớn rồi, Mai hơi nhíu mày, không nghĩ họ phát hiện nhanh vậy. Cũng may tối qua cô đã nói với ông ngoại và cậu rồi.

Sinh ca lớn nhất trong đám, ca ấy bước lên chắp tay chào Bùi đại nhân nhưng không khỏi hơi căng thẳng. Mấy đứa nhỏ phía sau làm theo chắp tay chào.

Bùi quản gia tiến lên nói:

– Đây là Tam thiếu gia, muốn gặp Nguyễn lão bàn chút chuyện. Phiền tiểu điệt mời ra đây được không?

– Được, mời vào trong ngồi.

Thấy Sinh ca ra hiệu, Hữu ca và Bình ca nhanh chân chạy ra ghe chèo về nhà. Bốn người lính theo hầu chia thành hai bên đứng nghiêm trang trước sân. A Duyên, a Phúc vừa sợ vừa hiếu kỳ, cứ lấm lét nhìn họ. Mai kéo tay hai đứa xuống bếp, thế nào bà ngoại hoặc nương cũng ra nấu nước. Cô nhóm bếp trước vậy. Nhà trên có thất thúc cũng “quen” với Bùi quản gia.

Rất nhanh, ông ngoại và cậu hai ra tới, có bà ngoại ra theo. Thấy Mai đã nấu nồi nước bà gật đầu ý là để bà lo liệu tiếp.

Nhà trên, sau mấy câu giới thiệu, chào hỏi thì Bùi đại nhân nói:

– Hôm qua, Bùi quản gia mua cái ghe kiểu mới, ta rất hài lòng. Muốn hỏi thêm chút việc. Không biết là ai nghĩ ra cách đóng ghe này?

Ông ngoại không nhanh không chậm đáp:

– Là nhà con rể của lão, ở tận Đông Hồ đóng. Loại ghe này rất tiện dụng, lại nhẹ nhàng. Nay được Bùi đại nhân vừa ý thật là vinh hạnh.

– Là nhà tiểu cô nương sao?

Bùi đại nhân nhìn thẳng vào Mai hỏi.

– Dạ phải, đại nhân. Là nhà cháu học hỏi kinh nghiệm, cộng thêm vài mẹo nhỏ gia truyền nữa. Bùi đại nhân tinh thông, chắc đã phát hiện ra. Có thể giữ kín được không? Mỗi cái ghe nhỏ này bán mười hai quan, không lời nhiều nhưng cũng đủ nhà cháu làm kế sinh nhai.

Người ta đã nói như thế rồi, Bùi đại nhân à, ngài vừa lòng rồi, phải không?

Bùi Nghĩa không nghĩ tiểu cô nương dùng mấy câu đã “chặn” miệng mình. Người ta đã nói đó là bí mật gia truyền, là chỗ kiếm ăn sinh sống rồi, không lẽ mình hỏi nữa hay đập bể nồi cơm người ta?Chương 120: Khẩn trương sắp xếp việc nhàLần này Bùi quản gia tận tai nghe cô nương thản nhiên nói lý lẽ rồi. Có muốn tiến tới cũng không được, huống chi chuyện sức khỏe của Mạc tiểu thơ còn phải nhờ cậy người ta.

– Được, ta hiểu được.

Haiz, Mai mỉm cười nhẹ nhõm. Ông ngoại và cậu hai cũng thở ra, xem qua vị này cũng không phải ỷ mạnh hϊếp yếu, cũng hiểu lý lẽ. Bùi Nghĩa liếc nhanh phản ứng người Nguyễn gia, xem ra chỉ có mấy người là biết bí mật trong hai lớp ván đáy ghe.

Tối qua lúc tháo chiếc ghe ra mọi người ngạc nhiên nhìn mấy món được sắp xếp bên trong. Chắc chắn mấy thứ này đặt vào để làm cái ghe giữ cân bằng tốt hơn, nhưng nó hoạt động thế nào? Quan trọng hơn là ai nghĩ ra?

Xưởng đóng ghe ào cũng có vài mẹo nhỏ giữ làm bí mật của mình. Mỗi chiếc ghe ở mỗi xưởng xuất ra luôn có khác biệt, nhưng đây là cơ cấu cân bằng rất lạ, đơn giản mà hiệu quả. Thật sự là bí mật gia truyền của Lê gia ở Đông Hồ sao? Từ Đông Hồ đến đây mấy ngày đường, Bùi gia vẫn chưa vươn tay tới đó, cũng nên để tâm là vừa.

Bùi quản gia thấy căng thẳng đã qua, tươi cười nói:

– Bùi gia ở Trấn trên có mấy mẫu đất ruộng trong vùng trũng. Dùng loại ghe này quả thật tiện lợi. Muốn đặt thêm hai chục chiếc, không biết có thể xong trước khi nước lên năm nay không?

Hả, hai chục chiếc, trúng mánh rồi!

Ông ngoại nhìn cậu hai như hỏi ý. Cậu chắp tay nói:

– Hai chục chiếc quả thật hơi nhiều. Năm nay nước lên sớm, có thể giao trước độ mười, mười lăm trước được không? Ta đương nhiên sẽ dốc sức làm, nhưng thực sự không dám hứa chắc.

Ông ngoại như cân nhắc, rồi tiếp lời cậu.

– Hơn nữa, đường từ Đông Hồ đến đây xa xôi, không thể chuyển nhiều trong một lần. Có thể gây chú ý, nhà lão đơn chiếc, gây quá nhiều chú ý không tốt lắm.

Mai gật gật đầu, ông ngoại nói đúng ý cô. Mà cô tin là Bùi gia cũng sẽ không thích chuyện phô trương này. Dùng hai mươi chiếc ghe đi thăm đồng trũng sao? Cô không tin đâu.

Bùi quản gia gật đầu hô phải, nói:

– Nguyễn bá nói phải. Như vầy đi, mỗi lần giao khoảng ba hay năm cái là được. Chỉ giao đến bến ở trấn trên, phần còn lại ta sẽ tiếp.

– Vậy thì tốt quá, chuyện này coi như thành. Đa tạ Bùi đại nhân chiếu cố.

Ông ngoại điềm đạm trả lời, còn chắp tay khách khí nói.

A, còn chưa bàn chuyện đặt cọc, thanh toán sao nữa mà? Hơn hai trăm quan lận đó ông ngoại. Mai đưa mắt qua lại nhìn mấy người lớn, mua bán mà, nên bàn chi tiết sòng phẳng mới khỏi mích lòng sau này chứ, mà không ký văn tự giấy tờ gì sao.

Bùi Nghĩa nhìn ánh mắt tiểu cô nương sáng rực lên lúc nghe chuyện hai chục chiếc ghe, biểu hiện nét mặt đó rất rõ ràng. Thì ra cũng tham tiền chứ không phải bất cần. Nhưng mà làm mua bán thì nên là như vậy. Ông gật đầu ra hiệu cho quản gia.

– Đây là năm mươi quan tiền đặt trước. Sau này khi giao ghe thì sẽ trả tiền thêm. Nguyễn bá thấy được không?

– Tất nhiên được, lão không rành chữ nghĩa, Bùi quản gia có văn tự không?

– A, không cần đâu. Cứ theo giá là 240 quan, nhớ như vậy là được.

– Đa tạ, đa tạ.

Cậu hai bước lên nhận tiền rồi trao túi cho Mai đứng sau lưng ôm. A, năm mươi quan, là mười đỉnh bạc, có thể mở ra đếm không ta? Mai đưa tay lần lần mấy đỉnh bạc mát lạnh qua lần vải.

Công sức mình nghĩ ra “mẹo” giữ thăng bằng cho cái ghe hột vịt không uổng chút nào. Nhìn từ bên ngoài ai cũng nghĩ cái ghe dễ lật ngang, nhưng Mai đã thiết kế ghe có hai lớp ván đáy, ở giữa hai lớp ván là một vài chi tiết nhỏ để ghe tự cân bằng khi người chèo đứng nghiêng, hoặc với tay nghiêng người khi đi câu, giăng lưới. Nếu không gặp sóng lớn hoặc lực xô ngang quá mạnh thì bảo đảm ghe không lật được.

Những nhà bình thường, mua ghe về đâu dám “bửa” ghe ra xem dưới đáy làm gì. Còn những xưởng ghe khác, nhìn thấy hai lớp đáy và mấy chi tiết bên trong thì sẽ mất một đoạn thời gian mới hiểu và bắt chước. Lúc đó nhà Mai đã bán được một số ghe, có tiếng tăm rồi nên cô không ngại.

Nhưng Bùi gia lại khác, hôm qua thấy Trương Bàn thúc gật đầu hài lòng, Mai đoán họ sẽ xem xét kỹ cái ghe. Mười hai quan với họ không là gì, lại thêm họ đi nhiều biết rộng thì rất nhanh sẽ phát hiện ra bí mật dưới đáy ghe.

Ha ha, mà nhờ vậy nhà cô mới có đơn hàng này, tốt quá!

Trước khi ra về, Bùi quản gia cười hỏi cô:

– Lê cô nương ở lại đây bao lâu?

Gì chứ, mới mua giúp mấy cái ghe giờ đã muốn đòi hồi đáp rồi!

– Dạ, cháu và Vĩnh ca ở lại đây lâu. Bùi bá đừng lo lắng, chợ phiên tới cháu xin ông ngoại lên trấn thăm bá.

– Được, chúng ta vẫn ngụ ở dược quán. Tiễn khách xong, mọi người thở phào vừa nhẹ nhõm vừa vui mừng. Đúng là không quen giao tiếp người quyền quí, giữ lời giữ miệng còn giữ dáng, thật là mỏi.

Ông ngoại ngồi vào ghế dài hỏi Bình ca:

– Bình thường cha cháu đóng bao lâu một cái?

– Dạ, gần mười ngày một cái. Còn tùy có bao nhiêu người, gỗ còn hay hết nữa.

– Ừ, con thu xếp về nhà phụ đóng, nếu làm xong trước khi nước lên càng tốt. A Tấn, cháu cũng về.

– Dạ, ông ngoại. Mà hai ba hôm nữa mới sửa xong ghe cho Đoàn bá.

Ngoại ngẫm nghĩ rồi quay sang hỏi cậu hai:

– Con cần theo a Vĩnh, a Mai lên trấn nữa không? Họ vẫn muốn hai đứa nhỏ lên đó.

– Con biết, a Mai nói mỗi chợ phiên lên một buổi cũng không ngại. Để a Sinh theo về Đông Hồ luôn đi cha. Dù sao ngày mai có Hào đến.

– Ừ, cứ sắp xếp như vậy. Nhà mình còn rượu không? Ta phải ghé nhị thúc và Trần huynh nữa?

Câu sau là ông xoay qua ván hỏi bà ngoại.

– Còn, ông về nhà mới đi hay giờ đi luôn.

– Thôi, về nhà rồi đi.

Theo lời ông ngoại sắp xếp ai lo làm việc nấy. Mai đã giao túi bạc cho bà ngoại. Cô ở lại bên này xem Bình ca sửa cái ghe của Đoàn bá.

Lúc ăn cơm chiều, ông ngoại dặn mấy đứa không nói ra ngoài. Người trong làng có hỏi thì nói là họ đặt mua thêm ba chiếc, vậy thôi. Còn chi tiết sự tình thì ông chỉ nói cho trưởng họ và Trần lão biết. Ngày mai, đệ đệ tam tẩu thứ năm tên năm Âu cũng đến giúp làm ở tiệm.

Nương sắp xếp chuẩn bị về Đông Hồ, a Phúc cứ nhăn nhăn. Nhóc vừa muốn ở lại đây coi xe ngựa vừa muốn về với nương. Vĩnh ca nhắc nương đến xin với Đỗ lang y được ở lại đây. Ca ấy có muốn về cũng không được.

Nhà cậu ba đến thật sớm, mang theo con gà và một túi nếp. Bà ngoại cằn nhằn thì mợ ba cười cười dạ dạ nhưng nhanh tay đổ nếp vào thùng. Bây giờ Mai mới nhớ a Bạch là ai, là cô nhóc cỡ ba bốn tuổi, da dẻ trắng trẻo, người tròn vo. Nghe nói lúc mới sanh da con bé đã trắng như bông bưởi, nên cả nhà kêu là Bạch luôn. Lỡ da đen thì kêu là mực, hắc, à là miên. Ở hiện đại người ta thấy ai da đen cũng gọi là miên.

Bé Bạch đã nói được thành câu ngắn, rất ngoan ngoãn, hèn chi bà ngoại và mợ đều cưng. Đàn ông và mấy đứa con trai đều đi ra ngoài tiệm cúng để a Hào lạy tổ xin học nghề. Trong nhà, nhóm đàn bà dọn cơm, đợi cúng xong mới ăn sáng.

A Bạch thấy Mai và Vĩnh ca đang bắt sâu và hái lá già trong vườn quăng cho gà ăn cũng lần lần bước ra. Mai thấy bé thì ngoắc tay kêu lại gần. Góc vườn nhà ngoại có quài chuối đã sắp chín, nải phía dưới cùng đã ửng vàng. Cô hái mấy trái đưa cho a Bạch, con bé ngần ngừ rồi cũng lấy.

– Muội biết lột vỏ không?

Con bé gật gật nhưng không ăn, nói:

– Chút nữa, ăn cơm xong mới được ăn.

À, thì ra là vậy. Để cô bé ở đó chơi, cô quay lại công việc với Vĩnh ca.

– Ca có nghe nói cây nào làm thuốc nhuộm màu đỏ không?

– Để làm gì?

Mai kể Vĩnh ca chuyện hồng lạp. Bây giờ tháng sáu rồi, cô vẫn chưa biết làm sao để nhuộm màu cho mấy cây đèn. Chắc là không kịp cho dượng năm bán vào rằm tháng bảy này. Chuyện đóng ghe gần như chiếm hết tâm tư nên cô không nghĩ ra cách, đành phải vậy, đâu thể phân thân.

Tam tẩu thấy mợ ba thỉnh thoảng quan sát a Mai thì lại nghĩ tới mình trước đây. Lúc vừa về làm dâu, thấy mọi người có vẻ chiều chuộng a Mai thì không khỏi lo lắng. Mấy cô nương nhà khá giả thật khó chiều, không biết có làm khó dễ gì không? Nhưng mà dù sao cũng ở tận Đông Hồ, mình ráng chịu đựng vài ngày cũng xong.

Chỉ là mình lo nghĩ nhiều rồi. Căn bản a Mai rất ít lời, không để tâm nhiều chuyện mình làm. Thỉnh thoảng a Mai như suy nghĩ mông lung. Giờ thì mình ước gì a Mai ở đây. Mới chưa đầy tháng mà nhà chồng đã bán được mấy cái ghe, hôm qua là hai mươi chiếc, mấy trăm quan tiền. Chưa bao giờ mình nghe đến số tiền lớn như vậy, chớ đừng nói là thấy.

Tối qua nhìn a Mai sắp xếp mấy phần tiền mang về Đông Hồ, rồi để lại bao nhiêu cha chồng lo việc vận chuyển rất rành rẽ. Mình chỉ đứng phía xa nhìnmà đã hồi hộp lúc thấy mấy đỉnh bạc sáng loáng.

Tự nhiên mình có cảm giác hơi sợ Mai, giống như mợ ba bây giờ vậy. Nhờ Mai nhắc nên a Hào đến đây học đóng ghe, đệ đệ mình cũng vậy. Nếu chuyện mua bán thuận lợi, thì sẽ có tiền mua sắm thêm đồ dùng trong nhà; rồi làm ruộng, một nhà sẽ đủ ăn đủ mặc rồi.

Lúc ăn cơm Mai lại biết thêm chuyện vui. A Bạch đúng là dễ thương, rất háo ăn. Ai gắp cho cái gì cũng ăn hết, không nhanh không chậm từng món đi qua cái miệng nhỏ. Mà sức ăn cũng lớn, hai chén cơm với đồ ăn đầy ăn hết. A Phúc có vẻ rất thích con bé, mấy món bánh mứt trong nhà đều cho nhóc. Mà con nhóc không e ngại, ai cho đều nhận cất một bên. Ha ha, chắc là đồ ăn vặt cả ngày đây, hèn chi cả người tròn vo.Chương 121: Phi thương bất phúLần này số tiền mang về hơi nhiều, ông ngoại lo lắng nên kêu nương đợi Bình ca sửa xong ghe của Đòan Bá rồi cùng về một lượt. Cậu hai sẽ đưa đến chợ Bàu Sen ở gần nhà bằng hữu người Chân Lạp ngủ mới yên tâm. Đêm thứ hai ngủ nhà a Sao thì đỡ lo rồi. Nương dặn dò a Vĩnh và Mai đủ thứ, rồi mới lên ghe về Đông Hồ.

Ngày chợ phiên tiếp theo cậu hai chèo ghe chở Mai và Vĩnh ca lên trấn như đã hẹn. Phía ngoài dược quán đã mở cửa, phòng chẩn bệnh cũng đã hoạt động. Mai nhẹ nhõm, mọi chuyện chắc ổn rồi. Trần chưởng quầy thấy ba cậu cháu thì bước ra chào hỏi rồi dẫn đường vào trong.

– Trần lang y đã bắt mạch cho phu nhân và tiểu thơ sáng nay. Cả hai đều ổn. Giờ lang y đang chẩn bệnh cho khách. Nguyễn huynh có gặp không để ta báo lại?

– Đa tạ chưởng quầy, chắc không cần đâu. Chúng ta vào trong chào hỏi, không có việc gì cần kíp.

– Vậy thì được, Sáng hộ vệ kìa, để đệ ấy dẫn mọi người vào.

– Đa tạ.

Hôm nay, lính gác bên ngoài không nhiều như hôm trước. Chắc Bùi đại nhân không có mặt, Sáng thúc dặn mọi người đứng chờ rồi vào trong bẩm báo.

– Phu nhân đang nghỉ ngơi, các vị vào trong chờ một lát.

– Sáng đệ, ta có việc đến khách điếm tìm người. Nếu Bùi đại nhân hoặc Bùi quản gia đến nhờ đệ báo giúp là chúng ta có đến thăm. Chúc mừng phu nhân và tiểu thơ mạnh khỏe, được không?

– Được. Ta nhất định sẽ bẩm báo.

– Đa tạ.

Thị trấn Trấn Giang này cũng không nhỏ, khách điếm của Đoàn bá ngụ không gần lắm, đi gần một khắc mới tới. Đi bộ liên tục hơi mệt, nhưng Mai lại biết thêm chỗ bến sông bên này còn lớn và nhiều ghe xuồng hơn ở chợ mé kia. Thì ra chợ bên kia là của người dân quanh vùng đến mua bán lẻ những món nhà mình làm. Chợ bên này mới là chợ dành cho thương lái, thương hồ đến làm mua bán lớn. Có mấy chiếc ghe lớn đang đậu trên bến. Bên hông có vẽ chữ hình như là tên của hãng buôn Thuận Giang, đặt tên cũng hay.

Đối diện bến sông là hai tòa nhà hai tầng làm khách điếm. Cậu hai đến xin gặp Đoàn bá thì vị chưởng quầy nói:

– À, lúc nãy ta thấy hai vị đó lên xe bò ra ngoài rồi, có thể qua giờ ngọ mới về.

– Nhờ huynh nhắn giúp, ta họ nguyễn, đến báo là ghe của Đoàn huynh đã sửa xong. Nếu huynh ấy cần thì có thể đến lấy ngay.

– À, được được.

Hình như hôm nay “không phải ngày tốt” nên không gặp được ai. Thấy hai đứa nhỏ đã thấm mệt, cậu dẫn vào quán nước nhỏ cạnh khách điếm gọi trà và nước mát. Nước mát là loại nước được nấu từ rễ cỏ tranh, mía lau và hai ba loại cỏ nữa. Uống vào giúp cơ thể bài độc, lợi gan. A Vĩnh nhấm nháp rồi đoán già đoán non mấy loại cỏ được nấu chung.

– Cậu, bò mắc tiền không? Mà cháu không thấy trâu?

– Giá một con bò tơ kéo xe cũng gấp năm lần con heo, bò trưởng thành mà cày ruộng còn mắc hơn. Chỉ có vùng ngoài mới lai giống được. Trâu thì lớn hơn nên giá cũng mắc hơn. Ở đây có tiền muốn mua cũng khó.

– Dạ, con thấy có trâu cày ruộng sẽ đỡ cực, mà đất tươi xốp lúa sẽ lớn nhanh, bón phân càng tốt.

Ha ha, cậu vừa cười vừa vuốt đầu Mai.

– Con làm như lão nông thứ thiệt. Mình không biết cách lai giống, đi mua chỗ xa xôi thì làm sao chở về.

Đường bộ thì xa xôi mà cũng không thông suốt, đường sông thì phải có ghe lớn. Mà đi dài ngày tụi trâu bò cũng cuồng chân.

– Ca, Đỗ lang y biết lai giống không?

Ha ha,

– Muội hỏi bậy bạ cái gì chứ? Sư phụ là chẩn trị người ta, làm sao lại biết chuyện trâu bò.

Nhưng mà nếu lai giống được, sẽ kiếm được tiền nhiều hơn, lại giúp người nông dân đỡ cực khổ, mất sức. Người ta không làm lụng quá cực nhọc, sẽ không sinh bệnh. Cái này coi như gián tiếp phòng bệnh rồi, không phải sao?

Bàn bên kia quán có mấy người đứng dậy ra về, người đàn ông râu ria xồm xoàm “phẹt” một cái, một mớ bả trầu đỏ lườm nằm trên đất. Mai khó chịu nhăn mày, dịch ghế về phía góc xa. Trầu vừa cay, vôi ăn vào rất độc hại, sao người ta lại thích ăn. Vì truyền thuyết về tình nghĩa trong câu chuyện. Ân tình son sắt như câu người ta hay nói đỏ thắm vôi với trầu, khoan! Hình như mình vừa nhớ ra cái gì đó. Vôi với trầu trộn với nhau sẽ có màu đỏ thắm, có thể nhuộm làm đèn cầy đỏ không? Không biết khi đốt có bị mùi gì không? Mai kéo tay a Vĩnh nói nhỏ:

– Được không? – Không biết, phải thử mới biết chứ.

– Thử cái gì?

Nghe hai đứa nói, cậu hai chưa rõ câu chuyện nên hỏi. Giá mua vôi không mắc lắm, lá trầu thì ở nhà nào mà chẳng có trồng. Có hy vọng thì cứ thử xem sao. Mai săm soi cục vôi vừa hỏi mua được của chủ quán. Mọi người thích ăn trầu nên hầu hết các quán xá đều bán trầu tiêm sẵn hay bán vôi, cau khô, cau xanh.

Cô không nhớ rõ lắm vôi chính xác có chứa chất gì, nhưng chắc là do khai khoáng mà có. Ở thời này, khai khoáng là quyền lợi của vua và hoàng tộc, dân thường không được phép làm. Nhất là mỏ quặng sắt, đồng, than đá, mỏ vàng mỏ bạc thì khỏi nói rồi.

Hôm trước nương về Đông Hồ cô chỉ dặn mang mật ong mà không dặn mang sáp ong đến. Làm sao có sáp để thử đây. Đang còn chìm trong suy nghĩ cô nghe cậu hai nói:

– Hình như là Trương huynh, hộ vệ bên cạnh Bùi đại nhân. Ta qua đó chào hỏi, hai đứa cứ ở đây.

– Dạ.

Cái tàu lớn nhất ở bến đang chất hàng lên, mấy người phu khuân vác mình trần da đen, có người vác một lần hai bao vẫn vững chân đi trên cầu ván. Đúng là Trương Bàn thúc đang đứng cạnh trông coi. Thì ra Bùi gia cũng làm buôn bán, vận chuyển. Có câu phi thương bất phú, nếu không làm buôn bán thì rất khó thành phú hộ. Làm ruộng phải dùng sức người, đủ ăn đủ mặc là tốt lắm rồi.

Cậu hai qua chào rồi đứng nói chuyện với Trương thúc chưa lâu thì có xe ngựa lộc cộc đi đến, là xe của Bùi gia. Bùi quản gia từ trên xe bước xuống, hai đứa nhỏ thấy thì đứng lên ra chào.

– Ta vừa đến dược quán cùng thiếu gia. Nghe nói nhà cháu đến thì đoán là ra đây tìm Đoàn huynh. Đã gặp chưa?

– Dạ chưa, Đoàn bá có việc ra ngoài, cậu cháu đã nhắn lại. Ghe đã sửa xong nên muốn báo một tiếng. Cậu cháu bên kia, đang tới.

Bên kia Nguyễn Cần và Trương Bàn thấy xe ngựa Bùi quản gia thì cùng nhau đi qua. Hai đứa nhỏ vào quán ngồi chờ nhóm người lớn đi một vòng xem chất hàng, một lát sau thì lên xe ngựa về dược quán.

Sắc mặc Mạc phu nhân đã khá lên rất nhiều. Nhưng vẫn còn trong lúc ở cữ nên không ngồi lâu, bà kêu Mai vào hỏi thăm vài câu. Đứa bé đã biết bú sữa, đi vệ sinh, biết khóc la đòi ăn, mạch tượng đã tốt. Mai nghe xong nói:

– Cháu và Vĩnh ca thật chưa phải lang y. Nhờ có Trần lang y y thuật cao, theo dõi sức khỏe tam tiểu thơ thật tốt. Bây giờ phu nhân và tiểu thơ đã khỏe, xin chúc mừng.

Mạc phu nhân mỉm cười nhìn đứa bé gái trước mặt. Giống như ấn tượng lần trước, có vẻ ít nói, không tò mò hiếu động như mấy đứa trẻ khác nhưng không phải nhút nhát mà hình như rất hiểu ý người. Nghe nói biết một ít chữ, tính toán cũng giỏi, tương lai sẽ không tồi. Không biết nương đã sắp xếp quà tặng như thế nào. Nghe ý tứ Bùi thúc quản gia thì người lớn trong nhà này cũng đường đường chính chính, không có ý kể công ơn. Mình không thể hỏi thẳng nhà người ta muốn trả ơn cái gì? Thôi cứ để tam đệ và nương lo liệu đi.

Từ hôm Mai về nhà đến nay còn chưa được mười ngày, đứa bé còn cần điều dưỡng rất lâu. Hai đứa cũng không biết y thuật gì nên xin phép thỉnh thoảng ghé thăm, việc điều dưỡng do Trần lang y đinh liệu. Lúc vừa nói chuyện xong thì Bùi quản gia đứng dây trao cho cậu một gói quà.

– Đây là quà phu nhân và thiếu gia gởi Nguyễn bá dùng.

Cậu hai vừa khoát tay từ chối thì ông đã nói tiếp:

– Chỉ là mấy gói trà sen, mấy vóc lụa thôi. Còn có hai bình rượu tốt bên ngoài.

– Đa tạ phu nhân và đại nhân, ta xin nhận trà và rượu thôi, vậy là quý lắm rồi. Chúng ta cũng không làm gì, chủ yếu là Trần lang y ra sức. Quả thật không thể nhận.

Trà rượu là lễ nghĩa, người ta tặng ra thì không thể không nhận. Còn những món khác thì không nhất thiết phải có.

– Bùi huynh đến nhà ta rồi đó, chúng ta làm ruộng quanh năm. Lâu lâu vào trấn một chuyến, gặp chuyện thì cùng ra sức, không nghĩ đó là làm ơn mà chỉ coi như có duyên. Khi nào Bùi gia đi ngang ngả bảy ghé vào nhà ta uống chén trà là hân hạnh rồi.

Xem ý tứ cậu hai đã quyết nên Bùi quản gia lui một bước cười nói:

– Được, có dịp đi qua sẽ ghé vào xin nhà huynh chén rượu gạo.

– Được, nhất định. Cũng trưa rồi, ta xin phép cáo từ.

Chào hỏi một vòng thì được xe ngựa chở ra bến chợ. Hai vò rượu là loại sứ tráng men đen bóng, miệng bịt vải đỏ nhìn rất thuận mắt. Nếu như có mấy cái thố tráng men đẹp như vậy để đựng đồ thật là thích. Nghe nói kỹ thuật làm men tráng ở Đàng Ngoài rất đẹp, không biết Bùi gia mua hai bình này từ đâu?

Chiếc tàu lớn trên bến chở khẳm, có hộ vệ trông coi, chắc không phải hàng hóa tầm thường. Mai nhớ đến huynh đệ Trần bá mua bán gạo ở miệt Giá Khê, Đông Hồ. Vùng này còn chưa an toàn, nhất là thương lái. Bùi gia nhiều lính, hộ vệ lại là thông gia với Mạc gia. Khẳng định Bùi gia là thương lái lớn, hãng buôn Thuận Giang đó với tay đến Đông Hồ chưa? Thế lực Bùi gia quả thật không nhỏ, chắc họ không muốn phô trương nên ít lời đồn đãi. Nay Mạc gia nhậm chức miệt dưới, sớm muộn gì Bùi gia cũng đến đó.Chương 122: Ân nghĩa và Ân oánÔng ngoại mang một bình rượu biếu trưởng họ, giữ lại nhà một bình. Mấy gói trà sen thì biếu cho trưởng làng, Trần lão.

Hai hôm sau, huynh đệ Đoàn Hồ đến lấy ghe rồi cáo biệt. Họ tiếp tục hành trình, nhưng không nói rõ đi về đâu, ông ngoại và cậu hai cũng không hỏi thêm.

Những ngày tiếp theo, nhịp sống lại quay về như mấy hôm trước. Cửa tiệm bây giờ có Hào ca và Âu ca coi chừng và ngủ đêm lại. Đã làm xong đường ray, mấy cái ghe đều được kéo lên sân có mái che. Hai thiếu niên chăm chỉ lau chùi sạch sẽ, quét thêm một lớp dầu trét phía dưới thân ghe nữa.

Đã qua tháng bảy rồi, chuyện làm hồng lạp chưa có tiến triển. Dượng năm nói từ từ, đợt rằm Hạ Nguyên tháng mười cũng là dịp dễ bán, dù sao không thể gấp.

Nước ngọt khắp ruộng, lúa đang tẻ nhánh, lớn nhanh. Hôm nay cả nhà ra ruộng phụ bón phân, nhổ cỏ. Ruộng đã gần đầy nước, nước ngọt lúa tốt thì cỏ cũng xanh. Mấy bụi cỏ rễ còn sâu hơn cả lúa, nhổ nó thì phải dằn cây lúa lại. Nếu không mạnh tay trốc gốc cả hai luôn.

Vùng này rắn cũng nhiều, nghe cậu nói là rắn nước, rắn cỏ nhiều hơn. Mấy loại này đều không có độc. Rắn hổ thích sống trên mấy gò đất cao. Còn có rắn lục xanh thích đu trên mấy đám dây leo, cậy bụi.

A Duyên a Phúc kêu chí chóe hai ba lần vì bị mấy con rắn làm giật mình. Mai hơi sợ nên lúc nào cũng cầm theo cái cây, còn đi lại rất “ầm ĩ”, khua nước ào ào để chúng chạy đi trước. Thấy cô ồn ào, tụi nhỏ lại có dịp chọc ghẹo, chê bai.

– Mợ ơi, ở đây mình có mấy giống lúa?

– Có một giống này và nếp nữa thôi, sao vậy?

– Dạ, con thấy nó khác với cây lúa ở nhà con.

– Khác?

Có thể người ta chưa nghĩ đến chuyện lai các giống cây với nhau. Chuyện thỉnh thoảng có con heo bông hơi khác mấy con trong bầy, hay chuyện chó sói lai với chó nhà vẫn xảy ra. Nhưng là ngẫu nhiên, mà không phải họ có chủ ý hay biết được lợi hại của lai giống. Lúc ở nhà cô, ngũ cô thấy gà nhà lai với gà rừng thì rất ngạc nhiên, gà con lai khỏe mạnh hơn so với gà nhà thuần chủng. Đương nhiên là không phải lúc nào lai giống cũng được như ý.

Mấy hôm nay cô để ý cây lúa ở đây có thân cao, lúc chín có khi cao qua đầu người, nên rất dễ ngã đổ. Chỉ cần một cây mưa hơi lớn lúc sắp gặt là bông lúa ngả xuống đất, hạt lúa rụng gần hết. Hột lúa ở đây cũng thon dài, rồi hai rợi râu ở đầu hạt cũng dài. Hột lúa ở nhà cô tròn hơn.

Người nông dân hay trồng lúa gạo và lúa nếp ở những đám khác nhau. Hột lúa nếp tròn, khi giã xong thì có màu trắng đυ.c như sữa, nấu chín thì dẻo và thơm hơn, rất khác với gạo thường.

Mai cầm những nhánh lá lúa dài, rủ xuống so sánh với loại ở nhà cô trồng. Mình có thể lai giống với nhau được không? Trước mắt là lai lúa gạo với lúa nếp, sau đó thì?

Còn loại lúa ma thì sao? Nó có sức sống mãnh liệt, diệu kỳ. Cô nghe nói nước dâng đến đâu nó cao đến đó, không chịu chìm sâu dưới mặt nước. Nhưng mà bông dễ rụng quá, vừa chín là rụng rồi thì uổng công trồng thôi. Không biết ở Chánh Dinh hay vùng ngoài thì sao? Thế nào họ cũng có loại lúa khác, ngoài đó thời tiết khác, cây trồng thích nghi sẽ có những đặc tính khác. Lai với nhau biết đâu tạo ra giống lúc tốt hơn.

Việc lai giống lúa cần thời gian rất dài. Các loại lúa trồng đều sáu tháng, mỗi năm chỉ trồng một lần. Mình phải tính toán cẩn thận mới được.

Lúc ăn cơm chiều xong, Mai hỏi ý cậu hai, làm sao có giống lúa ma? Rồi cô định nhờ cậy Bùi gia mua giúp mấy giạ lúa giống ở vùng ngoài. Nhà họ làm buôn bán, việc này cũng không khó. Lúc ông ngoại nghe thì hơi trầm tư rồi đằng hắng mấy tiếng. Mấy đứa nhỏ đều im lặng, ngồi tề chỉnh xuống hai bộ ván.

Ông từ từ nói:

– Chuyện a Mai muốn nhờ vả Bùi gia mua lúa giống không phải là chuyện nhỏ. Ông muốn nhắc mấy cháu chuyện ơn nghĩa và lẽ sống ở đời. Phàm chuyện gì mình có thể làm thì không nên cậy, chuyện gì cần phải cậy thì phải nhớ ơn, nhận ơn thì trả nghĩa.

Ông uống hớp nước rồi chậm rãi nói tiếp:

– Chữ ân chữ nghĩa đi liền, mấy đứa đã hiểu và đó là chuyện nên làm theo ông bà tổ tiên truyền dạy. Nhưng người ta cũng thường nói ân oán cận kề. Mình đã ra ơn thì không nên cầu báo. Nếu phải cậy nhờ thì cũng xem việc gì nên cậy, việc gì thì không. Mình cậy chuyện mà người ta không thể làm hoặc không sẵn lòng làm, ép người ta vào chỗ bất nghĩa thì sẽ thành oán.

– Dạ, con hiểu rồi ông ngoại. Ông nhìn Mai hơi cúi mắt, nói tiếp:

– Con tép mồng quen vùng nước ngọt, tôm tích thích nước ao sâu. Con người cũng quen nếp nhà, hai nhà giao hảo thì cần môn đăng hộ đối. Còn phải hiểu lẽ nông sâu, có như vậy mới bền chặt.

Thấy mấy đứa nhỏ đều im lặng nghe. Ông hơi đổi giọng nói:

– Ta thấy chuyện cháu muốn thử lai tạp gì đó cũng được. Dù sao cũng ra cây lúa, nếu trổ hột nhiều, ít ngả thì cái lợi rất lớn. Để dượng năm cháu ghé, ông sẽ hỏi thăm coi sao. Đừng nói chuyện này ra ngoài vội.

Mấy đứa nhỏ đều gật đầu, thấy ông vẫy tay biểu đi chơi thì vội vàng ra ngoài hết. Nguyễn lão nhỏ giọng nói với con trai:

– A Mai quá linh mẫn, đừng để có tiếng đồn đãi, đặc biệt ở chỗ Bùi gia. Chuyện cái ghe nhỏ vẫn chưa xong, chuyện gây giống lại càng lớn. Con nhắn vợ chồng a Tâm cẩn trọng.

– Con biết cha. Con thấy a Mai đã thu liễm rất nhiều. Trưa nay ở Bùi gia, nó đều cậy tiếng Trần lang y làm việc. Chuyện giống lúa chắc nó chưa biết hệ trọng thế nào. Mà Bùi gia làm buôn bán rất lớn, chắc là lớn nhất vùng này. Bấy lâu nay họ cũng che dấu thế lực, quanh vùng này không nghe tiếng tăm gì.

– Ừ, Trần lão nói với cha mấy người lính hộ vệ đi theo đều có nghề, không dễ đối phó. Vị Bùi quản gia đó tai mắt đều tinh.

– Con nghĩ họ không có ác ý với nhà ta.

Nguyễn lão hơi gật đầu, nhưng theo đó là tiếng thở dài, lòng người khó dò. Mong là như vậy, thiện ý đổi lại là thiện ý thì tốt quá.

Ở bên ngoài sân, a Vĩnh kéo tay Mai ra một góc nói:

– Muội đừng buồn, ông ngoại dạy giống như Đỗ lang y dạy ta học, đôi lúc cũng la rầy. Sư huynh làm sai còn bị đánh đòn nữa.

– Ta cũng vậy, bị ông nội la rầy hoài, còn bắt đánh roi nữa đó.

Cơ ca đi theo cũng lên tiếng. A, là sợ cô bị ông ngoại rầy rồi buồn sao! Thiệt là, cô làm gì mà buồn chứ. Cô đang suy nghĩ chuyện gây giống lúa, ông cũng muốn cô làm thử. Vậy tại sao không cậy Bùi gia mà chỉ kêu dượng năm? Là ông sợ cô làm không thành sẽ bị cười chê? Không phải đâu. Chắc là ông ngoại biết được gì đó mà cô không biết. Có ông ngoại và cậu lo lắng như vậy, cô càng yên tâm tập trung phần việc mà mình biết nhiều nhất.

Lời ông ngoại dạy rất đúng, ân nghĩa và ân oán đi liền nhau. Tâm tính con người là phức tạp nhất. Mình làm ơn cho người ta một nắm cơm lúc đói, đôi khi họ còn muốn mình cho thêm một thúng gạo. Nếu mình không cho họ sẽ oán mình làm ơn không trót.

Đôi khi có người vì ra ơn một lần, sau đó cứ vịn vào ơn nghĩa để bắt người ta đền đáp cả đời.

Ở thời này hay hiện đại đều có những chuyện như vậy xảy ra, rất nhiều. Câu “thi ơn bất cầu báo” không phải ai nói và làm cũng được.

Mai chỉ nghĩ đơn giản là Bùi gia có buôn bán với vùng ngoài nên nhờ họ mua giúp lúa giống, sẽ không phiền toái gì. Nhưng mà cô quên mất là trong tình huống hơi tế nhị lúc này. Biết đâu Bùi gia và người ngoài nghĩ nhà cô đang đòi hỏi, kể công.

Hai nhà Bùi gia và nhà cô quá chênh lệch, nếu cư xử không chu toàn sẽ dễ gây ra ngộ nhận. Từ đó thì chữ ơn dễ biến thành oán. Mai lại nghĩ đến chuyện nhà mình và a Sao, họ giống nhau, tâm tính thuần hậu, không quanh co. Đúng là môn đăng hộ đối thì dễ thành nghĩa.

Chuyện quan sát và hiểu lòng người cô phải để tâm hơn nữa.Chương 123: Chữ Công đứng đầuLúc đứa bé đầy tháng thì sức khỏe đã ổn định, tăng được nửa cân so với lúc sanh. Gương mặt đã tròn hơn, tay chơn quơ quàu cũng khỏe. Nghe nói hôm đầy tháng Bùi gia không tổ chức tiệc mà chỉ làm lễ cúng theo lệ thường. Theo lời Trần lang y nên ở lại dược quán thêm một tháng nữa rồi mới chuyển về Bùi gia. Tính ra cũng mấy tháng sau mới có thể trở lại Mạc gia ở Lũng Kỳ.

Dân thường thì con gái sanh con đầu lòng sẽ về nhà mẹ đẻ, từ đứa thứ hai thì không cần nữa. Nhà quan lại thì không như vậy.

Dù sao họ cũng có người hầu hạ, nên sản phụ không cần bà gia đích thân chăm sóc.

Cả tháng này không nghe nói Mạc quan nhân đến thăm, là bận rộn chuyện mới nhậm chức sao?

Qua rằm tháng bảy thì cha đưa ba chiếc ghe nhỏ vào. Đi theo cha có Sinh ca và Cúc tỷ, đặc biệt Đỗ lang y cũng theo vào. Ông ngoại đón tiếp Đỗ lang y rất chu đáo.

– Ta nghe Lê tứ kể chuyện Trần lang y, thật muốn đến thỉnh giáo cách làm nên theo vào. Làm phiền Nguyễn bá mấy ngày.

– Lang y đừng khách sáo, xem như ở nhà mình, cần gì thì căn dặn ta.

Đỗ lang y không vội hỏi chuyện Vĩnh ca và Mai.

Ông chỉ dặn hai đứa nhỏ thu xếp đi với ông vào trấn vào ngày chợ phiên như thường lệ. Chiều nay, cậu hai và Sinh ca chèo ghe lên trấn hỏi ý Bùi quản gia chuyện giao ba chiếc ghe đầu tiên. Rồi sắp xếp giao vào ngày chợ phiên, như vậy cũng tiện lợi.

Trần lang y tiếp Đỗ lang y rất khách sáo.

Căn phòng nhỏ sau phòng chẩn bệnh bày trí tươm tất, sạch sẽ, mùi thuốc thoang thoảng. Trần lang y nhìn hai đứa vẫn còn đứng sau lưng Đỗ lang y nói:

– Chuyện ta biết không nhiều hơn Đỗ huynh đâu, để hai đứa nhỏ ngồi đi. Dù sao chúng ta nói chuyện cũng lâu.

– Đa tạ Trần huynh cho phép.

Sau đó là Mai và Vĩnh ca kể những chuyện đã làm. Mai chỉ nói vắn tắt cô nghĩ là đứa bé cần có “chỗ” giống như trong bụng mẹ để làm quen dần, còn cách làm thì mỗi người một câu thêm vào. Đỗ lang y không khỏi gật gù.

Một lát sau thì vị lang y trẻ là học trò Trần lang y cũng vào, ngồi bên cạnh hai đứa nghe hai người lớn nói chuyện. Huynh ấy còn tỉ mỉ ghi chú vào quyển sách nhỏ. Mai liếc nhìn, chữ viết thật là đẹp, vuông vức, cân xứng. Tay cầm cọ cũng rất địu đàng.

Không nghĩ tới một buổi nói chuyện “y thuật” này gần hai canh giờ mới xong. Trần lang y không bỏ lỡ dịp, tuôn ra một mớ câu hỏi về mấy chữ cô nói hôm trước.

Cái gì là “thanh trùng”, sao phải hun ‘không khí” bằng cách đốt thuốc, có phải giống như khi có dịch bệnh không?

– Dạ, Trần bá biết cách trị dịch bệnh sao?

– Không, ta chưa từng trị. Nhưng sư phụ ta có kể lại chuyện này. Mấy năm lũ lớn hoặc hạn hán, dịch bệnh rất dễ lây lan. Có năm cả làng ai cũng nhiễm bệnh.

Rồi ông kể, mấy chục năm trước, nhiều làng phía Cần Vọt bị hạn hán, vật nuôi chết dần, những người ngửi nhằm mùi xác thối hoặc ăn thịt xác chết thì đều bị bệnh. Một lây mười, từ làng này sang làng khác. Có lệnh quan trên truyền xuống phải thiêu xác người nhiễm bệnh mới trừ được dịch. Nhưng mà tục lệ tổ tiên, thiêu xác người chết là đắc tội với tổ tiên, thần linh; chỉ có những người phạm trọng tội mới bị thiêu. Thành ra dịch bệnh cứ thế lan tràn.

– Sư phụ ta nói, có một vị thần y đề nghị những người khỏe mạnh chuyển đến một vùng “khí sạch” do ông tạo ra. Cách làm được truyền lại gần giống như cháu nói. Ông ấy đốt lá thuốc xung quanh ngôi làng đó, người nào muốn vào phải được kiểm tra kỹ càng, đốt hết quần áo, vật dụng cũ, tắm qua nước thuốc nữa.

Mai không nghĩ là Trần lang y đã nghe qua chuyện “thanh trùng” này. Vì vậy ông ấy mới làm theo lời cô, nếu không thì lúc đó cô phải tốn không ít công sức và thời gian thuyết phục ông rồi.

– Dạ, cháu có nghe sư ông kể chuyện này.

À, thì ra là nghe sư ông kể. Mà con bé này đúng là sáng dạ, chuyện này mấy đứa nhỏ khác cũng nghe kể, nhưng đâu có nhanh chóng liên hệ tới việc trị bệnh. Giống như ông từng được sư phụ kể về cách đề phòng dịch bệnh, nhưng lúc trị thực cũng không nhanh nhạy như vậy. Phải đợi đến khi nghe Mai nói tỉ mỉ mới “à” ra. Cái này chỉ có thể dựa vào bẩm sinh, thiên phú. Tiếc là con bé là con gái, nếu không ông đã thu nhận làm học trò rồi.

Trần lang y lên tiếng khen ngợi a Vĩnh làm Đỗ lang y nở mày nở mặt. Trên đường về cũng dặn dò a Vĩnh thêm nhiều chuyện. Sáng mai ông sẽ theo ghe thương lái đi Long Hồ. Vĩnh ca thì xong việc ở đây cứ về nhà học tiếp.

Lần này giao ghe xong cha và Sinh ca quay về Đông Hồ ngay, còn mười mấy chiếc ghe cần đóng. Cha nói đã nhờ nhà nội vào phụ, thêm mấy người thợ mộc ở Đông Hồ, ông phải về coi sóc, chỉ dẫn mới được. Chuyện ở đây cậy ông ngoại và cậu hai lo liệu.

Mai rất muốn về nhà, nhưng ngặt nỗi phải chờ thêm gần tháng nữa. Vậy là phải gần đến Trung Thu cô mới đựơc về.

Ở dưới bếp, bà ngoại hỏi Cúc tỷ:

– Nhà con nhiều thợ thầy, sao không ở nhà phụ nương con lo bếp núc?

– Dạ, có bà nội và lục cô con vào giúp. Cha nương nói a Vĩnh, a Mai còn nhỏ, không giúp gì cho ngoại hết. Với nữa,…

Nói tới đây thì a Cúc ngại ngần,

– Có cái gì thì nói, còn ngại với ngoại?

– Dạ, nương nói ngoại chỉ con may vá, thêu thùa, rồi làm bánh trái. Bà ngoại khéo hơn nương, …

A, thì ra là chuyện Cúc tỷ sắp gả đi, cô dâu càng giỏi cái này thì càng được nhà chồng coi trọng. Trong tứ đức Công Dung Ngôn Hạnh thì chữ công đứng đầu mà. Hèn chi a Cúc lại ngượng ngùng như vậy. Mai không khỏi bật cười hì, a Cúc với tay ra nhéo eo cô.

Mà tính ra con người thời nào cũng rất thực tế, phải không? Cưới dâu, chọn rể đều đặt tiêu chuẩn “đợc việc” lên hàng đầu. Từ nhà nghèo đến giàu đều không thích nuôi người không được việc.

Bà ngoại cũng chợt nhớ ra, gương mặt vui vẻ nói:

– Phải, bà già rồi, khi không quên chuyện này.

Nói xong chuyện cha nương nhắn lời, a Cúc quay sang đưa cho Mai cuốn sổ nhỏ:

– A An nói muội coi lại xem có sai sót gì không, sáng mai gởi cha mang về.

Là quyển sổ tính toán tiền bạc trong nhà, còn đưa cho Mai tiền để mua giấy, cọ viết, nghiên, mực nữa. Dạo gần đây “nghiệp vụ phát sinh” nhiều, a An ghi chi chít, quá chừng chữ số. A Cơ thấy vậy cũng sáp lại ngồi xem, sẵn dịp Mai chỉ cách cho ca ấy bắt đầu ghi chép chuyện mua bán ngoài cửa tiệm.

Hai hôm nay Mai cứ có cảm giác tam tẩu đang “quan sát” cô, tẩu ấy có việc gì sao? Là muốn hỏi cái gì. Cuối cùng đến chiều, lúc cô ngồi nhìn Cúc tỷ đo cắt quần áo cho cô thì tam tẩu mới nhỏ giọng hỏi:

– A Mai, học tính toán có khó không?

A, là hỏi cái này, vậy thì không phải chuyện lớn rồi.

– Không khó đâu, tẩu muốn học sao?

– Ta, ta, …

Nên nói sao bây giờ? Hôm nhận tiền đặt cọc năm mươi lượng bạc, nhìn a Mai tính toán nhanh lẹ, mình đã rất hâm mộ. Buổi tối lúc đi ngủ, phu lang chắt lưỡi nói, không nghĩ là có ngày nhà mình có nhiều tiền như vậy. Mong là a Hữu, a Cơ gắng học như a Mai, để sau này còn lo việc buôn bán bên ngoài.

Trần thị tự nghĩ, mình là dâu lớn, sau này phải quán xuyến chuyện nhà cửa, nếu không rành chuyện tiền nong sẽ làm không thông. Trước đây ở nhà, nương chỉ dạy nữ công gia chánh, may khéo thêu hay chứ không ai dạy chuyện này. Không lẽ sau này thua sút em dâu, vậy coi sao được. Hai hôm nay Trần thị quả thật muốn làm gan hỏi xin Mai chỉ nhưng vẫn e ngại không dám ở lời.

– Muội học còn được, tẩu khéo léo như vậy sao lo học không được chứ!

– Muội, muội cũng biết tính tiền à?

A Cúc mỉm cười gật gật đầu. Ở nhà nhiều việc, chuyện bán hàng ở cửa tiệm a Cúc cũng phải trông coi. Với nữa, sau này gả chồng còn phải lo chuyện tiền nong trong nhà. Như lời a Mai nói, biết vài chữ, tính được tiền sẽ không chịu thiệt.

Trần thị thật không nghĩ là a Cúc biết tính tiền, xem ra chuyện mình muốn học không phải là không thể. Bà nội và nương chắc không la rầy mình học đòi.

– Để Cúc tỷ chỉ cho tẩu đi, hai người vừa may vá vừa học cũng được.

– Được, a Cúc dạy ta nhé!

Nhờ chuyện này mà a Cúc được tam tẩu lén truyền cho kiểu thêu “gia truyền” để thêu khăn tay. Nhà nông dân không cầu kỳ trong ăn mặc. Người phụ nữ khéo léo cắt may vừa vặn, lúc vá quần áo rách thì khéo che chỗ rách, đường may đều đặn là tốt rồi. Còn chuyện thêu thùa lại càng ít.

Mấy cô nương thì chỉ nhau mấy mẫu hoa mai, cây trúc hoặc dây thường xuân để thêu lên khăn tay là được. Tam tẩu được nương của mình chỉ cách thêu hoa sen phối hai màu trắng đỏ cũng đẹp mắt. Chỉ là trong mắt Mai thì nó cũng “thường” thôi. Ở hiện đại thì hình dáng cách điệu hoặc tả thực của các loài hoa, cây, cảnh vật rất phong phú. Ở đây thì đúng là hiếm có khó tìm.

Chỉ có mấy kiểu nút áo thắt bằng mấy sợi chỉ hơi lạ mắt. Vì ở hiện đại người ta dùng nút áo bằng kim loại nên cách làm nút này không còn được ưa chuộng. Lúc bà ngoại thoăn thoát quấn từng đôi, ba sợi chỉ, vòng quanh đầu kim rồi luồn tới lui mấy lượt thì làm nút áo hình hột lựu, hình hoa mai năm cánh, còn có hình đài sen nữa, hoặc đơn giản là hình tròn như ngọc trai với chỉ vàng như hoàng ngọc.

Mai cũng tập làm, nhưng cô siết chỉ không chặt, vừa buông mối chỉ ra là cái nút “banh chành” không còn hình dạng. A Cúc cũng không dễ dàng, làm lại mấy lượt mới thấy bà ngoại gật đầu. Đúng là không dễ chút nào!Chương 124: Dấu khắc trên câyThấm thoát đã đầu tháng tám, mấy cơn mưa ngâu vẫn còn kéo dài, cứ rả rích cả ngày. Hôm qua là chợ phiên, Mai và Vĩnh ca định theo cậu hai đến dược quán, nhưng Trương Bàn thúc và hai người lính đã chèo ghe đến nhà ngoại lúc sáng sớm. Cậu hai ra thấy ba người thì bước lên chắp tay chào rồi nói:

– Trương hộ vệ, mời vào.

– Nguyễn huynh không cần khách sáo, ta vội đến nhắn tin. Mạc đại nhân tối qua đến dược quán. Mạc đại nhân gởi chút lễ cảm tạ.

– Không dám, đa tạ.

Trương Bàn thúc mang hai bình rượu và một hộp quà lớn đặt trên bàn, nói tiếp:

– Mạc phủ có đại phu tinh thông y thuật. Sau khi cùng Trần lang y bàn luận thì định đưa phu nhân và tiểu thơ về Bùi gia trang chăm sóc. Sau khi sắp xếp ổn định, xin mời các vị đến thăm trò chuyện.

A, vậy là mọi chuyện có người khác lo rồi. Mai nháy nháy mắt với cậu hai. Cậu gật đầu, chắp tay nói với Trương Bàn hộ vệ.

– Chúc mừng phu nhân tiểu thơ mạnh khỏe. Nhờ Trương đệ bẩm báo lại giúp, a Vĩnh và a Mai rời Đông Hồ đã lâu, nay cũng muốn về thăm nhà.

– Được, vậy ta về bẩm báo rồi sẽ báo cho huynh hay.

– Đa tạ, chuyện giao thêm ghe vẫn như cũ, nhà ta sẽ đúng hẹn.

Nói rồi Trương Bàn hộ vệ cáo từ ra về. Xem ra chuyện Mạc gia đến làm cho Bùi gia khẩn trương không ít. Nhưng mà quan trọng nhất là mình sắp được về nhà rồi. Có về kịp Trung thu không?

Dù không cần đến dược quán nhưng Mai vẫn xin đi lên trấn ngày chợ phiên. Cô muốn mua bộ văn phòng tứ bảo, về Đông Hồ sẽ không có nơi nào bán.

Lần này đi trấn không có sự háo hức như ban đầu, Mai đã quen thuộc và nhớ đường chính của trấn này. Phía bắc là Bùi gia trang, từ đó dọc theo một đoạn sông là bến tàu lớn tập kết các ghe của thương lái, khách điếm. Lên một đoạn sông nữa là chợ của Trấn. Đoạn sông này ôm một vùng đất rộng trù phú, xanh mát.

Vị chưởng quày bán hàng chỉ nhìn nhanh hai đứa nhỏ vào gian hàng rồi lại chăm chú nhìn xuống quyển sách nhỏ trên tay. Ông nghĩ hai đứa chỉ vào xem như lần trước.

Mai không nhanh không chậm dạo qua một lượt các xấp giấy. Cô lẩm nhẩm tính toán trong miệng, còn thử cầm cây cọ trên tay. Đầu cọ lớn quá thì hao mực, hao giấy; loại nhỏ quá thì sợ mình chưa dùng được. Những chữ Hán Nôm này đều được dạy cách viết chữ to cỡ bàn tay trước, sau đó mới viết được nhỏ hơn, cỡ ba ô tập. Ai học viết được chữ nhỏ theo kiểu chữ Khải cũng mất mấy năm. Đó là nói chữ Hán nguyên bản, chữ Nôm còn nhiều nét hơn. Mai không nghĩ trong thời gian này cô có thể dùng cọ viết chữ nhỏ dưới một lóng tay được.

Tới lui lựa chọn, Mai chọn nghiên mực nhỏ có khắc hình nhánh hoa mai, có hai nụ và một hoa vừa nở. Nghiện mực làm từ đá sắc xanh đậm, được mài bóng láng. Mực là loại thỏi khô, muốn dùng thì đổ vào ít nước mài ra, dùng bao nhiêu thì mài bấy nhiêu. Cô cũng chọn loại giấy dó thô một trăm tờ và chục tờ giấy tốt. Tất cả hết gần hai quan, thiệt là mắc.

Mai nhìn mấy quyển sách mỏng trên quầy, hỏi:

– Cháu dùng kim chỉ may vá để đóng thành cuốn như thế này được không?

Vị chưởng quầy có vẻ suy nghĩ một lát rồi nói:

– Ta nghĩ hơi khó. Kim may vá hơi nhỏ, sợi chỉ cũng dễ đứt.

Ông lật quyển sách mình đang đọc ra cho cô xem.

– Cháu nhìn nè, không phải chỉ may, sợi đay này được bện từ nhiều sợ đay mỏng, rất bền chắc. Hơn nữa cháu không có bìa làm bằng giấy dày thì trang giấy đầu sẽ dễ hư, nước lem nhòe chữ.

– Cháu định xin cha làm bìa bằng ván mỏng, cha cháu là thợ mộc.

– À, vậy à.

– Thúc có biết ai bán kim và sợi đay không?

– Ta nghĩ không đâu, những quyển sách này được đóng ở vùng ngoài, xung quanh đây chưa có ai làm.

Vậy làm sao đây? Nếu để rời từng tờ sẽ dễ lạc mất, mất một bản vẽ hoặc ghi chú gì đó thì rất khó cho người xem. Sau này mình cũng không chắc là nhớ được. – Cháu định viết sách gì?

Giọng ông ngạc nhiên cũng đúng rồi, cô bé mấy tuổi đầu, biết bao nhiêu chữ mà đòi đóng sách.

– A, không phải đâu, cháu, cháu hỏi cho biết thôi.

Mai tìm cách nói qua loa. Cô chắc không thể ba hoa chuyện mình muốn vẽ cách đóng tàu ra, rồi còn định ghi lại chuyện lai giống cây lúa nữa.

Lần này cậu hai cùng về với hai đứa. Buổi tối đầu tiên vẫn ngủ ở chợ Bàu Sen, không phải ngủ trên ghe mà bạn cậu mời lên nhà sàn của ông ấy. Ngôi nhà sàn cách mặt đất khác cao, đi lên bằng cầu thang cây. Mấy con khô cá treo dọc hai bên vách lá, hơi bốc mùi, lẫn trong đó có cả thịt rừng. Góc nhà còn có mấy hủ mắm cá. Vị bá bá này không làm ruộng mà chỉ đi săn, bắt cá sinh sống. Mà không thấy có người nhà đâu cả? Ông ấy sống một mình sao?

Lúc ăn cơm tối, cậu hai mang một túi gạo lên, bữa ăn có một nồi giống “canh lẩu” nóng hổi, mấy con khô cá nướng. Mai gọi canh lẩu vì Mai thấy bá ấy múc một ít cá mắm từ trong hủ ra, hòa với nước rồi bắc lên bếp nấu, đợi sôi già, mùi thơm bay lên thì bỏ rau rừng đủ loại vào. Trong mắm cá có một ít gia vị rất thơm, rất lạ mà cô chưa được ăn trước đây.

Mai hơi ngạc nhiên nghe cậu hai nói tiếng Chân Lạp, không nghĩ là cậu biết. Lần này đến phiên cậu nói rất ngắn, vị bá bá tên Thon này “líu lo” nói rất nhiều. Ông mở thêm bình rượu nhỏ, rót ra chén lớn rồi uống từng hớp lớn rất sảng khoái. Cậu hai chỉ uống vài hớp, rồi lắc đầu chỉ chỉ hai đứa nhỏ, chắc ý chỉ là phải lo lắng cho hai đứa.

Mai được xếp một chỗ trong góc phòng, cô lấy tấm nốp ra lót, đốt thêm mắm lá xả, nằm lên rồi khoát thêm cái mền mỏng. Nửa đêm thì trời đổ mưa. Nhà người Chân Lạp dùng lá thốt nốt để lợp mái, vừng vách nên xài bền hơn so với lá dừa nước. Tiếng mưa rơi đều đều, hơi lạnh bắt đầu tràn vào, Mai cuộn tròn người lại trong cái mền vải, mơ màng rồi cũng ngủ lại.

Mùa mưa đi lại trên ghe đúng là bất tiện. Tháng tám trời mưa nhiều, nước đã dâng lên rồi. Mặt sông như rộng hơn, không còn nhìn thấy mấy gốc cây bị siết hai bên bờ nữa, màu xanh rậm rạp phủ quanh. Có mấy chỗ dòng nước chảy xiết, đυ.c ngầu. Cơn mưa từ khuya hôm qua vẫn còn rả rích. Cậu hai dầm mưa để chèo ghe, chắc lạnh lắm. Làm sao nấu nước nóng cho cậu giải cảm? A tối qua, Thon bá không phải dùng bếp bằng đất gần giống cái cà ràng sao. Mình làm giống vậy để dành nhóm bếp nấu nước trên ghe. Sắp tới nhà mình và nhà ngoại sẽ qua lại nhiều.

– Mấy lúc nước cạn người đi ghe sẽ chú ý vùng đất trũng hay có ghềnh đá de ra, lõm vào. Những chỗ đó dễ có nước xoáy vào mùa lũ. Người ta sẽ làm dấu để ai đi qua sẽ thấy mà phòng, con nhìn kìa.

Cậu hai chỉ mấy thân cây bị chặt lõm vào, hơi xoáy tròn. Thì ra đó là ký hiệu nhắc vùng nước xoáy. Cách này rất hay, dù cây đó lớn như thế nào thì vết xoáy không thể mất đi. Nếu nó chết, thì người ta lại làm dấu ở những cây bên cạnh.

– Thấy miễu thờ bằng đá và đất đắp đó không? Mỗi lần đi qua tâm phải thành kính, có muối thì rải xuống một ít, khấn vái cho dọc đường bình an. Nhớ không?

Hai đứa nhỏ gật đầu, nhìn cậu bốc một nhúm muối hạt rải xuống lòng sông.

Buổi trưa ăn vội cơm khô và cá khô, bình nước đựng trong trái dừa đã nguội rồi. Đến nhà Lý thúc thì trời đã tối, chỉ có a Sao ở nhà. Hắn mừng rỡ thấy Mai và a Vĩnh vào sân.

– Nguyễn bá mạnh, cha cháu ăn giỗ nhà Trương bá, để cháu qua báo cha.

– Từ từ đi cháu, không cần khách sáo như vậy.

Mai không khách sáo, cô vội vàng xuống bếp nấu ấm nước, pha trà gừng và ít mật ong mang cho cậu uống giải cảm. A Sao và a Vĩnh đốt bếp lửa nhỏ ở hiên nhà. Hôm nay ở đây cũng mưa, sân đất đã nhão nhoẹt. Trên sạp tre sau bếp có một ít thức ăn vẫn còn ấm, chắc là nhà Trương bá mang sang cho a Sao.

– Trễ như vậy sao ngươi chưa ăn cơm?

– A, vừa đi thăm bẫy về,

Nói rồi ba đứa nhỏ dọn cơm, Mai cũng mang cá tôm khô nhà mình ra nướng thêm. Mùi khô cá vừa thơm lừng thì nghe tiếng Lý thúc ngoài sân.

– Nguyễn huynh vừa đến? Thứ lỗi đệ không về kịp. Sao không chạy qua gọi cha?

Câu sau là Lý thúc nói với a Sao.

– Lý đệ đừng la cháu, là ta không cho đi.

Liền sau đó là Trương bá đến, thế là cậu hai theo hai người lớn qua uống rượu, ba đứa nhỏ ở lại nhà tiếp tục chuẩn bị ăn tối. A Thảo dẫn theo hai đứa em trai qua, mang theo thịt gà nướng, tô canh chua bần. Thêm ba đứa nữa càng vui, cũng thành một bàn tiệc rồi.

Mới mấy tháng mà a Thảo đã vượt cao hơn Mai, hàm răng nhỏ đã thay đủ, hai lúm đồng tiền hiện rõ hơn, lúc cười thật có duyên. A Thảo dành ngồi cạnh nồi cơm, cũng dành gắp thức ăn đãi khách, mới chừng đó tuổi muốn làm người lớn sao?Chương 125: Chỗ giấu bạcChuyện bán đèn cầy thuận lợi, kéo theo nhà a Sao lấy tổ ong đều đặn mỗi tháng. Chắc Lý thúc và a Sao đã trả hết nợ, trong nhà có thêm một tủ gỗ nhỏ, phía trên cùng là lư nhang để hai bài vị ông bà nội a Sao. Dưới một chút là bài vị của nương a Sao, còn em gái thì không được thờ do yểu mệnh.

Bộ ván tre cũng được thay mới, dưới bếp có hai lu đất lớn đựng gạo và mấy bao đậu, khoai. Xem ra cuộc sống hai cha con đã khá hơn. Chỉ là nhà cửa vẫn không gọn gàng, sạch sẽ. Haiz, dù sao hai người này không thể ngày ngày quét dọn, lau chùi như nương và ngũ cô ở nhà mình được.

Hơi lãnh từ rừng tràn ra thật lạnh, vậy mà a Sao chỉ phong phanh một lớp quần áo. Mai đã mặc thêm một lớp áo, quấn cái nốp ngồi nghe hai đứa con trai nói chuyện. Thật ra a Sao và Vĩnh đều ít nói, ba đứa nhỏ ngồi bên bếp lửa cho ấm, chờ người lớn về.

– Muội vào ngủ trước đi,

– Ừm,

Mai hơi sợ lạnh nên cô đi vào cái giường trong buồng, nhóm xả đuổi muỗi rồi chui vào hai lớp nốp. Chỉ thêm ngày mai nữa là mình về nhà, tính ra cũng ở nhà ngoại hai tháng. Không kịp làm l*иg đèn Trung thu, chắc nương có làm bánh gạo, kẹo cúng Trung thu?

Hay là nương bận nấu ăn cho thợ, rồi lo lúa nữa mà quên mất! Ngủ được một giấc sâu thì cô lại nghe trời mưa. Mấy con muỗi sợ lạnh nên không nghe vo ve bên tai nữa. Mai cuộn tấm nốp định ngủ tiếp thì nghe tiếng người nói chuyện, tiếng bước chân, có mấy ánh lửa lóe sáng qua kẽ lá. Trong làng có chuyện gì sao?

Nhà trên cậu hai và Lý thúc đã tỉnh giấc.

– Con ra xem chuyện gì?

Tiếng Lý thúc sai a Sao. Qua cánh cửa mở ra, mưa không lớn, nhưng mà trời còn sớm. Trăng non đã lặn mất, mới cỡ canh tư, người trong làng lại cầm đuốc đi đâu? Rất nhanh a Sao đã chạy về báo tin.

– Nhà Lưu ông bắt được con trăn lớn, lớn lắm cha.

A Sao vòng hai bàn tay diễn tả thân mình con trăn, trời! Cỡ bắp đùi cô rồi.

– Sao mà bắt? Trăn nào?

– Nó bò vô nhà, may con chó sủa rần trời, Lưu ông dậy đốt đuốt thì thấy cái đuôi nó thòng xuống từ cột giữa. Là trăn nước.

Mai thấy a Sao có vẻ hứng khởi, không sợ sao? Trăn nước là không có độc phải không? Mà con trăn thì sức mạnh siết con mồi mới là điểm mạnh của nó. Nó không có độc cũng không sao, nó chỉ siết con mồi chết, sau đó nuốt trọn vào bụng là được rồi.

– Mấy hôm nay mưa khắp vùng, nước đổ về nhiều, bọn nó kiếm chỗ ráo.

Lý thúc trầm ngâm một chút rồi nói. Cậu hai cũng nói thêm mấy chuyện, hai người không ngủ mà trò chuyện con nước năm nay. A Sao đã kéo Vĩnh ca đi xem con trăn.

Lúc về nhà, a Sao gởi theo hai tổ ong vừa lấy được, Mai không mang tiền nên hẹn hắn lần sau sẽ trả. Sáng sớm cậu hai cũng không đi xem con trăn mà lên ghe đi Đông Hồ luôn. Theo lời cậu thì tranh thủ thời gian đóng ghe xong sớm giao cho Bùi gia.

Sau đó sẽ phải lo gặt lúa, mong là lúa kịp chín sớm trước khi nước lên. Vừa rồi, ông ngoại và cậu bón thúc cho lúa phát nhanh, làm đòng sớm cũng là vậy. Ông ngoại cũng dặn cha về bón thúc, không chờ đến tẻ nhanh hết như mọi năm. Mới rằn tháng tám mà đã khẩn trương lo việc gặt rồi. Năm rồi đến cuối tháng mười nhà mình mới gặt lúa mà.

Nhưng mà ông ngoại đoán chắc đúng, lúa vô bồ sớm ngày nào là đỡ lo ngày đó.

Cả ngày hôm nay trời ui ui. Nhưng ghe vừa qua khỏi chợ Sông Lớn, đoạn sông Giang Thành thì mặt trời ló ra khỏi rặng mây đen. Ánh nắng không chói chang mà hơi yếu ớt, chỉ đủ tạo ra mấy dãy sáng lấp lánh trên mặt sông. Mai chui ra khỏi mui ghe, ngắm nhìn mặt gương rộng mênh mông phía trước.

– Hình như là ghe Lưu bá.

Tiếng Vĩnh ca ngắt ngang tâm tình của Mai. Cô nhìn chiếc ghe phía trước đang thả chậm tay chèo. Đúng rồi, là Lưu bá. Một đoạn đường từ đó về hai chiếc ghe song song cùng tiến. Lưu bá bộ dáng chắc nịt, nước da đen bóng, cười nói sảng khoái. Cậu hai thì dáng người thanh mảnh, dáng địu hòa nhã. Vậy mà xem chừng hai người rất hợp ý.

Chiếc ghe từ từ tiến về con rạch trước nhà. Cảnh vật vẫn như cũ, chỉ có lòng con người thấy nao nao. Mai hơi cười nghĩ, mới đi mấy tháng mà làm như mấy năm.

Tiếng cưa xẻ gỗ kẽo kẹt từ xưởng vang lên.

Trời vừa xế bóng, mọi người chắc đang bận rộn. Vĩnh ca lên trước buộc ghe, Mai nhanh nhẹn mang đồ lên, đi vào nhà. Phía sau chái nhà có khói lên nhè nhẹ, ngũ cô đang ấp trứng gà vịt sao? Hôm trước nghe nói đã ngưng ấp trứng vịt rồi. Mùa này vịt hoang về nhiều, đặt bẫy ở những vũng nước nhiều tôm tép thế nào cũng bắt được một hai con.

– Thưa bà nội con mới về.

– Ủa, con về rồi, mệt không?

Nhà sau chỉ có bà nội đang ngồi khâu giày. Bà đứng dậy định giúp thì Mai nói:

– Con không mệt, con làm được.

Cậu hai và Vĩnh ca mang đồ đặt trên sạp tre, chào hỏi bà nội.

– Cháu đưa hai đứa nó về à. A Tâm đang ở trong xưởng.

– Vậy để cháu qua đó.

Nói rồi cậu hai đi qua xưởng. Bà nội kéo hai đứa nhìn ngó một hồi rồi mới đi pha thêm bình nước ấm dặn Vĩnh ca mang qua xưởng. – Nương, ngũ cô đâu rồi nội?

– Đi ra ruộng rồi, đang hái mớ đậu chín sớm, sợ nó rụng uổng.

A, đúng rồi, đậu xanh, đậu đen cũng bắt đầu chín rồi. Năm nay nhà mình có trồng ít đậu nành, nên làm món gì đây, sữa đậu nành đi. Bà nội kéo hai đứa lại không cho ra ruộng:

– Ngày mai ra làm. Đi ra đó nắng nôi bệnh thì khổ.

– Dạ, a Phúc đâu nội?

Bà nội chỉ ra ruộng sau nhà cười nói:

– Nó có đi khỏi bầy vịt đâu. Hôm trước có đàn vịt hoang tới, nó sợ kéo bầy vịt của nó đi, nên ở riết ngoài đó.

Ha ha, xem ra mấy ngày này a Phúc rất bận rộn. Mai cất hành lý vào phòng xong thì chạy ra chuồng coi ba con heo. Hai con heo cò trắng đúng là như cò, cao lên rất nhanh nhưng mà gầy, bốn chân xương rất lớn, không thấy thịt đâu cả. Chỉ có con heo mọi bông thì không cao nhưng mà tròn tròn, hai bên má xệ xuống đầy mỡ. Mai cứ theo vuốt hai má, hai mông nó làm nó nhột chạy quanh chuồng.

Phân heo mỗi ngày đều được cha hốt sạch đổ vào chỗ ủ phân bón. Ngũ cô luôn cắt sẵn một mớ lá tràm phơi dốt để hun muỗi. Chuồng gà chuồng vịt cũng sạch sẽ, a có hai cái hột gà đẻ rớt trong góc chuồng. Không biết tiền quỹ được bao nhiêu rồi. A An vẫn nghỉ bán buổi chiều để phụ cha trong xưởng.

Buổi chiều khi thợ ở xưởng đã về hết, mọi người quây quần nói chuyện tin tức ở Đông Hồ, Trấn Giang. Nhóm đàn bà con gái thì lo cơm nước, dọn bàn. Nhóm đàn ông con trai thì lo thăm ruộng, chẻ củi, còn đốt đống lửa lớn ở sân trước.

Mấy hôm nay ở đây mưa dầm, ngồi trong nhà ăn cơm hoài cũng chán. Hôm nay nắng ráo, dọn cơm ra sân, có gió mát, ăn cơm nói chuyện, uống ít rượu thật sảng khoái.

Nhị bá đã vào phụ đốn gỗ, ngâm gỗ từ mấy hôm trước. Nhị bá và cậu hai ngồi kế nhau, đúng là người làm nghề nào thì tướng mạo hiện ra như thế. Nhị bá ở làng chài đi biển nên khổ người to lớn, cơ bắp tay chân nổi rõ. Cậu hai làm ruộng, lại ở trong đồng quanh năm nước ngọt, nên nước da trắng hơn, nhìn cũng nho nhã hơn.

Nhà Mai bây giờ gần hai chục người, nương và ngũ cô nấu ba nồi cơm, canh cũng hai nồi, rồi xào rau, kho cá. Như vầy là bận bịu cả ngày làm bếp, còn nấu cơm trưa cho thợ ăn thêm. Mai bất giác nhìn hai cánh tay khẳng khiu của mình, nếu mình lớn mà vẫn còm nhom như vầy sao nấu cơm canh được đây?

Nói chuyện một vòng thì mọi người lại quay về chuyện hai mươi cái ghe hột vịt.

– Cỡ năm bữa nữa mới xong ba cái đợt nhì, nhị cửu ca đợi hay về Trấn Giang ngay.

– Ta ở lại, đỡ mấy công ở đây. Cha bón thúc phân, lúa đã bắt đầu trổ đòng rồi.

– Được, gỗ đốn gần đủ rồi, có mua thêm phía Tô Châu. Mấy ngày sau nhị ca, a Vinh và a Sinh làm tiếp phần ghép ván. Chắc sẽ nhanh hơn.

Nhị bá gật đầu đáp ứng. Chuyện đóng ghe này do Lê tứ chủ xướng, nhị bá và cậu hai đều theo cha xếp đặt để làm.

Còn mấy ngày nữa là đến Trung thu, nhà mình mặc dù bận rộn nhưng bà nội, nương và ngũ cô đều tranh thủ làm mấy loại bánh mứt để cúng, còn thêm đồ ăn cho thợ trong xưởng để thêm sức. Mai ngồi nghe bà nội nói chuyện. A An lại gần kéo tay cô đi ra cửa quán ngồi. Vĩnh ca và a Phúc cũng đi theo, tụi nhỏ đốt đống lửa nhỏ rồi ngồi xuống rù rì.

– Chúng ta có gần bảy quan rồi, ta định xin nương đổi năm quan thành một nén bạc, được không?

Mấy đứa nhỏ mắt sáng rỡ nghe chuyện tiền quỹ.

– Mình cất bạc ở đâu giờ?

Đúng là không nghĩ mới một năm mà đã có nhiều tiền vậy. Mấy văn tiền kẽm lỡ có mất còn đỡ, nhưng mà một đỉnh bạc năm quan mà mất rất tiếc. A Phúc đưa tay che miệng nói nhỏ:

– Đệ thấy nương chôn tiền ở chân giường đó, mình làm giống vậy đi.

Ha, Mai phì cười, ra dấu với a Phúc.

– Đệ biết, không nói ai hết.

Hắn cam đoan luôn miệng, giỡn sao, tiền của nhà mình nương cất ở đâu hắn làm sao nói cho người ngoài biết chứ!

Chắc là chỉ có cách này thôi, ở đây đâu có tủ có khóa, mà cất tiền trong đó thì lại càng lộ.

– Cất ở trong phòng muội đi, ít người vào.

Mấy đứa nhỏ đều gật đầu, phòng của ngũ cô, a Cúc và Mai là ít người lui tới nhất. Còn phòng ngoài của tụi con trai thì đông người qua lại.

Từ ngày có người trong làng đến cưa xẻ gỗ, mấy đứa nhóc cũng hay chạy đến chơi, chái nhà của a Phúc, a An càng đông người lui tới. Mai hơi nhíu mày nghĩ, như vậy không hay lắm. Mình nên tách công việc và sinh hoạt ở xưởng ra riêng. Nhưng mà sau khi đóng xong hai mươi chiếc ghe nhỏ mới tính tiếp được, bây giờ cha bận rộn quá rồi.Chương 126: Nước tương và tương hộtVề nhà quen thuộc, Mai ngủ rất sâu, rất ngon. Đàn gà đông, mấy con gà trống cứ gáy báo canh tư canh năm rộn ràng.

Lúc Mai đến rổ lấy hột vịt cho nương chiên trứng ăn sáng thì thấy cả rổ đầy gần cả trăm hột.

– Nương ơi, sao hột vịt nhiều vậy?

Ngũ cô đang canh nồi cơm nói:

– Hơn nửa tháng nay có mấy người thợ ăn phụ, còn cho hàng xóm rồi đó. Nếu không còn nhiều nữa. Ta không ấp thêm vịt con. Đàn vịt mình hơn hai trăm con rồi, không bán con lớn con nhỏ gì được hết.

Nghe ngũ cô than thở thật dài. Dạo này nương và ngũ cô cũng không đi chợ Sông Lớn được, việc nhà bà nội và lục cô kham không xuể. Hột vịt để lâu sẽ hư, phải qua đến tháng mười một thì mới bán vịt được. Mỗi ngày đàn vịt đều rớt ba bốn chục trứng, ăn làm sao hết.

– Đâu có làm khô, làm muối được như cá tôm.

Hả? Được chứ, làm hột vịt muối, hột vịt bách thảo đi. Mai biết cách làm hột vịt muối, hột vịt có thể để lâu, ăn từ từ, mà cách làm cũng không khó.

– Nương, con xin tro trong bếp nha,

– Ừ, con muốn làm gì?

– Dạ, con định làm trứng vịt muối tro.

– Được không? Ăn được.

Đương nhiên là ăn được rồi, Mai lại phải nói dóc là cô nhìn thấy đầu bếp nhà Bùi gia làm. Bùi đại nhân, bếp nhà ngài là thần thông nhất, tất cả các món ăn trong khoảng mấy trăm năm tới đều biết! Mai le lưỡi ôm cái chậu chạy đi. Cô phải xin thêm tro bếp nhà Lưu bá nữa mới đủ. Mai nhờ lục cô dùng vải âm lau sạch từng trứng hột vịt, để cho khô. Còn cô thì giã muối hột ra cho mịn. Sau đó hai cô cháu vừa lọc tro bếp vừa trộn với muội.

– Một phần muối, chín phần tro hả Mai?

– Dạ phải. Rát tay không cô?

Rát chứ, bình thường chỉ cần một trong hai thứ là đã xót tay rồi. Tay ai mà bị trầy hay cắt chắc không dám đυ.ng vô.

– Mai mốt còn cực nhiều,

Bà nội thở dài nói không đầu không đuôi. Thật ra là ai cũng hiểu nội lo cho lục cô. Lần này lục cô vào đây sát cạnh bà nội để học làm việc; giống như Cúc tỷ đang học ở nhà ngoại. Những chuyện trước đây bà không nỡ để lục cô làm, bây giờ thì đành phải tập làm thôi. Thấy lục cô gắng nhịn đau rát bà lại càng đau lòng. Nuôi con gái lớn lên thì muốn nó được gả đi, lúc sắp đi thì cứ bịn rịn không yên.

Sáng ngày mười bốn tháng tám, Vĩnh ca và Mai theo cha qua chùa cúng dường. Sau đó cha dẫn Vĩnh ca mang quà biếu đến nhà Đỗ Lang y. Mai ở lại chùa phụ sư ông quét sân, dọn lá.

– Nghe nói cháu biết cách dưỡng trẻ sơ sanh sao?

– Dạ, con nhớ chuyện xưa có người làm, mình làm tương tự vậy.

A, không nghĩ là Đỗ lang y đem chuyện ở Bùi gia nói với sư ông. Sư ông thấy gương mặt cô gái nhỏ nhăn nhăn bất đắc dĩ thì nét mặt càng hiền hòa hơn, ông lẩm nhẩm niệm nhỏ:

– A Di Đà Phật! Cứu một mạng người bằng xây bảy tháp phù đồ.

Chuyện ông nhờ Vãi Pran đã sắp thành, mấy đứa nhỏ trong làng được học chữ, sẽ dần hiểu được đạo lý. Con người có tâm sáng thì cuộc sống sẽ an bình, thịnh vượng.

Mai ấp úng thưa:

– Bạch sư ông, con muốn xin học chữ, được không?

Ừ, ông quên mất chuyện con bé là con gái. Người Chân Lạp tuy coi trọng nữ giới nhưng cũng rất hiếm người được học chữ, đa số sẽ luyện nữ công gia chánh, múa hát.

– Ta sẽ hỏi chỗ sư đệ và thầy đồ.

Nhìn ánh mắt trông mong của con bé, ông không khỏi vui vẻ. Quyển chữ mẫu ông gởi nhà Lê tứ, chắc con bé đã học gần hết rồi. Nó sáng dạ linh mẫn như vậy, cũng nên có thầy chỉ dẫn sẽ càng phát huy, cũng tránh hiểu sai, lạc lối.

– Dạ. Đa tạ sư ông.

Trên đường về nhà, Mai nghĩ làm sao để báo đáp sư ông, còn “”hối lộ” Vãi Pran nữa. Thực tế nhất vẫn là nghĩ cách để cuộc sống sư ông thoải mái. Mấy món ngon trong nhà thì không thể cúng dường. Người ăn chay chủ yếu là gạo, ngũ cốc, đường muối, nhà cô và mấy nhà trong làng đều cúng dường. Sư ông cũng khai hoang một miếng ruộng sau chùa trồng rau cỏ, cây thuốc. Nhưng mà sư ông không bắt sâu diệt bọ nên mấy cây rau bị sâu ăn lổ chổ. A, có rồi là sữa đậu nành, nước tương và tương hột.

Sữa đậu nành là Tương huynh thấy người ta nấu nên lúc bán hột giống đã nói cho mọi người biết. Nhà Mai vừa hái đậu nành hôm kia. Ngày mai nhắc nương làm thử xem sao. Sữa đậu nành rồi tàu hủ, cô không biết cách làm tàu hủ, làm sao từ sữa để nó đặc lại, phải bỏ thêm cái gì nữa?

Nhưng mà nước tương và tương hột thì cô nhớ cách làm, không khó lắm. Hai món này chắc chắn sẽ làm sư ông và Vãi Pran vừa lòng. Vì chuyện được đi học, Mai sốt sắng hơn ngày thường. Cô vội lựa từng hột đậu nành no đủ, chắc hột rồi rửa sạch. Nước mưa giữa mùa vừa trong vừa ngọt. Mai nấu sôi, để nguội rồi ngâm đậu nành vào. Bây giờ cô rửa sạch hai cái bình đất, đem phơi cho ráo. Một bình là để cúng dường, một bình là để nhà mình ăn.

Phải chi có loại bình tráng men như bình rượu thì tốt qua. Hai bình rượu và gói quà Trương hộ vệ mang đến cậu hai đều mang về đây. Cha đã gởi một bình cho ông nội. Còn lại là bình rượu mang đến biết Đỗ lang y hôm nay. Mai mốt xin ông bà nội cái vỏ bình được không ta?

Công việc hôm nay là xong rồi, chờ đậu mềm sẽ làm tiếp. Nước tương đậu nành là món chay không thể thiếu, có đủ dinh dưỡng lại có vị thanh, ngọt bùi. Mấy tháng sau khi nước tương được chắt ra, thì phần xác hột đậu nành sẽ làm ra tương hột. Còn một cách khác để làm tương hột nhanh hơn, chỉ hai ngày là xong. Mai đợi vãi Pran đến sẽ làm, như vậy thì việc mình xin sẽ dễ dàng hơn.

Trên vũng Đông Hồ đã có thêm nhiều bè ra đánh lưới. Mấy ngôi nhà sàn phía bờ Tô Châu đợi nước kém cũng ra cồn đất đặt bẫy chim cò, giăng lưới.

Tiết Trung thu vừa qua thì trong gió đã cảm nhận được hơi nước dầy đặc, khí lạnh len lõi vào nhà. Người nông dân bắt đầu tới lui thăm chừng ruộng lúa hàng ngày. Lúa đã cao qua đầu Mai, bắt đầu trổ đòng, kết hột. Trong hơn tháng này ai cũng cầu mong mưa nhỏ nắng ấm để bông lúa trĩu hạt, chắc thân.

Mấy hôm nay Mai, a Phúc và a An vất vả hơn, ba đứa phải trông chừng không cho đàn vịt ùa vào ruộng rúa. Một phần sợ lúa ngả, một phần sợ bọn chúng bơi đi mất. Ruộng lúa đã cao, mấy con vịt mải miết theo dòng nước tìm thức ăn, vào trong đó như “ma trận” làm sao mà lùa về.

Ngày cậu hai, Sinh ca và thất thúc đem ba chiếc ghe thứ hai đi lại là ngày mưa dầm. Gió thổi ào ào làm ngả nghiêng mấy ngọn lá dừa nước.

“Như vầy thì nguy hiểm quá, mới được sáu cái, còn mười bốn cái nữa. Có nên nghĩ cách khác không?”

Mai lẩm nhẩm nho nhỏ. “Mình có nên chia ra các công đoạn cho phù hợp, an toàn hơn không? Sắp tới nước lên, ở mấy ngả ba sông rạch vòng xoáy càng nhiều, thì làm sao đưa ghe đi xa như vậy được?”

Buổi tối, ăn cơm xong Mai lại chỗ cha và nhị bá nghỉ ngơi nói:

– Cha, con nghĩ mình đổi cách đóng ghe.

Tiếp đó cô diễn giải cách cha đóng ghe hiện tại là cưa thân gỗ, xẻ ra thành tấm lớn, xẻ thành từng tấm nhỏ theo kích thước ván ghe, đáy ghe, làm cong, mấy chi tiết khác. Sau đó sẽ ghép lại, làm mộng, trát keo, sơn phết. Bây giờ mình có thể chia ra làm ở hai nơi. Cửa tiệm Phụng Hiệp cũng có làm mái lá rồi, vừng vách lá thành xưởng cũng nhanh. Công việc ở đây là cưa, xe gỗ lớn, xẻ thành ván, làm cong thôi. Xong phần việc này thì xếp lên ghe lớn chở đến Phụng Hiệp để ghép nối, trát rồi sơn phết.

– Cha, mình đóng ván đáy ghe nhỏ ở đây.

Lê tứ hiểu ý con gái, bí mật giữa hai lớp ván càng ít người biết càng tốt. Công việc này cũng do người nhà làm, không để thợ mới học lóm.

– Vậy phải làm khung ghép ghe ở nhà ngoại con trước.

Muốn ghép ván ghe phải có khung gỗ để giữ mấy tấm ván, đỡ tốn thêm một người đứng đỡ. Khung này cũng là Mai tỉ mỉ vẽ, mấy xưởng khác vẫn chưa thấy có.

– Ta thấy làm vậy an toàn hơn, sắp tới mùa gió chướng rồi.

Có nhị bá đồng ý rồi, cha gật đầu bắt đầu sắp xếp thợ ai đi ai ở. Những người thợ làm công việc đốn gỗ, cưa xẻ thì ở lại, do nhị bá và Hân ca, Vinh ca trông coi. Cha, Bình ca và thất thúc sẽ đi Phụng Hiệp lo phần ghép ván. Ở đó có Sinh ca và mấy người nhà ngoại hỗ trợ.

– A Hân, cháu và a Bình chuẩn bị gỗ làm khung ghép. Ngày mốt đi ra đó dựng trước.

– Dạ được.

– Ca, ca nhớ nói với cậu đừng để người lạ vào xưởng, làm vách ngăn khu ghép ván lại.

– Ừ, ta biết.

Ở Trấn Giang đã có xưởng đóng ghe, người ta hiếu kỳ đến xem rồi đồn đãi ra ngoài không tốt lắm. Nhà mình chưa đến lúc phô trương như vậy. Nhưng mà cha đi Phụng Hiệp thì chuyện ruộng lúa tính sao, bà nội thấy cha hơi nhíu mày nói:

– Mấy mẫu ruộng để nương trông chừng.

– Chàng lo việc đó đi, còn ta và ngũ muội nữa mà.

Còn có thêm một người chạy đến lo giúp, là Hùng huynh. Huynh ấy nói mùa này ít đi rừng nên La bá dặn qua đây phụ một tay. Chỉ là huynh ấy không rành việc ở xưởng, cũng chưa làm ruộng, thành ra suốt ngày bị sai sử làm chân chạy vặt. Thêm nữa Cúc tỷ vẫn còn ở nhà ngoại học nữ công, không biết trong lòng huynh ấy có hối hận không đây!Chương 127: Chuyện học chữGần cuối tháng tám thì Vãi Pran và hai thầy trò của thầy đồ về làng. Dương ông trưởng làng và mấy người lớn trong làng đều ra đón. Mấy đứa nhỏ còn rối rít thập thò đứng phía xa nhìn. Thầy đồ mặc bộ đồ dài màu xám, đầu vấn khăn xanh, gương mặt hơi dài, môi hơi mỏng. Ông cỡ hơn bốn mươi, lưng đã hơi còng, là do viết chữ nhiều sao?

Ha, giọng nói chuyện còn giữ được âm sắc người miền ngoài, cách dùng từ cũng văn vẻ. Có lẽ ông biết mình nói hơi khác dân bản xứ, nên ông nói rất chậm rãi. Thỉnh thoảng chen vài từ bản địa. Mai hơi mỉm cười, gật gật đầu. Xem ra thầy đồ không phải cổ hủ, thuần nho. Học hỏi và thích ứng người bản xứ là chuyện tốt, phải không? Giống như cô vậy, người ta hay nói “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” đó thôi.

Mấy đứa nhỏ còn hiếu kỳ về học trò được thầy đồ dẫn theo. Thiếu niên hơi gầy, tay chân dài loằng ngoằng, thấy nhiều người nhìn thì cúi mắt, đứng yên sau lưng thầy. Chỉ có hai bàn tay khẽ nắm khẽ buông là tiết lộ bản thân đang căng thẳng.

Ngôi nhà làm trường học được xây ở giữa làng, trên khoảng đất cao. Có mấy bụi tre ở phía sau trường, phía trước sân được trồng hai cây sung. Dương ông nói hai cây này “phontg thủy” rất tốt. Cách một cái sân là nơi ở của thầy đồ. Ngôi nhà ba gian hai chái như nhà dân xung quanh, sân sau có mấy bụi chuối, mấy luống rau đã lên xanh.

Mai đợi mấy ngày sau, mới mang một tô tương hột thơm lừng đến chùa. Sư ông và Vãi Pran đang trò chuyện trong phòng. Cô chắp tay thưa hai người rồi trao cái tô đất qua nói:

– Nhà con làm món tương này từ đậu nành, gọi đơn giản là tương hột. Sư ông dùng thử có hợp không? Ăn với cơm nóng rất ngon, mà để lâu ăn dần được, không bị hư. Sư ông đậy nắp kín là được.

– Ha ha, được rồi. Ta nhận, ta vừa mới bàn chuyện lớp học với Vãi Pran. Lát nữa sẽ cùng Dương ông đến thăm chỗ ăn ở Trần sư phụ.

Trong lúc sư ông nói Mai cảm thấy Vãi Pran đang quan sát mình. Không biết sư ông đã kể chuyện gì rồi. Vị Vãi này là người Chân Lạp, là người dẫn dắt sư ông theo Phật Pháp. Chắc Vãi cũng có thanh thế trong Giáo hội, bản lĩnh cũng không nhỏ.

Mai rất muốn theo học chữ, có người hướng dẫn vẫn tốt hơn là cô tự mày mò rồi. Hiện trong nhà cô chỉ có a An, a Vĩnh và a Phúc là có trong độ tuổi đi học. A Vĩnh thì chắc sẽ không vào lớp. A An thì hơi lớn so với tuổi bắt đầu học. Mà mục tiêu của a An rất rõ ràng, chỉ học để làm bàn tính, ghi ghép sổ sách là được. Thậm chí ca ấy còn nói đã biết đủ các con số rồi, học chi nữa?

A Phúc thì, nghĩ tới là Mai lắc đầu. Ở nhà mỗi lần nhắc hắn học chữ, hắn sẽ như con loăn quoăn uốn éo, viết chữ thì còn tệ hơn con loăn quoăn. Không biết nghe ai nói vào lớp học một buổi, phải ngồi yên tập đọc tập viết hắn đã muốn rút lui, không muốn đến lớp. Hắn còn lý sự, viện cớ:

– Con đi học thì ai chăn vịt, cho gà ăn?

Cả nhà bật cười cái rần. Trời, làm như không có hắn thì gà vịt đói hết. Ngũ cô giải hòa nói:

– Con đi học một buổi hai canh giờ, ngũ cô coi chừng cho. Ráng học biết chữ với người ta chớ.

Thành ra, cô không đến lớp sẽ không thể hỏi ai trong nhà. Nhà Lưu bá thì đâu có ai đi học.

Mai tin là nếu Vãi Pran mời được Trần sư phụ về đây, thì ông cũng sẽ thuyết phục được thầy cho cô vào lớp. Nhưng mà ông ấy không lên tiếng, cô không biết cần làm gì.

Thầy đồ họ Trần, đã đỗ tú tài gần mười năm trước ở quê nhà. Người lớn trong làng mỗi lần gặp đều chắp tay thưa Trần tú tài hoặc Trần sư phụ.

– Con nhờ ca cháu mang mấy bảng chữ qua chỗ Trần sư phụ, cháu theo luôn.

– Dạ. Bạch sư con về.

Ha, vậy là cô có hy vọng rồi, là muốn thầy đồ nhìn cô sao. Nữ giới ở thời này đúng là thiệt thòi đủ thứ, chỉ muốn học vài chữ thôi mà! Đâu có muốn thi trạng nguyên tiến sĩ gì đâu!

Cô và An ca xếp hết mấy chữ gỗ lên ghe nhỏ, cô kéo a Phúc đi theo. Hắn nhăn nhó nhưng mà cũng hiếu kỳ nên cũng lên ghe. Trời đã về chiều, gió thổi trên con rạch mát rượi. Mai ngồi cạnh a Phúc nhìn ra tứ phía.

– Tỷ, thêm hai nhà sàn nữa đó, hôm trước nhà đó bắt được con ba ba lớn lắm.

Nhìn tay a Phúc diễn tả, chắc hơn chục cân.

– Ca, hai nhà bên đó không mua dầu, họ đốt bằng cái gì?

Mấy đứa nhỏ để ý thấy hai nhà bên đó có mua đá lửa, kim chỉ nhưng không thấy mua dầu đốt. Không lẽ nào buổi tối không cần đốt đèn trong nhà? Hay họ mua bên quán của Lưu tam bá? – A Phúc, đệ xem thử nhà họ có mua dầu ở quán bên kia không?

A Phúc hiểu ý gật đầu. Hắn còn nhỏ, theo mấy đứa nhóc trong làng chạy chơi khắp nơi, cũng dễ “thám thính” tình hình hơn. Mai nhìn a Phúc đã tròn thêm một chút nữa rồi, hai bàn tay càng múp míp hơn, mắt hai mí giờ chỉ còn mí lót. Da con nít nên vẫn mát mịn, rờ rất thích. Mai suy nghĩ rất nhiều chuyện học chữ của a Phúc, có nên ép hắn hay không?

Rõ ràng là hắn không thích, nhưng hắn bảy tuổi rồi, đúng tuổi học chữ. Những nhà trong làng có con trai ai cũng đang chờ xem tiền học, mua bút mực rồi giấy là bao nhiêu để còn lo liệu.

Chuyện học hành mười năm, hai mươi năm đợi ngày đỗ đạt thành danh nhà nào cũng mơ tưởng. Nhưng được bao nhiêu người đạt thành. Cuộc sống ở đây không giống như Chánh Dinh hay Kinh đô. Chuyện mưu sanh, ăn no mặc đủ mới là thiết yếu.

Nhà mình không đến nỗi thiếu tiền học, cũng có thể cáng đáng mười năm nhưng quan trọng là người học phải có thiên bẩm, rèn luyện thì mới được. Người ta hay nói “ngọc bất trát bất thành khí”, nhưng mà cốt lõi đó phải là ngọc mới được.

Mai liếc mắt nhìn a Phúc đang hi ha kể chuyện “xấu” mấy đứa nhóc khác không khỏi phì cười. Phúc à, đệ không phải là ngọc, thôi thì để đệ làm chàng nông dân sống một đời vui vẻ là tốt rồi.

Lúc đến nhà Trần sư phụ thì người lớn đã đến, có Dương ông, sư ông, Vãi Pran và một lão ông râu dài hơi bạc. Mai đoán là Nguyễn lão ông lâu lâu mới xuất hiện. Nghe nói ông ấy đã từng học chữ mấy năm lúc ở nguyên quán. Nguyễn bá được ông dạy nên cũng biết vài chữ.

Trần sư phụ kêu thiếu niên Đồng Sanh ra phụ ba đứa nhỏ. Huynh ấy chắc cỡ tuổi a An, vóc người cao hơn nhưng không mạnh khỏe, chắc nịch như An ca. Điển hình của thư sinh nho nhã, dài lưng tốn vải đây mà.

Mai đi vòng ngoài cửa chuyển đồ nghe loáng thoáng câu chuyện bên trong. Đang bàn chuyện khi nào bắt đầu thu nhận học trò, tiền học, chuyện sinh hoạt của hai thầy trò Trần sư phụ tính sao.

– Sanh nhi là nghĩa tử của ta, theo học cũng mấy năm rồi. Theo lời Nguyễn lão và Dương ông, mỗi ngày học hai canh giờ buổi sáng cho thuận tiện. Ta có xem qua sách Vãi đưa, sơ học quyển đó phù hợp, đợi thời gian sau, trò nào tiến bộ thì tách lớp dạy thêm quyển mới. Những chuyện khác đều theo sắp xếp của Dương ông.

– Mai, con vào đây.

A, gọi mình vào sao? Mai trao mấy bảng gỗ đang cầm cho a An rồi vuốt thẳng vạt áo đi vào. Trần sư phụ nhìn nhanh qua gương mặt cô, hỏi:

– Bảng tập viết chữ là nhà cháu làm sao?

– Dạ phải.

– (Hừm,) Trong giờ học ta cần người dâng trà nước, cháu đến làm được không? Ta có trả chút tiền, lúc không có việc cháu ngồi phía cuối lớp là được.

Hả, là sắp xếp cho cô tham gia học bằng cách này sao? Cũng thiệt là,… mà như vậy cũng được rồi!

– Dạ, đa tạ bá, cháu sẽ xin cha nương.

Hôm sau, các nhà trong làng đều hỏi nhau chuyện cho đứa nào đi học. Học phí là hai quan một năm, chưa kể tiền giấy, bút, mực. Mỗi ngày hai canh giờ, lúc mùa vụ thì được nghỉ ở nhà làm việc. Con trai từ bảy đến mười lăm tuổi đều có thể đăng ký học. Qua ngày rằm tháng chín này là ngày tốt sẽ bắt đầu học.

Có một thúc thúc trong làng đến cưa gỗ nhà Mai nói:

– Nhà ta chỉ để đứa lớn đi học, đứa nhỏ phải đợi năm sau coi như thế nào mới tính. Mà Trần tú tài muốn khai hoang hai mẫu đất trồng ít lúa năm sau. Ta xin Dương ông nói giúp, ta cuốc đất bù tiền học phí, không biết được không.

– Vậy hả, ta không biết để xin. Sắp đến vụ mùa rồi, đi học không được mấy ngày. Mấy đứa con ta đều để qua năm mới học, đâu có gấp gáp gì.

Mỗi người một câu, tùy hoàn cảnh mỗi nhà mà sắp xếp. Trần sư phụ biết làm ruộng sao? Nhìn hai bàn tay của ông ấy và Đồng Sanh đều chưa hề cầm cuốc, cầm liềm. Đúng là phải nhờ người trong làng giúp rồi. Mà trao đổi như vậy lại tốt, hai bên đều hưởng lợi.Chương 128: Khai giảngChuyện Mai đến trường pha trà nước, bà nội và nương nhíu mày không hài lòng. Nhưng mà Mai nói cô muốn đi, còn học lén mấy chữ. Thấy cô rất thích thì cả nhà cũng lơ đi, coi như đồng ý.

Xung quanh đây là nông dân, đánh cá, tay làm hàm nhai. Họ không quen chuyện có người hầu hạ hoăc đi hầu hạ người khác. Cho nên bà nội và nương không thích Mai đi dâng trà, pha nước, dù đó là thầy đồ cũng vậy. Mai còn nhỏ như vậy, làm sao để cô làm.

Những nhà phú hộ có gia đinh, tỳ nữ thì đa số là mồ côi, được nhận nuôi từ nhỏ. Lúc họ lớn lên cũng được nhà chủ dựng vợ gả chồng, rồi giúp việc trông coi, quản lý trong ngoài. Người nào muốn ra làm riêng đều được cho một ít ruộng đất, ráng chịu cực khổ vài năm lập nghiệp. Vùng này đất rộng người thưa, ai siêng năng giỏi giắn thì từ từ sẽ sống được.

A An thì cứ nhíu mày, học buổi sáng thì hắn đâu bán ở tiệm được, ngũ cô, lục cô đã bận rộn lắm rồi. Làng Đông Hồ ngày càng đông, mỗi ngày hắn cũng kiếm được mười mấy văn, nỡ bỏ sao?

Không nghĩ tới chuyện đi học lại gặp nhiều “trắc trở” như vậy. Ở đây người ta vẫn chưa coi trọng chuyện học chữ, thi cử. Cũng phải thôi, có ăn có mặc rồi mới tính tới chuyện học hành, danh lợi chứ.

Ngày mười chín tháng chín đúng là ngày tốt, trời trong xanh không một gợn mây. Mặt vũng Đông Hồ mênh mông, chỉ lăn tăn vài gợn sóng nhỏ. Cha chống ghe đưa bốn đứa nhỏ vào trong làng. A Vĩnh là đến xem, rồi đi về nhà Đỗ lang y.

Giữa sân làng xôn xao, đã có mấy chiếc ghe đến trước. Có hai nhà ở làng Tô Châu đưa con trai qua học, còn có một nhà ở làng phú hộ Từ cũng đưa con đến. Vậy nhà họ phải dậy sớm từ canh năm. Các vị lão làng đều đã đến. Phía trước lớp học, có bày hương án. Giống như cúng tổ nghề, “nghề văn” có Đức Không tử, Mạnh tử và Lão tử.

Trần tú tài nhìn canh giờ xem chừng đã đến. Ông khoát tay để mọi người im lặng. Bản thân ông vuốt tay áo, vạt áo tề chỉnh rồi gật đầu để Đồng Sanh đốt nhang. Ông nhận ba cây nhang lớn, hướng về phía hương án lâm râm khấn vái, rồi lạy sáu lạy. Sau đó ông thế chỗ Đồng Sanh, đốt nhang trao cho Nguyễn lão ông bước lên khấn vái. Thì ra người nào đã từng chính thức đi học mới được khấn lạy tổ.

Đồng Sanh đi xuống phía dưới dắt mấy đứa học trò bước lên khoảng sân trước hương án. A Phúc hơi run run đi lên, chưa gì đã bị dọa. Mai đương nhiên là không được phép rồi. Một đám con trai cỡ mười đứa lớn nhỏ không đồng, khoanh tay nghiêm trang nghe Trần tú tài dặn dò. Ông nói rất văn hoa, có vài từ rất lạ, Mai chỉ loáng thoáng nghe ra đại khái là theo tam cang ngũ thường, tôn sư trọng đạo.

Đợi làm xong lễ thì học trò tiến vào lớp. Mai đã lén đi trước ngồi ở góc phía cuối. Nhóm người lớn chào hỏi xong thì ai cũng về lo việc nhà. Hôm nay buổi đầu tiên, Trần tú tài nói:

– Các trò đã đi học thì tuân theo qui định của học tràng. Đồng Sanh là huynh trưởng, cũng là trưởng tràng năm nay. Các năm sau sẽ tranh tài, người nào giỏi nhất sẽ làm trưởng tràng trong năm đó. Bây giờ các trò nghe trưởng tràng căn dặn.

Tiếp theo, Đồng Sanh đứng dậy đọc ra các qui định, đại khái có:

– Giờ học là đầu giờ thìn đến giờ mẹo, không được đi trễ. Ai đến trễ sẽ không được vào lớp, quỳ ở bên ngoài chái để học. Ai trễ nhiều lần sẽ bị phạt, quá hơn thì bị đuổi học.

– Mỗi ngày có hai trò đến sớm hai khắc để dọn dẹp lớp học và bàn ghế. Lúc về cũng ở lại một khắc quét sân, vệ sinh.

– Học chín ngày thì ngày thứ mười được nghỉ, những tháng nguyệt khuyết sẽ nghỉ sớm một ngày

– Những lúc đến mùa làm ruộng thì thầy sẽ thông báo cho nghỉ.

Còn một số cái khác như trong tràng thì kính thầy, hòa hảo đồng học, không gây sự đánh nhau cả trong và ngoài lớp. Ra ngoài thì mực thước, kính trên nhường dưới.

Trưởng tràng Đồng Sanh này đúng là rất nhập tâm. Nhiều qui định như vậy mà không nhầm không lắp chữ nào.

Lúc nãy vào lớp a Phúc định xuống ngồi bàn kế chót gần Mai, nhưng cô trừng mắt làm hắn chạy lên ngồi bàn thứ hai. Hắn là lùn nhất lớp rồi, còn ngồi phía dưới sao được. An ca đương nhiên là ngồi chỗ đó. Năm nay hắn mười bốn, hắn tự nghĩ mình học mọt năm thôi, biết vài chữ để sau này buôn bán là được. Cho nên hắn ngồi học mà cứ nghĩ chuyện ở quán, ngũ cô có bán được gì không đây?

Lúc đến đăng ký xin học, Trần tú tài đã dặn các nhà làm bảng gỗ bốn tấc, sáu tấc cho tụi nhỏ mang theo, còn mua thêm cây bút lông làm từ lông bò, thỏi mực khô.

Mai không thấy Tùng huynh đến học, chẳng lẽ huynh ấy hơn mười lăm tuổi rồi? Có người em kế cỡ tuổi Vĩnh ca đến, nhìn bộ “đồ nghề” mang theo rất bài bản, đúng là nhà có chữ nên khác. Lần trước Mai đã mua còn chưa dám xài, bây giờ buột lòng phải đem ra dùng. Ba anh em cô xài chung nghiên mực, thỏi mực, tính ra cũng không phí lắm. Hay là mình lấy lá thốt nốt thay giấy đi, năm đầu chắc chỉ học từng chữ theo kiểu chữ lớn thôi.

Đầu tháng mười năm nay, chuyện được các vùng xung quanh nói đến đương nhiên là việc làng Đông Hồ có trường dạy chữ đầu tiên. Các làng xung quanh nghe tin đều muốn đến xem. Mấy nhà khá giả hoặc muốn cho con học hành đỗ đạt đều chống ghe đến. Dương ông vừa vui vẻ vừa hãnh diện đón tiếp.

Có điều rất hay là Trần tú tài rất nghiêm túc. Trong giờ lên lớp ông không tiếp khách, cũng nhờ Dương ông tiếp ở nhà mình. Khi hết giờ dạy ông mới đến chào hỏi. Chuyện này càng làm “tiếng lành” đồn xa.

Qua mười ngày thì lớp có thêm hai trò nữa, nâng lên mười hai trò và trưởng tràng Đông Sanh là mười ba, thêm Mai nữa là mười bốn.

Từ hôm đi học, buổi sáng Mai đến sớm một chút. Cô pha bình trà cho Thầy, để mâm gỗ trên bàn nhỏ cạnh chỗ thầy ngồi là xong. Học một canh giờ thì Thầy cho nghỉ nửa khắc.

Đúng như Mai nghĩ, mấy đứa nhỏ đang tập viết chữ lớn, đơn giản như gia, điền. Thầy còn dạy phần học “luân lý” là học theo quyển Tam tự kinh. Tam tự kinh là một quyển sách nhỏ, có các bài đọc mỗi câu ba chữ, có vần như thơ. Thường hai câu ghép lại có ý nghĩa, Thầy sẽ giải thích. Như hai câu đầu:

Nhân chi sơ,

Tánh bổn thiện.

Thầy giải nghĩa mất gần một khắc mới xong. Mấy đứa nhỏ không biết có hiểu hay không mà hễ Thầy gõ thước lên bàn là tụi nó gật đầu.

An ca thì cứ thắc mắc sao không thấy Thầy dạy làm toán. Mai phì cười trêu:

– Làm như ai đi học cũng để làm tiểu nhị như ca sao? Người ta đi học làm trạng nguyên, bảng nhãn đó, biết tính tiền làm gì?

An ca bĩu môi, lại cúi đầu xuống ghi ghi trên sổ nhỏ. Từ ngày cha thuê thêm thợ đến làm, An ca đều “điểm danh” thợ. Cứ mười ngày cha sẽ trả tiền công một lần. Mọi người đều vui vẻ, còn khen An ca tính toán giỏi, y như họ tính, không thừa không thiếu.

Từ hôm đi học đến nay, Mai cũng phấn khích làm quen với cách học mới. Cô càng bận rộn hơn, nên chuyện làm hồng lạp đành gác lại. Thật ra cô thử làm một lần nhưng khi trộn chất nước đỏ vào sáp ong đang nấu thì nó ra màu đỏ nhưng lúc đốt không cháy được.

Dì dượng năm ghé lấy bạch lạp hồi đầu tháng rồi cũng đi nhanh. Ngày mùa là lúc nhà nông mua đồ dùng, thức ăn nhiều nhất. Hơn nữa gần Tết rồi, Dì dượng đều đang chuẩn bị cho dịp mua bán sắp tới.

Trường học khai giảng được gần mười ngày thì Vãi Pran về Nam Vang. Mai xin nương cái bình đất nhỏ đựng tương hột, dặn theo:

– Tương hột này cháu làm nhanh, nên không để được lâu. Ở nhà cháu có làm nước chấm thay muối, cũng từ đận nành nhưng mà đến gần Tết mới ăn được.

– Cuối tháng mười một này ta có việc đi lên đó, kịp không?

Đến lúc đó thì bình nước tương mới được hơn ba tháng, không biết có ăn được chưa. Mai nhăn mày tính toán thì nghe Vãi Pran nói:

– Đường đi xa xôi, nếu sư huynh thấy được, học cách làm. (e hèm) Đệ thấy tương hột này rất thơm, chắc các huynh đệ sẽ thích.

Ha, vậy là Vãi Pran rất thích món tương hột rồi! Người ăn chay không thể ăn nước mắm làm từ cá, họ thay bằng nước muối. Bây giờ có món tương hột vừa đủ mặn, vừa bùi lại thơm. Tương hột ăn với rau luộc, cơm nóng thì ngon khỏi chê rồi.Chương 129: Nước lênChưa đến rằm Hạ Nguyên, mười lăm tháng mười thì lúa đã chín vàng. Cha nương bón phân thúc cho lúa nhưng chỉ làm cây lúa cao hơn, mà không làm chín sớm. Trong khi Nguyễn gia bên kia thì đã bắt đầu gặt từ mấy ngày trước. Ông nội và tam bá đã vào giúp đập lúa. Mấy nhà trong làng cũng có nhà ra ruộng canh rồi.

Trong tháng chín cha đã giao thêm mười chiếc ghe nữa, đợt này còn bốn chiếc, cha vẫn ở nhà ngoại làm tiếp. Thành ra việc trong nhà là ông nội chỉ dẫn làm. Trần tú tài cũng cho lớp học trò nghỉ từ trước ngày rằm.

Hôm Cúc tỷ về theo ghe nhắn lời ông ngoại, nước thượng nguồn đã lên cao. Mười ngày nửa tháng sẽ tràn về. Nhà ngoại đã cắt lúa xong, nhắn ngoài đây tranh thủ đập nhanh. Tin vừa truyền ra thì nhà nhà đều dọn sân, ra ruộng, tranh thủ cắt trước mấy đám lúa trổ sớm. Lúa trên ruộng hiếm khi chín một lượt, chỗ chín trước, chỗ chín sau là chuyện thường.

Không khí ngoài ruộng đã nhộn nhịp, tiếng người nói chuyện, gọi nhau í ới. Nhà Mai còn có người làm việc, Lưu bá bên kia càng lo lắng hơn. Lưu bá mẫu mang thai tháng thứ tám rồi, đâu thể làm việc nặng. Bên đó chỉ có Lưu bá, Tương huynh và tam Mi tỷ ra ruộng. Nhà Lưu bá ngoài làng chài chưa vô kịp. Những nhà trong làng thì đều lo phần ruộng nhà mình trước. Lưu bá đành gặt bao nhiêu hay bấy nhiêu, vừa gặt vừa lo nước lên, trông ngóng người nhà vào, thiệt là trông trời trong nước trông mây!

Nước còn cao đến đùi a Phúc, hắn vẫn chạy ào ào lùa đàn vịt vào những đám ruộng vừa đập xong. Trên tay còn cầm theo cái đυ.c, tranh thủ bắt cá tôm, cua kiếm thức ăn cho bữa cơm chiều. Mai ở trong nhà với bà nội lo nấu nướng, rồi quét sân coi lúa.

Buổi trưa ngày đầu tiên đập lúa thì sấm chớp ầm ầm, mây đen giăng khắp nơi. Ông nội nói không mưa liền, nhưng mà cộ lúa vừa đầy thì đã xúc vào bao vác vào nhà ngay. Gió mạnh kéo đến qua giờ mùi thì bắt đầu rớt mưa. Mưa không lớn, nhưng mà gió làm thân lúa ngả nghiêng, rụng hột. Nhóm người cắt cũng không theo hàng lối mà chia nhau cắt trước những đám lúc chín vàng, để trên bờ ruộng từng dãy. An ca, Vĩnh ca rồi Hùng huynh nhanh chân chạy lại ôm từng bó đến cộ đập, vất vả tăng gấp đôi.

Nhà Lưu tam bá xem ra nhàn nhã nhất. Năm nay bá ấy trồng chưa đến hai mẫu, lại sạ lúa sau nên vẫn chưa gặt được. Nhưng mà vài ngày nữa lúa chín trúng vào đợt nước lên thì càng cực nhọc hơn.

Sau cơn mưa lớn thì trời quang nắng tốt, thật là may. Bây giờ nhà nhà đều đem lúa ra phơi, tranh thủ sàng rồi quạt hạt lép.

Qua ngày rằm mấy bữa thì cha, thất thúc và Bình ca, còn có Sinh ca, Hữu ca về đến nhà. Chắc đã xong bốn chiếc ghe còn lại rồi. Bình ca giao cho bà nội túi vải đựng bạc rồi nhanh chân theo cha ra ruộng. Mấy ngày nay chắc cha sốt ruột lắm. Có thêm người nên lục cô và a Cúc vào nhà giúp phơi lúa, nấu cơm.

– Bà nội, chiều nay nhà mình ăn cơm ngon một bữa đi.

– Ừ, để coi làm món gì?

– Làm gà nướng kiểu nhà Trương bá, vịt nướng cách đó cũng được.

– Vậy phải nói ngũ cô con vào ướp mới được.

– Dạ,

Lúc trước Trương bá đã hái cho nhà cô rất nhiều quế khô, hột tiêu khô, rồi trồng cây lá quế, cây nghệ ở vườn sau. Qua một mùa mưa, mấy cây này đã phát, nhành lá sum xuê xanh ngát, đến lúc ăn được rồi. Mà ngũ cô lại học được cách ướp và nướng gà rất ngon. Thịt gà hay thịt vịt ăn nướng đều ngon, đều có hương vị riêng; tùy theo sở thích của mọi người. Lớp mỡ dưới da con vịt lúc nướng rất thơm, vừa béo vừa giòn.

Từ hôm bắt đầu mùa gặt, a An cũng bán được thêm hơn chục con gà mập, trứng gà nữa. Mấy nhà trong làng có nuôi gà nhưng chưa đủ lớn, họ cũng muốn để gà mái ấp trứng, nên mua gà nhà Mai ăn để cả nhà có sức đập lúa.

Hơn nửa sân trước đã chất đầy lúa, hai cái bàn tròn kê sát gần nhau, có đống lửa lớn gần cổng. Ăn cơm xong ông nội còn muốn sàng lúa. Ngày mai có nắng tốt tranh thủ phơi khô rồi vô bồ. Gần bảy mẫu ruộng đã đủ cho hai nhà ăn quanh năm, mớ lúa nếp để dành nấu bánh trái cúng ngày Lễ tết. Cực khổ mấy hôm nay đổi lấy cả năm no bụng cũng đáng.

Bữa cơm ngoài gà vịt nướng còn có cá lóc nướng, mấy con cua rang muối để lai rai vài chung rượu. Mai lựa mấy bông lúa chắc hạt, khều mấy cục than đỏ ra cạnh rìa, rồi để bông lúa lên. Tiếng nổ lép bép là thành cớm gạo, mùi thơm nhè nhẹ, ăn vui miệng.

Mùa này tôm cá no đủ mập tròn, gà vịt theo đó cũng sung mãn. An ca mang một con gà, một con vịt nướng cho nhà Lưu bá. Lúc về ca kể chuyện hai nhà ở mé sông chiều nay đã qua phụ Lưu bá đập lúa. A. vậy tốt quá. Nghe tin từ làng chài vào, nhà nội Tương huynh trúng mẻ cá lớn, lo làm mắm cho xong mới vào phụ được.

Thời tiết năm nay mưa nhiều hơn, lúa đập xong rồi mà phơi chưa khô. Mấy nhà đều than thở, trải từng lớp lúa thật mỏng, cào trở thường hơn. Rốt cuộc nhà Mai cũng đập xong lúa. Mấy người lớn chạy qua phụ Lưu bá một tay, còn nhà Đỗ lang y nữa.

Trăng hạ tuần chênh vênh phía Bình San, gió thổi rất mạnh. Một đêm giông gió cũng qua. Mới sáng sớm đã nghe xôn xao tiếng người nói chuyện.

– Nước lên rồi, ngập gần nửa cồn rồi. A, không nghĩ chỉ trong một đêm mà nước lên nhanh vậy. Mấy con bờ nhỏ ngăn mấy đám ruộng đã ngập hết rồi. Ông nội và mấy người lớn nhanh chân vác lúa lên ghe rồi chèo nhanh về làng chài. Bà nội và lục cô cũng theo về.

Lúa vẫn chưa khô, đem về làng chài phải phơi thêm mấy nắng nữa, nhưng chần chờ ở đây thì lo nước lên cao không đi được nữa. Đợi hai ghe nhà nội khuất ở góc cua, cha lại vội chạy ra sau phụ Bình ca, An ca gia cố ao nuôi vịt. Cúc tỷ và ngũ cô thì ôm từng mảng bèo lớn thả vào trong ao. Mấy con vịt thích nhất là rúc mỏ tìm thức ăn trong bụi bèo hoặc đám lát. Có mấy cái này bọn chúng mới không đua theo vịt hoang mà đi mất.

– Cũng may ta kêu a Sinh, a Hữu về sớm, nếu không đến bây giờ về không kịp.

Bây giờ ở Trấn Giang chắc nước đã mênh mông rồi. Không biết nhà a Sao như thế nào? Nền đất bên đó không cao hơn mực nước bao nhiêu.

Không gì cản được được dòng nước, từ sáng đến chiều mà cồn đất giữa sông đã không thấy dạng, chỉ có mảng cây tràm cây đước xanh xanh. Con rạch trước nhà cô đã sắp đầy. Chưa cần lo nhà a Sao, nhà mình không biết có ngập hay không đây?

Cha không biết mực nước sẽ lên cao bao nhiêu nên dặn nương và ngũ cô đương thêm bao đựng lúa. Còn mình thì chống ghe vào làng hỏi thăm Dương ông. Vừa đi một đoạn thì Lưu bá gấp gáp chèo ghe qua, cha hỏi:

– Huynh vào làng hả? Nước lên cao bao nhiêu nữa?

– Chắc còn cao nữa, ta đi tìm bà đỡ. Nàng ấy sắp đến ngày sanh rồi. Ta qua dặn bà ấy.

Đúng rồi, lo chuyện đập lúa mà quên mất Lưu bá mẫu đã sang tháng thứ chín rồi. Nương dặn dò chuyện đương bao rồi xách nón qua thăm Lưu bá mẫu.

Lúc cha về, gương mặt lo lắng nói:

– Nhà Dương ông cũng lo chuyện ngập, đang vô bao hết lúa trong bồ.

Mực nước cao như vậy, nên đất sẽ ẩm, lúa dễ mốc hoặc nảy mầm thì không ăn được. Cha ra gọi Hân ca, thất thúc và Bình ca vào kê khung gỗ cứng cáp để chất lúa lên. Nhà bếp thì ngũ cô và Cúc tỷ nhanh tay đương đệm làm bao.

– Chút theo cha qua nhà Lưu bá kê bồ luôn. Con lựa gỗ chất xuống ghe đi.

Câu sau là cha dặn Bình ca. Bận rộn đến gần tối, nhìn ra ngoài thì mực nước dâng thêm một khúc rồi. Ngoài mặt vũng Đông Hồ lác đác mấy khúc cây bị nước cuốn từ miệt trong ra. Lưu bá và Tương huynh chống ghe qua chở thêm gỗ về. Mọi người ăn cơm chiều xong qua đó tranh thủ làm đêm cho kịp. Nếu không ráng, lỡ đêm nay nước lên thì công sức cả năm bỏ sông bỏ biển hết.

Đến đêm trời lại mưa lâm râm, gió thổi càng mạnh. Mai thao thức ngủ không yên. Cô như cảm thấy nước đang dâng, như có thể “nghe” nước đang chảy cuồn cuộn từ thượng nguồn về đây. Mai hơi sợ, từ nhỏ cô chưa hề trải qua cảnh đồng nước mênh mông như cảnh tượng lúc chiều ở vũng Đông Hồ, đâu đâu cũng là nước. Nhìn có vẻ hiền hòa nhưng chứa trong lòng một sức mạnh rất lớn, không gì cản nổi. Lúc này ở phía thượng nguồn Tiền Giang, Hâu Giang chắc mênh mông biển nước.

Mưa càng lúc càng lớn, gió lạnh lùa qua vách lá xào xạc. Mệt mỏi quá Mai cũng chìm vào giấc ngủ. Đến sáng khi cô giựt mình tỉnh giấc thì trời vẫn còn mưa, là mưa suốt đêm sao?

Phản ứng đầu tiên là cô chồm dậy nhìn xuống nền đất, may quá, chưa ngập!

Cô đi xuống nhà sau thì thấy An ca và Ngũ cô đang ngồi bên rổ hột gà hột vịt:

– Mấy hột đẻ rớt trong nước mau hư, hôm nay chiên ăn đi. Cô sợ làm hột muối cũng không được.

Lúc trước làm một thau hột vịt muối ướp tro. Mấy hôm đập lúa, Mai mang ra cho cả nhà ăn thử, ai cũng thích. Lòng đỏ hột vịt muối bùi bùi, dẻo dẻo, ăn với cháo gạo là ngon nhứt. Hôm nào trong bụng không khỏe, có thể ăn món này, bỏ thêm ít gừng vào cháo, vừa ấm bụng vừa khỏe người. Ngày bà nội về làng chài, nương đã đưa hết cho bà mang về. Mấy hôm nay ngũ cô đang gom hột mới để làm lần hai.

Đàn vịt thấy nước về thì cạp cạp inh ỏi, muốn tuôn theo con nước bơi đi. Con Mực với a Phúc phải lội quanh ao canh chừng. Còn đàn gà thì nhày vội lên chuồng mà đứng.Chương 130: Vào rừng tìm ngườiĂn sáng xong thì ai lo việc nấy, xưởng gỗ vẫn tiếp tục đóng ghe nhỏ, ghe lớn. Đơn hàng hai mươi cái làm xong, ai cũng vui mừng hớn hở, thật không nghĩ mình làm được như giao hẹn. Bùi gia đúng lời, giao hết ghe thì cũng trả xong tiền. Hai trăm mấy chục quan toàn bằng đỉnh bạc. Nhờ cậu hai đổi ra một phần tiền kẽm để dễ trả tiền cho nhóm thợ.

Phùng gia phía cuối làng, sau khi tính tiền công được gần năm quan, nhà họ bù vô để đổi thành một đỉnh bạc. Mọi người cười vui săm soi đỉnh bạc sáng loáng. Đúng là quá chừng tiền kẽm mới đổi được cái này.

Cha đã gởi thêm tiền công khó nhọc cho thúc bá trong làng, nhờ đốn thêm gỗ để dự trữ. Cha tính đóng thêm bốn năm chiếc nhỏ và hai ba ghe lớn để ở tiệm Phụng Hiệp. Ở nhà mình cũng để sẵn khi khách đến mua thì bán luôn.

Hết tháng mười này Trần sư phụ mới bắt đầu dạy học tiếp. Mai mang giỏ đệm, đội nón lá chạy ù ra trước cửa quán. Cô vừa lẩm nhẩm học chữ vừa nhìn ra mặt nước mênh mông. Con rạch đầy nước vỗ ì oạch lên bờ đất. Chỉ cần một gợn sóng nhỏ cũng đủ làm nước lan lên bờ.

Trời vẫn mưa lâm râm, mấy đàn chim vẫn bay liệng tới lui săn mồi. Thỉnh thoảng chúng chao nhanh như chớp xuống mặt nước rồi vụt bay lên, mỏ quặp con cá. Khả năng đáp nước rồi vυ't lên như chớp này thật diệu kỳ, máy móc hiện đại của con người không thể sánh kịp. Vũng Đông Hồ vắng vẻ, nhưng phía con rạch nhỏ trong làng vẫn có người giăng câu, đánh lưới.

Quán nhà Lưu tam bá bên kia không biết từ lúc nào đã trở thành nơi tụ tập của người trong làng. Nghe nói có bán rượu, đồ nhắm. Có hôm Lưu tam bá mẫu sang nhà cô hỏi “mượn” vịt nữa. Bá mẫu nói hôm đó ở nhà không bẫy được vịt làm mồi nhậu cho khách nên mượn đỡ nhà Mai. Hôm sau chắc chắn bẫy được mang qua trả.

“Trời, có tính được vậy sao?” Đâu có ai muốn đổi như vậy, ngũ cô không thích nhưng chưa biết trả lời sao thì Mai nhanh miệng nói:

– Dạ, cháu cũng tính qua mượn khăn thêu chữ Phúc mới của tứ tỷ về học thêu. Chút cháu bắt con vịt cồ qua nhà bá mẫu rồi mượn khăn luôn.

– Hả? Cái khăn đó, để ta về xem a Ngọc cất ở đâu.

Nói rồi bà đứng dậy, xách nón đi về. Mai bĩu môi nhìn theo, ngũ cô hơi cười nói:

– Con vịt đổi cái khăn thêu, cũng đáng giá.

Ha ha, chắc chắn tam bá mẫu không đổi rồi. Bá mẫu làm quen như thế nào mà được nhà phú hộ Từ biết mặt. Nghe nói hôm rằm Hạ Nguyên thấy Từ tiểu thơ đi chùa có cầm khăn thêu ngũ phúc rất đẹp. Ở chỗ đông người tam bá mẫu thân thiết muôn mượn về xem để làm mẫu cho Ngọc tỷ thêu.

Đồ trên tay tiểu thơ nhà người ta, làm sao đưa ra ngoài? Từ tiểu thơ cũng biết lẽ nên nói trong nhà còn có vài mẫu thêu đẹp, hôm nào mời tam bá mẫu và Ngọc tỷ đến xem làm mẫu. Không biết người ta mời lơi hay thiệt, nhưng mà tam bá mẫu thật sự dẫn Ngọc tỷ đến đó, lúc về thì được tặng cái khăn thêu. Đương nhiên không phải do Từ tiểu thơ đích thân thêu rồi, còn ai thêu thì ai mà biết chứ.

Lưu tam bá mẫu rất hãnh diện chuyện này, xem như là có quen biết với nhà giàu nhất vùng, còn được tặng quà nữa. Mai chỉ nghe nói, chưa thật sự thấy cái khăn đó. Cô cũng không bận tâm lắm, lúc nãy là cô bực bội chuyện tam bá mẫu “mượn” con vịt nhà mình rồi bán lại cho khách, kỳ cục quá nên đem chuyện này ra trêu thôi.

Cô có thể vẽ được một cái ghe, lẽ nào không vẽ được mấy mẫu thêu. Nói thật là cô không thích chuyện ngồi cả ngày để thêu thùa, vừa hại mắt mà con đau lưng. Ngồi nhiều lúc về già không tốt chút nào!

Sau này a Cúc về làm dâu La gia, cũng không cần phải có tài thêu “tuyệt đỉnh” làm gì. Giống như nương và ngũ cô, biết cắt vải, may vá quần áo là được rồi.

Mai nghe tiếng lao xao bên quán nhà Lưu tam bá. Nước lên cao, vừa gặt lúa xong nên mấy người đàn ông rảng rỗi được đi uống rượu đây mà.

Liên tiếp hai ba ngày sau, nước không dâng ồ ạt nữa mà cứ lững lững, mấp mé bờ rạch. Đến ngày chợ phiên, Hùng huynh và a Báo bán xong con mồi săn được thì giang ghe vào nhà cô. Nước dâng cao cũng không thể cản mấy đứa con trai vui đùa, tìm trò chơi. Con rạch rộng hơn làm mấy đứa nhỏ nghĩ ra trò đua ghe.

An ca và a Phúc một đội, cô và a Báo một đội. A Báo dành làm đội trưởng, đứng mũi ghe chèo. Kết quả ư? đương nhiên là đội cô thua rồi, a Báo có thể bắn cung tên giỏi, chạy nhanh, nhưng chèo ghe thì làm sao bằng a An được. Thua hai lần liên tiếp khiến a Báo hết hứng thú. Mấy đứa rủ nhau chèo ghe ra ven mặt vũng hái nấm tràm, kiếm hột vịt, trứng chim.

Quanh quẩn, len lỏi trong rừng tràm đến trưa thì đã hái lượm được nào là nấm tràm, hột vịt. Còn có một ổ vịt con vừa nở, trứng mấy con chim vỏ màu trắng, bông, xanh đủ cỡ. A Báo vậy mà hay, còn lấy được một tổ ong tràm nhỏ. May là không bị đám ong dí, chúng ngửi mùi khói bay mấy vòng thì bỏ tổ đi mất.

Lúc đang ăn cơm trưa thì có ghe cập bến. Tiếng bước chân đi vào rất vội. Cả nhà ngạc nhiên đứng dậy nhìn. Là dì năm, đi chung còn có ông ngoại, Sinh ca; thêm Lý thúc và a Sao nữa. Có chuyện rồi!

Ai cũng thấy mắt dì năm đỏ hoe, sưng to, là khóc nhiều lắm!

– Cha ăn cơm.

– Ừ.

Sáng nay chắc từ nhà Lý thúc đi rất sớm, ông ngoại cũng không khách sáo mà ngồi xuống bàn dài nhà trên. Ông liếc dì năm nói:

– Ăn cơm xong rồi nói.

Câu này cũng chặn luôn mấy câu hỏi của cha nương Mai. Ừ, dù sao ăn cơm xong rồi nói, không muộn. Nghĩ như vậy nhưng ai cũng ăn nhanh hơn bình thường, dọn dẹp chén đũa xong thì chia nhau ngồi trên hai bộ ván nhà trên. Ông ngoại chầm chậm nói mấy chuyện đã xảy ra cách đây gần nửa tháng.

Nước bắt đầu dâng lên, cũng giống như ở đây, nhà nào cũng lo phơi khô lúa, cho vô bao rồi kê cây dưới nền, mới dám chất lên. Dì dượng năm sau khi bán hết đèn cầy, thấy nước lên cao nên cũng đến nhà ngoại nghỉ tạm mấy hôm. Qua được hai ngày thì có khách đến tìm dượng. Kể chuyện có ghe của đồng hương đi vào miệt chợ Bàu Sen đã gần mười ngày mà chưa quay về. Nhóm người đó đi ghe lớn, cũng gần mười người, cũng có người biết xuyên rừng, không thể nào lạc đường. Họ e ngại là gặp tai nạn nên muốn nhờ dượng năm đi cùng tìm kiếm. Dượng năm đã đi lại quanh vùng mấy năm nay, cơ hội tìm được người sẽ cao.

Dượng nghe kể thì giao việc nhà lại cho dì năm, dặn dì cứ ở nhà ngoại, dăm ba bữa sẽ nhắn tin về. Nói rồi dượng theo mấy người họ đi tìm. Gần một tuần sau vẫn không nghe tin tức gì, nước lại dâng cao từng ngày. Dì năm trông đứng trông ngồi, cứ khóc liên miên. Ông bà ngoại cũng sốt ruột, cậu hai nói để cậu chống ghe đến chợ Bàu Sen hỏi thăm tin tức. Bằng hữu người Chân lạp ở ngay đó có thể biết tin.

Đến lượt cậu hai đi rồi, ba bốn ngày cũng không về. Từ Phụng Hiệp đến chợ chỉ đi hơn nửa ngày là tới, không thể nào lâu như vậy, trừ khi cậu đi sâu vào rừng tìm nhóm người dượng năm luôn. Suy đoán này dì năm càng lo lắng, ông bà ngoại không yên được. Thế nên mấy ngày trước ông ngoại, Sinh ca và dì năm đi đến chợ Bàu Sen, gặp lúc nước lên cao, có chỗ chảy xiết, phải chống chèo vất vả. Đến chỗ chợ phiên bàu Sen thì thấy cảnh tan hoang, mấy ngôi nhà sàn bị dòng nước kéo đổ. Vách mái lá đổ xuống, trôi nổi rồi vướng lại tại mé rừng tràm. Chỉ còn có chỗ gò cao giữa chợ là nổi trên mặt nước. Ngôi nhà sàn của Thon bá vắng hoe, không có người, bếp tàn nhà lạnh. Ba người chống ghe xung quanh thì tìm được hai ngôi nhà vẫn còn người sinh sống, ngặt nỗi họ không nói tiếng Việt nhiều. Qua lời kể đứt đoạn thì mấy ngày trước nước xoáy làm nhà cửa, ghe xuống tan tác. Mọi người ai có ghe đều di tản hết. Hôm trước đúng là có người đến tìm Thon bá, ngủ lại một đêm rồi cùng nhau đi về mé rừng, không biết đi đâu.

Ba người thấy trời đã tối nên ngủ lại nhà Thon bá. Cũng may nước đã bắt đầu rút xuống, nên chuyến đi tới Giá Khê không có nguy hiểm. Lý thúc nghe chuyện thì tháp tùng đến đây. Trên đường có để ý hỏi thăm một số ghe thương lái đang vội vã tìm chỗ an toàn khi thấy nước ròng.

– Ta đoán a Thon biết tin tức hoặc đoán được nhóm người đi hướng nào, nên mới cùng nhị ca con đi theo. Nước rút so với với dông đôi khi còn nguy hiểm hơn, dễ mắc cạn trong rừng tràm mênh mông. Không thôi là bị kéo ra biển luôn. Ta nghĩ nhà con sẽ đóng thêm ghe nhỏ, nên muốn đến mượn một hai cái để vào trong đó dò thử.

– Được cha, có mấy chiếc vừa đóng xong. Con sẽ đi cùng a Sinh dò tìm. Cha lớn tuổi rồi, với nữa cha ở nhà còn để ý tin tức nhóm của dượng út và họ hàng dượng ấy.

Lời cha nói rất có lý. Ông ngoại đã lớn tuổi, rừng khuya sương độc làm sao chịu nổi. Lý thúc trầm tư một lát thì chậm rãi nói:

– Từ Giá Khê đến Bàu Sen là mảng rừng mênh mông. Ít người lai vãng. Cuối làng ta có a Vọc đã mấy lần tìm trầm, săn thú đã từng đi vào chỗ sâu nhất. Đệ nghĩ chúng ta quay lại Giá Khê nhờ a Vọc dẫn đường, vừa an toàn vừa có hy vọng tìm thấy Nguyễn huynh và a Thon.

– Được, nhờ đệ nói giúp một lời. Nhưng mà đệ không thể theo chúng ta.

Lý thúc trầm mặt, nhìn xuống chân mình rồi thở dài nói:

– Vậy đệ ở lại đây giúp huynh coi ngó cửa nhà. A Sao, con đến nhà Vọc bá nhắn lại lời cha.

– Dạ, con biết.

Tiếp theo là sắp xếp ai đi ai ở, còn nhờ người truyền tin về nhà ngoại. Không thấy ông ngoại về, ở nhà bên đó càng lo lắng nhiều hơn.Chương 131: Chuẩn bịCha, Sinh ca và Bình ca đều đi, thêm Vọc bá nữa là bốn người. Mai nghĩ nghĩ rồi nói:

– Con sẽ đi theo,

– Không được!

Nhiều người đều lên tiếng, nhưng Mai chỉ chậm chậm giải thích vì sao cô nên đi cùng. Chuyện có thể ngăn trở cậu hai không quay về được thì hoặc là lạc đường, hoặc là bị thương. Thon bá rất rành đường đi nước bước ở quanh đó, cậu hai cũng biết đôi chút. Trước đây không phải cậu bị lạc trong rừng cả tháng vẫn quay về được đó sao? Nếu không nắm chắc thì cậu và Thon bá sẽ không đi ngay mà không chuẩn bị chu đáo.

Như vậy, lý do lớn nhất là cậu hai đã gặp nhóm của dượng, họ bị thương hoặc gặp nguy hiểm gì đó mà không thể quay về nhanh. Trong nhà mình, chỉ có cô biết cách trị thương, a Vĩnh chưa thành thục. Người bị thương được chữa trị càng sớm càng tốt, đặc biệt là trong rừng.

– Đường đi trong rừng không dễ dàng, sức con không kham nổi đâu.

– Có cha, Bình ca, con nhẹ hơn Vĩnh ca, cha cõng con cũng dễ dàng hơn.

– Cháu sẽ theo luôn.

A Sao thấy mọi người không đồng ý thì lên tiếng. Trong nhóm người ở đây, chỉ có cha con Lý thúc và Hùng huynh là kiếm ăn từ rừng. Chuyện bao nhiêu tổ ong bán nhà Mai đều do a Sao một mình đi lấy trong rừng. Nên hắn tuy nhỏ tuổi nhưng bản lĩnh đi rừng, nhất là rừng tràm ngập mặn không ít.

Nhắc mới nhớ, nãy giờ không nghe huynh đệ Hùng huynh lên tiếng. Lúc nãy a báo muốn nói gì đó thì bị Hùng huynh giằng lại. Đợi nghe xong sắp xếp của mọi người huynh ấy mới cáo từ, xin phép ra về.

Nhắc đến chuyện cậu hai có thể bị thương trong rừng làm mọi người càng lo lắng. Nương chuẩn bị hành trang gồm thức ăn, quần áo, mấy tấm nốp che mưa. Cha dặn dò việc ở xưởng gỗ để thất thúc, Vinh ca và Hân ca lo liệu. Lúc nãy ba người đòi đi theo nhưng ông ngoại lên tiếng không đồng ý. Chuyện nhà mình, đến làm phiền nhà con rể là chuyện bất đắc dĩ, đâu thể để nhà sui gia liên lụy.

– Các cháu giúp cáng đáng việc ở xưởng, không chậm trễ là ta đã cảm kích. Sau này ta sẽ đến nhà thông gia thăm hỏi. Đừng vì chuyện này mà sanh ra điều cản trở. Có thể nhà ta quá lo lắng thôi.

Cái uy của ông ngoại đến cha Mai còn phải sợ, huống hồ mấy thiếu niên này. Ba người dạ thưa rồi phụ tay đưa hai chiếc ghe hột vịt hạ thủy.

Lần này sẽ dùng một ghe lớn và hai ghe nhỏ tiến vào rừng. Lý thúc đưa cho cha cây mác của mình. Người đi rừng, đặc biệt là rừng rậm luôn có một số dụng cụ chuyên biệt. Giống như cây mác này, cán làm bằng gỗ, cầm rất thuận tay, lưỡi mác dài, sắc cạnh để mở đường trong rừng, cũng làm vũ khí lợi hại khi gặp thú dữ.

A Sao cũng có cây mác của riêng hắn, nhỏ hơn Lý thúc một chút, hình dáng tương tự.

Cha và Bình ca cũng chọn mang theo búa đốn gỗ và con dao mác nhà nông. Mai với a An và a Phúc tranh thủ chạy ra hai nhà sàn ở ven vũng Đông Hồ.

Chuyện hôm trước cô nhờ a Phúc “điều tra” xem hai nhà đó mua dầu đốt ở đâu. Kết quả thật kinh ngạc, họ không mua dầu đốt mà dùng một loại trái cây sống ven sông rạch, phơi khô rồi chẻ làm mấy phần đốt trong cái tô đất. Mai nhớ ra đó là trái mù u. Đúng rồi, những năm trước khi có đèn điện những nhà ở vùng quê muốn tiết kiệm dầu lửa sẽ dùng trái mù u để đốt. Thật không nghĩ tới, người ta đã biết dùng trái mù u từ thời này rồi. Ba đứa nhỏ chèo ghe ra đến cầu ván vào một nhà sàn thì hỏi vọng vào:

– Có ai ở nhà không?

Bên trong là một bé gái cỡ tuổi Mai đi ra. Cô bé hơi rụt rè hỏi:

– Cha nương ta vào rừng tràm rồi, tỷ có chuyện gì?

– A, nhà muội có còn trái mù u không? Bán cho tỷ được không?

– Mù u, là cái gì?

À, phải rồi, ở đây người ta có thể gọi tên khác.

– Là trái cây phơi khô để đốt lửa đó.

– A, là tỷ nói trái lửa hả?

Mai gật đầu, đặt tên cũng quá dễ nhớ, trái lửa. Cô bé thấy Mai gật đầu thì không nói gì mà đi vào nhà mang ra một chậu đất đựng đầy vụn khô của trái mù u.

– Muội có nhiều lắm, tỷ thích thì lấy đi. Chiều nay muội đi hái nữa. Mai hơi mỉm cười nhìn bé gái thật thà này.

– Tỷ lấy hết, cái này cho muội.

Cô bé nhìn một xâu tiền kẽm thì hơi giật mình, rồi xua xua tay.

– Không cần, cái này không bán, cho tỷ đó.

– Muội nhận đi, nếu không ta không lấy trái lửa đâu. À, khi nào rãnh muội đến nhà tỷ chơi. Ở cái quán có cây phướng đỏ bay cao đó.

Cô bé nhìn theo tay Mai chỉ, gật đầu, hơi mỉm cười nhưng vẫn không nhận tiền. Mai thấy giằng co sẽ trễ giờ nên bước lên cầu ván, nhét tiền vào trong tay cô bé, ôm chậu đất. Cô quay lại mỉm cười nói:

– Tỷ có việc gấp, nhớ rãnh thì đến nhà tỷ chơi. Mai mốt tỷ trả lại cái chậu này.

Cô bé cũng cầm xâu tiền, hơi cười nhìn chiếc ghe lướt đi. Bao nhiêu đây không biết đốt được trong bao lâu? Có thêm đuốc và đèn cầy nữa, mình cứ lo liệu tốt nhất có thể. Rồi tùy tình huống mà tính tiếp.

Mặt trời ngả bóng dài, nước lên nhanh thì xuống cũng nhanh. Nhưng mà do ở đây gần biển nên nước rút nhanh, ở miệt trong chắc vẫn còn lênh láng. Khi những nhà khác nổi lửa nấu cơm chiều thì mọi người đã chuẩn bị xong. Nương, ngũ cô và Cúc tỷ mang mấy cái nồi, chậu đất đựng thức ăn để lên ghe. Tranh thủ vừa đi vừa ăn cơm chiều trên ghe.

– Có bóng ai trong làng chạy tới kìa.

A Phúc la lên, chỉ bóng người đang chạy vội vã đến, phía trước còn có con chó lớn vằn vện đang chạy. Là Hùng huynh! Mai hơi thở ra, mày cũng dãn ra. Lúc trưa không nghe huynh ấy nói gì. Trong nhóm người thì huynh ấy vừa có sức khỏe, vừa có kinh nghiệm đi rừng, săn thú nhất. Nhưng nếu huynh ấy không tình nguyện hỗ trợ thì mình cũng không thể lên tiếng nhờ vả. Xem ra huynh ấy đã có suy tính, nhưng muốn về nhà xin phép nên chưa lên tiếng. Đúng là nên làm vậy, không vội vàng xốc nổi, không hứa hẹn khi chưa chắc mình làm được.

– Cháu xin phép bà nội và cha rồi.

La Hùng vừa thở vừa nói. Trên đường đã chạy hết sức, chỉ sợ không kịp.

– Nhưng mà, …

Cha còn đang phân vân thì Hùng huynh đã chắp tay trịnh trọng nói:

– Cha cháu nói là việc nên làm. Cháu theo cha đi rừng gần mười năm rồi. Chắc sẽ giúp được.

Nói rồi huynh ấy tháo gùi sau lưng mang lên ghe. Trong gùi có cây mác lớn, còn sắc bén hơn cả cây mác của Lý thúc. Có mấy gói lương khô và thịt rừng khô, ống tre đựng nước, mấy gói thuốc trị thương, cầm máu. Sau lưng huynh ấy còn có bộ cung tên.

– Cái này là a báo đưa muội, áo da trâu rừng. Mặc nó sẽ rất ấm. Cung tên này nó mới mua được đó. Trên đường đi ta sẽ dạy muội bắn.

Là đã chuẩn bị sẵn sàng hết rồi, còn chuyên nghiệp hơn nhà Mai nhiều. Ai nấy đều mở mắt nhìn mấy món huynh ấy mang theo, đúng là dân đi rừng chính hiệu.

Mai nhận hai món đồ, hơi mỉm cười nhìn cung tên, vậy mà cả buổi sáng không thấy hắn khoe, hỏng lẽ vừa mua về xong.

Trong làng lại có mấy dáng người đi về phía này. Hùng huynh huýt sáo gọi con Vện. Mọi người nhanh chóng lên ghe rời đi. Chuyện ở đây đã có ông ngoại đứng ra lo liệu.

Con Vện nhảy phóc lên ghe, ngóng cổ sủa mấy tiếng với con Mực đang chạy theo trên bờ rạch. Mai lại gần, vuốt cái đầu nó. Nó vẫn còn nhớ Mai, quẫy đuôi mừng rồi đánh một vòng cái ghe lớn như thám thính chỗ mới. Có con Vện thì chuyện lần theo dấu cậu hai sẽ nhanh hơn. Hùng huynh suy tính thật chu đáo.

Mặt trời bị mây che khuất, bầu trời vẫng sáng nhưng không có tia nắng nào. Gió bỗng như lạnh hơn. Mai sắp xếp lại các loại lá thuốc đem theo. Đêm nay mọi người sẽ nghỉ nhà a Sao, đến sáng thì đến a Vọc bá bá, sau đó sẽ đi về hướng chợ phiên Bàu Sen. Mấy lần đi lại con sông này, Mai chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ thật sự đi vào trong những mảng rừng xanh bạt ngàn kia.

Nhìn từ bên ngoài thì cảnh rừng rất đẹp, nhưng khi vào trong thì nguy hiểm luôn cận kề, sẽ không có những con vật thân thiện hay hiền hòa nào cả. Rừng là lãnh địa của chúng, mình đi vào là đã xâm phạm rồi, bọn chúng làm sao “thân thiện, chào đón” được chứ!

Qua nửa đêm một chút thì mới đến nhà a Sao, Mai giật mình tỉnh giấc. Chiều tối cô đã mặc áo da trâu a Báo đưa, đúng là ấm thiệt. Mấy người lớn thay phiên nhau chèo ghe, cô vào trong mui ngủ. Trong làng chỉ còn vài đống lửa leo lét, than hồng cũng sắp tàn. Khí lạnh tràn ra, hơi ẩm nhiều dễ gây bệnh về xương khớp lắm, Mai tự nhủ.

A Sao dẫn đầu đi vào, cắm cây đuốc giữa sân, mở cửa gỗ. Mọi người lẳng lặng đi vào, để một ít đồ đạc lên cái bàn giữa nhà, rồi cũng chia nhau hai bộ ván ngủ nhanh giữ sức. Mai cầm chén đèn mù u đi vào căn phòng nhỏ, đốt một nắm cỏ xả rồi nhanh chóng chui vào tấm nốp ngủ tiếp. Mai cố gắng ru mình vào giấc ngủ, phải giữ sức. Mấy ngày tới không chắc có được ngủ hay không. Đếm đến con cừu thứ ba trăm thì cô ngủ luôn.Chương 132: Bạn mới của a SaoBuổi sáng, Sinh ca đang loay hoay dưới bếp hâm mấy món ăn. Bình ca và Hùng huynh thì tranh thủ làm đuốc, rồi làm chạc ba để cố định chậu đèn mù u. Trái mù u dễ bắt lửa, cháy lớn nên ra gió khó bị tắt. Nhưng mà cũng vì vậy mà ngọn lửa của nó rất hỗn, không thể cầm quá gần.

Mai rửa mặt rồi tiếp tay Sinh ca lo nấu nướng. Cha và a Sao chắc đã đi đến nhà Vọc bá rồi. Mọi người đợi đến qua giờ Thìn thì hai người về đến. Hôm qua cha hỏi Lý thúc về người này rồi hỏi nên trả tiền như thế nào. Lý thúc nói, trước kia cũng mấy lần đi tìm trầm chung nhóm với người này, không thân thuộc lắm. Nhưng vẫn nghe Trương bá khen tài và coi trọng. Lần này huynh đệ Trương bá đều theo nhóm người đi săn, chưa về. Nếu không, có Trương bá đi cùng sẽ an tâm hơn.

Thấy mấy đứa nhỏ nhìn ra sau lưng mình hơi thất vọng, cha nói:

– Mời được rồi. May là bá ấy ở nhà. Bây giờ đang xử lý mấy con mồi, qua giờ tỵ sẽ đến.

Vậy là mời được “thổ địa” rồi. Mọi người ăn cơm rồi tự chia việc ra làm. Hùng huynh chỉ Mai cách sử dụng cung tên. A, Mai than thở trong bụng, không nghĩ tới có ngày mình phải học cái này. Nhưng mà không thể giỡn được, biết đâu đến lúc nguy hiểm cần dùng. Cung tên này làm cho a Báo, sức hắn khỏe hơn cô nhiều nên Mai phải dùng hết sức mới kéo được dây cung. Tập được mấy lần thì hai tay cô mỏi rã rời. A Sao cũng dùng thử, hắn kéo có vẻ nhẹ nhàng quá đi.

Thấy cô nhăn nhăn nhìn cung tên, hắn ngoắc tay cô kêu lên ghe đi chơi.

Chơi? Ở đây chơi ở đâu? Chỉ có vô rừng thôi. Mà cái viễn cảnh sẽ lang thang trong rừng mấy ngày trời đã đủ làm cô ngán rồi, đâu cần đi sớm làm gì. Nhưng mà thấy ánh mắt a Sao sáng quắc, lại có vẻ bí bí mật mật gì đó, nên cô đành lên ghe để hắn chèo đi.

Đúng là đi vào hướng rừng rồi! Không có nơi nào thay đổi nhanh như ở rừng. Lúc trước cô cũng đã đến đây, nhưng dấu vết không còn gì nữa. Rừng tràm mùa khô và mùa mưa khác nhau xa lắm. Chỉ có người quanh năm sống ở đây như a Sao mới thấy quen thuộc. Hắn nhanh nhẹn chống ghe vào con lạch mà chỉ mình hắn biết, nước sâu hơn khi tiến vào trong. Được hơn trăm thước thì, …

Wow! Chỗ này giống như bao tử của con lạch, rộng phình ra với vũng nước sâu. Xung quanh vũng nước là dây leo che kín, đầu kia vũng nước cũng có dòng nước bị dây leo che tầng tầng lớp lớp, không biết dòng nước đó chảy về đâu? Vào sâu trong rừng hay ăn thông ra con sông ngoài kia.

Mai đang say sưa nhìn ngắm thì a Sao đưa tay xuống nước, gõ lộc cộc mấy tiếng lên mạn ghe, sau đó huýt sáo rất dài, rất trong.

Sắp có bạn đến chơi chung rồi, là người bạn đặc biệt nào mà a Sao vừa bí mật lại vừa có vẻ hưng phấn như thế. Chỉ mấy phút sao đó thì Mai đã há miệng, mắt sáng rỡ, còn hưng phấn hơn a Sao gấp mấy lần.

Cô không tin được bạn mà a Sao mời tới! Là một con cá nược xinh đẹp! Không biết là cô hay chú cá nược đây. Nhưng dù thế nào thì Mai cũng chào đón. Nghe a Sáo huýt gió một tiếng dài, cô cá nược nhảy vọt lên, xoay một vòng rồi rớt xuống, bọt nước văng lên xung quanh, như một vũ điệu tuyệt đẹp. A Sao lại gõ lộc cộc trên mạn ghe, cô cá nược bơi lại gần, đưa cái mũi tới cho a Sao vuốt ve. Mai nhìn một người một cá thật ngưỡng mộ.

– Nè, rờ nó đi. Nó rất thích được rờ chỗ này.

Thật sao? Mai mừng rỡ cười toét miệng nhích lại gần.

Làn da thật mịn, thật mát. Huýt,… huýt.

Cô hơi giật mình nghe tiếng cô cá nược, là đang nói chuyện sao? Không hiểu!

Cô cá nược vẫn vui vẻ lặn hụp dưới nước, như chơi trò chơi rất thú vị. Có lúc nó đưa mỏ lại gần tay cô, lúc lại vụt nhanh ra xa. A Sao quăng mấy con cá tươi xuống, cô cá nược vụt ra chụp lấy. Mai cũng bắt chước, chọn mấy con cá tươi rói quăng xuống. Cô cá nược không hụt một con nào, bắt rất điệu nghệ!

Sau khi ăn hết hơn hai cân cá, chắc là đã no rồi. Thì cô nàng nhảy lên mặt nước như biểu diễn màn chào cuối rồi quay đầu bơi đi mất dạng. Chắc là theo đường nước con lạch đằng kia.

Trên đường quay về, Mai lắng nghe a Sao kể chuyện về cô bạn mới này. Hơn một tháng trước, khi nước vẫn chưa dâng lên cao, hắn vào con lạch này thăm lưới thì gặp con sấu nhỏ đang quần với con cá nược này. Hai con này có môi trường sống khác nhau nhưng không hiểu sao con cá nược lại lạc vào đây, rồi mắc cạn. Cá sấu không bỏ qua con mồi này, nhanh chóng tấn công. Lúc a Sao tới thì con cá nước đã bị thương ở hai vây, mực nước không đủ sâu để nó bơi thoát đi.

A Sao rất căm thù cá sấu, hắn không hề sợ hãi mà chống ghe tới, dùng cây mác đâm tới tấp trên lưng con cá sấu. Cá nược như hiểu ý người, cũng quay lại hợp sức khóa mõm cá sấu. Cá sấu mà bị khóa mõm thì sức sát thương đã giảm hơn nửa rồi. Tính ra cá nược cũng rất hiểu tập tính của cá sấu.

Sau đó a Sao ôm cá nược lên ghe, chở nó tới chỗ bao tử này, vừa rộng lại vừa sâu, đủ chỗ cho nó vùng vẫy, dưỡng thương. Ngày hai buổi a Sao lại đem cá tới, kéo dây leo che kín chỗ này.

– Mười ngày trước, ta thấy vết thương nó lành, chở nó ra sông lớn thả đi. Mấy ngày sau thì thấy nó quay lại đây, còn biết đường chỗ con lạch kia nữa.

Nếu chỗ bao tử này có hai lối thông như vậy sẽ an toàn cho cô cá nược này hơn. Hướng con lạch bên kia rất kín đáo, rất khó bị phát hiện.

Lúc hai đứa về đến nhà thì thấy Vọc bá đã đến. Mai kín đáo quan sát ông. Bá ấy cỡ tuổi Trương bá, gương mặt có mấy vết sẹo ở trước tai kéo dài xuống quai hàm, vết sẹo không sâu nhưng nham nhở. Đặc biệt còn có vết sẹo lớn hơn vùng bên dưới cổ kéo dài ra vai rồi bị khuất trong lớp áo. Bàn tay ông rất lớn, xương khớp hiện rõ, vết chai rất nhiều, đủ chỗ. À, bá ấy mang cung tên, cây mác còn có con dao nhỏ bên hông. Là do tập luyện quá nhiều loại võ khí phòng thân sao?

– Xong chưa, bây giờ đi đi. – Được, mời Lâm huynh.

Bá ấy tên Lâm Vọc, một nửa là người Việt, một nửa là người Chân Lạp. A Sao nói nhỏ trong tai cô. Lâm bá có vẻ hơi ngạc nhiên khi thấy Mai đi theo xuống ghe. Cha cũng nhận ra nên vội nói:

– Con gái út của đệ, biết một chút y thuật.

Mai hơi khuỵu gối như chào khi bá ấy liếc mắt tới. Đoàn người không nhiều lời mà nhanh nhẹn lên ghe chèo đi. Giống như hôm qua, một ghe lớn hai ghe nhỏ nối đuôi xuôi dòng sống hướng về mảng rừng tràm ngút ngàn. Dọc con sông Mai còn nhận ra mấy ký hiệu chỗ nước xoáy mà cậu hai chỉ hôm trước. Cô dằn lại nỗi lo lắng. Cảm xúc bây giờ không giúp ích được gì. Phải giữ bình tĩnh, giữ sức khỏe để đến lúc dùng đến. Đợi lúc gặp được cậu rồi tính tiếp.

Đến tối, mọi người đốt lửa trong căn chòi Thon bá. Cha thuật lại lời của ông ngoại kể. Lâm bá nghe xong nói:

– Thời gian đó ta đi rừng phía ven biển, lúc về có nghe nói vùng này gặp xoáy nước. Nhưng mà là ở sâu bên trong. Nhóm người Tàu đó vì sao lại vô sâu? Đi tìm trầm hay đi săn thú quý?

Ông phỏng đoán rồi lắc đầu nói tiếp.

– Mùa này rất hiếm người đi săn, người lành nghề sẽ không đi sớm vậy. Thường phải cỡ hai tháng nữa mới bắt đầu.

– Dạ phải. Nhóm thợ săn ở Bình San cũng đang lo chuẩn bị. Hơn tháng sau mới đi.

Hùng huynh tiếp lời Lâm bá.

Thật ra, nhà Mai tức tốc vào rừng là vì cậu hai, hơn chút nữa là vì dượng năm. Chớ nhà cô không nghĩ tới là vì nhóm người đồng hương của dượng. Dù sao cũng không quen biết với mình, đâu biết là ai mà khiến nhà mình lặn lội hiểm nguy. Còn liên lụy a Sao, Hùng huynh rồi Lâm bá theo nữa. Cha thấy Lâm bá trầm ngâm thì tỏ thật mục đích lần này.

– Ừ, ta hiểu được.

Tính từ ngày cậu hai đi vào rừng với Thon bá đã gần mười ngày rồi. Lần trước cậu một mình trong rừng một tháng, vẫn bình an. Mai vẫn thầm cầu nguyện lần này cũng vậy.

Sáng sớm đoàn người đã khởi hành. Lâm bá và Sinh ca dẫn đầu chống chiếc ghe nhỏ đi vào, ông hơi ngạc nhiên nhìn qua lại chiếc ghe. Không nghĩ tới lại nhẹ và nhanh như vậy. Hùng huynh và Bình ca trên chiếc ghe nhỏ thứ hai. Còn lại cha, a Sao và cô chèo ghe lớn sau cùng. Mọi người mang dụng cụ trên vai, bên hông.

Trời đã sáng nhưng trong rừng sương vẫn dày đặc, vài tia nắng len lõi qua lớp lá cây, dây leo rọi xuống. Sinh vật rừng đã tỉnh giấc, tiếng khỉ, vượn hú gọi nhau. Tiếng chim muông vang lên rộn ràng.

Con Vện nghe tiếng cũng sủa lên inh ỏi góp phần.

Lâm bá dùng cây mác dạt dây leo phía trên, chặt gốc cây phía dưới. Sinh ca chống xuồng len vào những khoảng trống. Chỗ này là vùng ven nên vẫn còn rõ dấu vết ghe xuồng đi lại. Ghe lớn chen được hơn canh giờ thì hết cách, không vô được nữa. Lâm bá làm dấu, những người còn lại chuyển đồ cần thiết qua hai ghe nhỏ. Mai vẫn ôm túi vải có mấy loại thuốc cô đã chuẩn bị. Cung tên thì Bình ca đeo giúp cô.

Càng vào sâu bên trong, mùi ẩm thấp càng tăng, cây cổ thụ càng dày. Rừng cây đước mọc ken nhau dày đặc. Đến khi mặt trời đứng bóng thì đoàn người dừng lại ăn trưa trên ghe. Sau đó, đó đi hơn một canh giờ nữa thì đến lúc phải bỏ cả hai ghe nhỏ, nước vẫn ngập rất sâu.

Con Vện chắc chưa đi vào rừng ngập nước như vầy nên nó có vẻ thích chạy xăm xăm ngửi ngửi. Chạy được khoảng xa thì nghe nó sủa rất dữ. Hùng huynh như hiểu ý đi nhanh lên phía trước, sau những thân cây cổ thụ là một dòng sông nhỏ cắt ngang. Lâm bá như cân nhắc rồi nói:

– Chúng ta dọn đường, kéo hai ghe qua đoạn này.

Mọi người nghe theo, hợp sức chặt cây, tỉa cành kéo từng chiếc ghe nhỏ qua. Dưới mặt nước lờ đờ là những lớp lá, rễ cây, bùn nhão rồi mới tới lớp đất hơi cứng. Mỗi bước chân đạp lên là bọt khí nổi lên, đã ngập sâu tới đùi a Sao rồi.

Cha cõng cô trên lưng, băng qua đoạn đường này. Cha đặt cô đứng trên gò đất cao khô ráo rồi quay lại tiếp tục dọn đường.

Mai nhìn con sông băng xuyên rừng, mặt sông rộng cỡ hai mươi thước, nước đυ.c lờ đờ trôi. Tiếp theo thì nên làm sao? Băng qua sông tiến về phía trước, xuôi dòng hay ngược dòng con sông?Chương 133: Con VệnMai không ngờ chiếc ghe nhỏ này quả thật phát huy tác dụng, ba người là có thể kéo nó nương theo lớp nước băng qua được rồi. Những vùng đất của Bùi gia chắc cũng gần giống như ở đây. Hai mươi chiếc chỉ sợ chưa đủ dùng. Có thể Bùi gia còn dè chừng nhà cô nên không vội đặt làm thêm. Qua năm sau chắc là kiếm thêm được tiền rồi.

Nửa canh giờ sau thì hai chiếc ghe được khiêng qua dòng sông. Lâm Vọc tinh tế quan sát chiếc ghe. Là Lê gia đóng loại ghe này sao? Thật khéo!

Rất nhanh, ông gác chuyện này sang một bên. Phải đi chuyến này xong mới tính tới cũng không muộn. Con sông này chảy từ Hậu Giang. Lâm bá nhìn luồng nước chảy và vị trí mặt trời phán đoán.

Lúc mọi người còn đang chờ Lâm bá chỉ dẫn xem nên đi hướng nào thì con Vện lại sủa vang. Nó đang ở một gò đất khác cách chỗ Mai hơn mười thước. Gò đất hơi cao cạnh sông có một ít tro bếp còn sót lại. Lâm bá đi đến quan sát.

– Có người từng nhóm bếp ở đây,

Tro đã bị mấy cơn mưa gần đây làm tan tác gần như bùn, sót lại mấy cục than củi. Mai đi đến gần mấy cục tro tàn, cô nhớ lời cậu hai nói về đánh dấu, ký hiệu trên sông. Nếu cậu đã từng ở đây, vậy có thể sẽ có dấu vết hay không?

A Sao cũng đi đến, nhìn xung quanh rồi hô lớn.

– Bá, có ký hiệu nè.

A Sao chăm chú xem một dấu vết trên thân cây có hình mũi tên. Đúng rồi, rõ ràng là ký hiệu, vỏ cây bị khắc vào vẫn còn vết nhựa chảy ra.

Không băng qua sông mà xuôi dòng sông về phía trước. Đúng là có thể tiếp tục dùng ghe rồi, sẽ nhanh và không mất sức như lội rừng.

Lòng sông không sâu lắm, nhiều năm qua cứ bồi tụ. Chẳng bao lâu sẽ thành đất rừng luôn. Nhìn những rễ cây chen nhau vươn ra cũng đoán được tương lai.

Được một đoạn có mấy chỗ trống hình thành dòng nước nhỏ chảy vào sông này. Lâm bá quan sát bốn phía, ra dấu mọi người buông chèo, chỉ nhẹ chống để chiếc ghe êm êm trôi đi. A Sao khều tay cô, đánh mắt về dòng chảy nhỏ bên phải. Mai quan sát nhưng không thấy có gì lạ.

Hơn một khắc sau thì Lâm bá ra hiệu tiếp tục chèo. Trên cao, mặt trời lui dần vào đám mây đen. Gió thổi mạnh hơn. Cô ngồi sát gần a Sao nhỏ giọng hỏi:

– Là con gì?

– Không chắc, có thể là thồ lộ. Ta chỉ thấy một mảng da xám, không thấy đầu nó.

Mai không nghĩ đến có ngày mình lại ở gần con sấu như thế. Mà mình lại ở trong thế yếu vì xâm nhập vào không gian của nó nữa. Nếu không có Lâm bá hướng dẫn thì nhóm người “nghiệp dư” như nhà cô không chắc tiến vào được.

Bỗng nhiên có tiếng xào xạc, rồi tiếng kêu thất thanh của đàn chim lớn, chúng vụt bay lên cao, quang quác kêu từ khoảng rừng sau lưng. Sau đó là tiếng cạp, cạp của đàn vịt nước rất đông ào ào xuôi dòng sông, lướt qua hai chiếc ghe. Trên mấy cành cây có mấy con khỉ hay vượn gì đó vừa chuyền nhành vừa kêu khẹt khẹt phụ họa.

Mưa bắt đầu rớt hạt. Mọi người đội nón lá, khoác tấm nốp lên người. Ghe đầu tiên là Sinh ca chèo, gương mặt ca ấy càng lúc càng nhíu chặt. Cả nhóm người bọn họ còn bị hù dọa, chỉ có cậu hai và Thon bá thì làm sao chống đỡ?

– Tới vùng nước xoáy, cẩn thận.

Tiếng Lâm bá la lên làm ai nấy đều khẩn trương. Đúng là cô cảm giác như chiếc ghe được nâng lên. Sau đó tất nhiên bị “hạ xuống” trong vòng xoáy rồi. Mai lập tức nhìn ngó tìm kiếm, thấy rồi, là ký hiệu đó.

“Đã có người qua đây”, mong là cậu hai. Mong là họ đi đúng hướng. Cậu hai đang ở rất gần phía trước!

Lâm bá thấy hướng tay cô chỉ, gật đầu báo hiệu đã biết. Bá ấy không cần thấy dấu hiệu cũng biết là sắp có xoáy, là do kinh nghiệm bao nhiêu năm tích trữ. Chưa tới hai mươi thước phía trước là ngã ba rộng. Hướng từ bên trái tới là một dòng chảy cuồn cuộn, tạo thành vực xoáy nước. Cuộc đất bên kia cao hơn, có một khoảng rừng cây hơi thưa nhưng rất nhiều cây cổ thụ thân vỏ xù xì rêu xanh.

– Tối nay chúng ta nghỉ bên đó.

Lâm bá chỉ về hướng cuộc đất cao. Bá ấy thay Sinh ca đưa mũi ghe qua phía phải, rồi chống mái chèo để Sinh ca xoay góc quay lại, khéo léo vượt qua vùng nước xoáy, chèo bạt ra xa mới từ từ cập vào bờ cuộc đất. Ghe sau cha và Bình ca cũng theo cách đó. Hùng huynh chỉ hỗ trợ sức. Huynh ấy không có kinh nghiệm chèo ghe như Bình ca.

Đến lúc hai chiếc ghe được kéo lên bờ sông, buộc chặt vào gốc cây lớn thì trời đã hết mưa. Nhưng ánh sáng tắt rất nhanh. Có cảm giác như ai đó “tắt đèn” vậy.

Lâm bá đảo mắt xung quanh quan sát địa thế. Rồi ông dẫn đầu vào, hình như họ đang lên đồi, càng lên cao cây cổ thụ càng lớn, nhưng ở tầng thấp là mấy loại cây bụi. Cây tràm hay đước gần như biến mất ở chỗ này. Chưa được một khắc, Lâm bá dừng lại chỗ có một bếp tàn tro giống lúc trưa, đúng là đã từng có ai đó đi qua. Và đoàn người mình đang theo phía sau.

– Bá có đoán được nhóm này có mấy người không?

– Mấy hôm nay mưa liên tục, các dấu vết đều không rõ.

Đúng rồi, chỉ nhờ mấy cục than củi cháy dở mới có thể biết trước đây có người ở đây. Mai cảm giác như có gì đó rất lạ. Mình bỏ qua cái gì sao?

Lợi dụng ánh sáng còn mờ mờ, mọi người đều tìm kiếm dấu vết dẫn đường, nhưng không thấy gì cả, sao lạ vậy?

A, cô nhớ ra mình bỏ qua chuyện gì rồi, con Vện. Cô nhìn quanh, thấy nó đang cụp tai đứng sát vào chân Hùng huynh. Có chuyện lớn rồi? Nó đang sợ cái gì? Cụ thể hơn là con gì mới đúng. Khứu giác và thính giác của chó hơn con người rất nhiều lần. Nó đã phát hiện ra bất thường rồi.

– Con Vện sao vậy? Nghe cô hỏi, mọi người đều nhìn nó. Lâm bá rất nhanh biết có chuyện quan trọng. Hùng huynh nói:

– Từ lúc lên đây nó đã như vậy. Chúng ta phải cẩn thận.

Huynh ấy không nói rõ nhưng ánh mắt nhìn Lâm bá rất sâu. Bá ấy chậm rãi gật đầu.

– Ba dứa lo kiếm củi, nhóm lửa đi.

Bá ấy chỉ Mai, a Sao và Bình ca. Sau đó chỉ cha và Sinh ca trông chừng hai phía, Hùng huynh tự giác đi về phía thứ ba.

Ba đứa nhỏ hiểu là có chuyện, nên nhanh chóng gom củi. Cây mưa lúc nãy làm củi đều ướt, cũng may Mai đã đoán nên cô có mang theo mấy cục than củi. Cái này là nương qua nhà Lưu bá xin, Lưu bá mẫu trữ sẵn lúc ở cữ.

Nhờ có than củi và vỏ trái mù u, bếp rất nhanh đã sáng, mấy đứa nhỏ gác mấy khúc củi ướt phía trên để hong khô. Mấy tấm nốp được cởi ra, đặt lên khung gỗ gần bếp cho khô. Tiếng củi cháy lách tách, khói bếp lượn lờ làm không gian bớt vẻ cô tịch. Ngọn lửa sáng cũng đem lại chút tinh thần cho mọi người.

Đợi khi có thêm thanh củi khô, Bình ca và a Sao nhanh chóng làm bếp dã chiến cho Mai nấu nước pha trà gừng mật ong giải cảm. A Sao mang cho nhóm người lớn uống trước. Mai lại nấu cơm và vùi khoai lang vào nướng, bên kia a Sao nhanh chóng nướng thịt khô, cá khô mang theo. Không biết là sẽ đi bao lâu, khẩu phần ăn của mỗi người không thể quá ít.

Trời đã tối hẳn, xung quanh tiếng côn trùng vang vang. Phía bờ sông ngoài kia thỉnh thoảng vọng tới tiếng con gì ồm ồm, oạch oạch.

Lâm bá nhìn chạc ba có bình đựng trái mù u thay cây đuốc gật đầu hỏi là cái gì. Tiếc là không thể dùng nhiều, ánh sáng lửa mù u rất lớn, cháy hừng hực.

– Nhiêu đây thì đốt được bao lâu?

– Dạ, nửa bình này đốt gần một canh giờ. Bỏ từ từ vô, mỗi lần một ít như vầy.

Ông ấy tính toán rồi bắt đầu chia hai canh gác. Canh đầu là ông ấy, Sinh ca và Bình ca; canh sau là cha, Hùng huynh và a Sao. Mai cảm thấy như vậy rất hợp lý. Trong nhóm thì bá ấy, Hùng huynh và a Sao là có kinh nghiệm đi rừng. Còn lại thì dù đã lớn nhưng chưa đi rừng cũng không thể lường được nguy hiểm.

Mọi người nhanh chóng dùng tấm nốp hơi ráo nước nằm xuống ngủ lấy sức. Mai đã mệt mỏi lắm rồi. Cô nằm bên cạnh cha, bên này là đống lửa. Cô cố chợp mắt, tĩnh tâm để ngủ, nhưng không dễ dàng chút nào. Cả đêm cô mơ màng, cũng bị giựt mình thảng thốt lúc thay canh, nhưng cha đắp thêm tấm nốp lên người cô vỗ nhẹ.

– Ngủ tiếp đi.

Mai mở mắt nhìn hai nhóm thay nhau xong thì nhắm mắt nghe động tĩnh một hồi, rồi dần chìm vào giấc ngủ.

Trời sáng mờ mờ, sương dày đặc. Mai lại nấu tiếp một nồi nước giải cảm nữa. Lúc mọi người chuẩn bị dập lửa thì thì Lâm bá nói vọng xuống:

– Đừng dập, kiếm củi ướt chút đốt cho thật nhiều khói đi.

Bá ấy đang đứng trên chạc cây cổ thụ rất cao, nói vọng xuống. Là có tin rồi, nhìn thấy gì sao? Mọi người đều nhanh tay thêm củi ướt vào, khói bay lên nhiều hơn. Qua khỏi những ngọn cây cao thì tỏa ra rồi tan dần. Mai vẫn ngước nhìn lên đó, chờ đợi.

– Chuẩn bị dông ghe đi, về hướng đó, họ biết có chúng ta ở hướng này.

Cuối cùng thì Lâm bá cũng lên tiếng rồi nhanh nhẹn leo xuống. Mong là cậu hai đang ở đó. Dòng sông có vẻ cạn hơn, họ đang ngược con nước, thỉnh thoảng lại vướng phải mấy đám bèo lớn dềnh dàng trước mũi ghe.

– Coi chừng,

Tiếng Lâm bá sắc nhọn khi Hùng huynh cầm cây mác chém vào đám bèo đang trôi qua.

“Phập”

Ôi trời! Đám bèo có răng sao? Tiếng táp phập nghe rợn người, nước sông hơi loang màu máu. A Sao phản ứng rất nhanh, hắn dùng cây mác chém tiếp. Hùng huynh rất nhanh nhận ra con sấu đang ẩn mình trong đám bèo, bị huynh ấy vô tình chém một dao đang giận dữ đáp trả. Ngay lập tức huynh ấy vung tay chém tiếp, màu nước đỏ hơn, có tiềng cái gì đó đánh vào be ghe, Mai hơi sợ nắm chặt mấy thanh gỗ làm bậc trong lòng ghe. Chiếc ghe này nhỏ quá, chở bao nhiêu đây người là quá tải rồi, không thể chịu thêm va chạm mạnh được.

– Chèo nhanh lên, lướt đi.

Ghe bên kia Lâm bá hét lớn, cha gắng hết sức chống mái chèo đẩy về phía trước. Thoát khỏi đám bèo thì chiếc ghe vượt lên, bỏ lại một vùng máu đỏ phía sau. Hùng huynh và a Sao vẫn lăm lăm cây mác, ngó chăm chăm xuống dòng sông.

Ào ào, …

Từ hai bên bờ vũng lầy, hai con sấu ào ra, may là nó ào về phía vùng máu đỏ. Là muốn “hưởng soái” bữa ăn được làm sẵn. Cũng may là nước ngược dòng, nếu cả hai con dồn sức vào chiếc ghe nhỏ này thì sẽ nguy hiểm biết mấy. Hùng huynh di chuyển về phía lái, hợp sức với cha đuổi theo chiếc ghe đầu. Một chuyện này đã cảnh cáo cả đoàn, phía trước sẽ không thiếu nguy hiểm.Chương 134: Gặp được cậu rồi!Đoạn sông tiếp theo cũng rất cạn, nhưng mặt nước rộng hơn, hai bên bờ là những vũng lầy, là chỗ yêu thích nhất của loài sấu. Đâu đó trong mấy đám bèo trôi, cây bụi là những thân hình xấu xí ẩn dưới nước, chỉ có đôi mắt càng xấu xí hơn lặng lẽ dõi theo đoàn người.

“A, không cần tự nhát mình.” Mai tự trấn an trong dạ.

Họ ngược dòng sông hơn hai canh giờ rồi. Mai quan sát con Vện, nó vẫn im re, nằm sát lòng ghe. Họ vẫn chưa ra khỏi phạm vi nguy hiểm.

– Ghé vào chỗ đất kia.

Chỗ Lâm bá chỉ là một mô đất nhỏ, có mấy cây cổ thụ rất cao. Giống như sáng nay, nhóm bếp nấu ăn xong thì hun khói thành một đυ.n lớn. Buổi trưa đứng gió, cột khói lan chậm nhưng lâu tan. Lâm bá lại leo lên đứng trên nhánh cây cổ thụ cao vυ't.

“Bụp, bụp”

Một đàn khỉ từ đâu chuyền cây ra phá. Chúng hái trái bần, trái đước quăng lại đây. Chỉ là không ai có tinh thần để đùa với chúng. Trong khu vực của cọp beo, chỉ có đàn khỉ là vẫn thảnh thơi, chẳng sợ.

– Cha ra coi đáy ghe.

Ăn cơm xong, cha đứng dậy nói. Để lại Hùng huynh, Sinh ca và a Sao trông chừng bốn phía. Cha và Bình ca hợp sức kê nghiêng xem đáy ghe. Đúng là bị nứt một đường, không dùng tay không ghép lại được.

– Chút nữa con qua ghe Lâm bá ngồi.

– Dạ.

Cha dặn Mai khi quay trở vào, vết nứt đó vẫn còn cầm cự thêm một thời gian. Nhưng nếu lại bị tiếp, ván đáy sẽ không chịu nổi.

– Thấy rồi,

Lâm bá trèo xuống gần đến nơi thì nói. Ông nhảy xuống đất, hơi nhăn mày suy đoán.

– Họ đi chậm hơn chúng ta nhiều. Ở đó có việc gì rồi.

Giữa mảng rừng mênh mông này, đốt khói tìm người trợ giúp đã thành cách của những người đi rừng. Hai bên nhận thấy cột khói, sẽ dựa theo hướng đó mà đi. Họp hai nhóm lại, đông người hơn thì an toàn hơn. Nhưng sao họ lại đi chậm vậy? Là đi bộ xuyên rừng, không có ghe hay có chuyện gì cản trở?

Đoàn người cứ nhăn mày suy đoán, nhưng cũng không hề chậm chân mà đều lên ghe đi tiếp.

– Đến một khúc nữa, con sông này sẽ đi về hướng bắc, chúng ta phải băng rừng để đến chỗ họ.

Vậy là phải bỏ ghe lại đây. Trời hôm nay không mưa, lại đứng gió nên bầu trời bớt vẻ âm u. Lòng Mai cứ lo lắng nhìn con Vện. Dưới sông cá sấu, trên bờ cọp beo là cảnh này rồi.

Mọi người lần lượt kéo hai chiếc ghe lên dựa bờ, dùng dây thừng cột chặt vào gốc cây cổ thụ. Khúc rừng nầy nước ngập lúp xúp. Mai muốn tự đi bộ thì cha lắc đầu nói:

– Để cha cõng, cha còn sức. Ở đây có đĩa vắt nhiều đó. Đi nhanh biết đâu gặp cậu hai con trước khi trời tối.

Nghe lời cha nói, Sinh ca bước tới đỡ thêm túi đồ trên vai cha. Ca ấy chắc rất nóng ruột nóng gan.

Đúng là chỗ đất này cứng hơn, bên dưới lớp lá mục là tầng đất cứng. Nhưng con vắt con đĩa cũng rất nhiều. Ai nấy đều bước nhanh để chúng không có cơ hội bu cắn vào chân hút máu.

Khoảng rừng lúc thưa lúc dày, nối tiếp nhau như dài vô tận. Lúc này con Vện không chạy phăng phăng phía trước mà líu ríu theo sát chân Hùng huynh. Lâm bá dẫn đầu, Hùng huynh và Sinh ca đi phía sau. Mọi người đều tập trung quan sát, cố gắng dùng tai mắt lắng nghe động tĩnh xung quanh.

Đi được gần hai canh giờ, Lâm bá ra hiệu nghỉ ngơi, mặt trời đã ngả bóng thật dài. Lâm bá chọn cây cao leo lên tìm kiếm. A Sao đúng là giỏi, hắn nhỏ như vậy mà rất dẻo dai, bước chân vẫn nhanh nhẹn. Dọc đường hắn còn tranh thủ hái mấy loại trái dại, đọt non. Hùng huynh cũng theo thói quen, thấy mấy loại cây lá quen thuộc thì tiện tay bứt bỏ vào gùi phía sau.

– Đi chừng một canh giờ nữa sẽ đến cồn nhỏ, chúng ta ở đó tối nay.

Vậy là không gặp được nhóm người kia, họ đã nhanh hết mức rồi. Trời sắp tối, an toàn của mình quan trọng hơn, không thể liều mạng đi đêm được. Trong rừng sụp tối rất nhanh, mũi mồng bắt đầu được dại ra, vo ve khắp nơi.

Chạng vạng thì đến cồn nhỏ mà Lâm bá nói. Cồn này nẳm giữa một vùng nước nông giữa rừng. Chắc có mạch ngầm chảy ra vào nên nước không tù đọng. Lâm bá quan sát rất kỹ bờ xung quanh trước khi lội nước ra cồn. Mực nước không sâu, đến ngang hông bá ấy. Sinh ca đi sát phía sau. Cả hai qua đến cồn thì đi vòng một khoảng dò xét kỹ lưỡng.

“bập, bựt”

– Cái gì?

– Rắn, xong rồi.

Đợi lâm bá đi về hướng này ra hiệu thì nhóm còn lại mới bắt đầu lội qua. Hùng huynh vẫn đi sau cùng. Lúc nầy con Vện có vẻ vui mừng một chút, nó lõm bõm lội trước, cái mỏ nghếch lên về hướng cồn đất.

Cồn này không lớn, chỉ có mấy cây thấp, cây bụi rồi mấy đám dừa nước, cây đước ven bờ. Sinh ca thảy xác một con rắn bự bị chặt đôi về phía đống lửa. Nước mặn chát, đυ.c ngầu không thể uống. Mai và Bình ca múc hai nồi để lóng cặn và phèn. Nhóm còn lại thì bắt đầu dọn cỏ, kiếm củi và quan sát xung quanh.

Sinh ca chặt mấy quài dừa nước non mang về, chặt trái ra lấy ít nước trong để uống cho đỡ khác. Tối nay không nấu thức ăn nóng được, chỉ nướng thịt khô mang theo ăn đỡ.

– Đốt lửa to, khói nhiều lên.

Lâm bá vẫn đứng ở vị trí quan sát nãy giờ lên tiếng. Đợi khi luồng lửa cháy lớn, khói cuộn thành vòng thì “vù vù” tiếng như huýt gió vang tới. A Sao khều tay Mai hất đầu nói:

– Nhìn kìa!

Ôi trời ơi! Cách chỗ họ đứng cỡ mấy mươi thước một đàn rắn khè khè, le lưỡi bò ra. Rồi sau đó thì, bọn chúng băng băng lướt trên mặt nước nhẹ như không. Cồn cách bờ rừng hơn hai mươi thước chỉ vừa đủ cho bọn chúng trình diễn một màn nhảy múa khởi đầu thôi.

Cha và Sinh ca tranh thủ đốn nhiều bập dừa, xếp dài trên đất làm đệm ngủ cho họ đêm nay.

Màn đêm sụp xuống rất nhanh. Khi người ta mệt mỏi và căng thẳng thì chuyện ăn ít uống ít cũng không sao. Buổi tối hôm nay mọi người chỉ ăn để giữ sức. Sáng mai hai nồi nước lắng cặn rồi hy vọng sẽ có thức ăn nóng.

– Bá, nhìn kìa.

Tiếng a Sao nhỏ, thản nhiên chỉ về hướng bên kia bờ rừng. Trong ánh sáng bập bùng của ánh lửa, hai ánh sáng đỏ rực lập lòa lúc ẩn lúc hiện. Mai nhận thấy a Sao rất nhạy với cá sấu, mà hắn không hề sợ bọn chúng. Có thể lần đó cùng Lý thúc theo dấu vết cá sấu, cộng với mối thù vẫn còn làm cho a Sao không biết sợ cá sấu nữa.

Cũng may là cá sấu thích sống đơn độc, mỗi con chiếm giữ một vùng lãnh thổ. Ngoại trừ khi chúng đánh hơi được mùi thức ăn thì chúng sẽ tiến đến và tranh giành con mồi.

Con sấu chủ nhân của cồn đất nhỏ này đã xuất hiện, cũng không kiên nhẫn lắm!

Đống lửa tạo ra nhiệt, có thể đuổi loài rắn đi, nhưng lại thu hút loài khác đến. Đám thiêu thân hay sinh vật biết bay nào đó cứ lao vào đám lửa.

Trăng hạ tuần vẫn chưa lên, trên trời vài vì sao lấp lánh. Tiếng Hùng huynh làm mọi người tập trung nhìn về hướng bên kia.

– Lâm bá, có ánh đuốc.

Bên hướng đàn rắn “bay” qua lúc nãy, có ánh sáng khi ẩn khi hiện, hình như đang đi về phía này. Mọi người vẫn đứng yên quan sát, chờ đợi. Không biết người đến là ai. Hơn nữa vẫn còn “chủ nhân” chỗ này đang lẩn núp đâu đó, cẩn thận quan sát là cách tốt nhất.

Hơn một khắc sau thì đã thấy rõ ánh đuốc. Thấp thoáng nhóm người, một, hai, … có bốn cây đuốc, khoảng trống ở giữa là mấy người?

Lâm bá ra hiệu Hùng huynh ở lại, ông và cha cầm hai cây đuốc đi dần về phía đó. Đuốc mù u ánh lửa đỏ rực chiếu bóng dáng cha chậm rãi đi. Mai hơi căng thẳng nhìn theo bước chân cha cô. Tuy rằng lúc chiều họ đã đi một vòng quan sát, nhưng đêm tối vẫn rất nguy hiểm.

Nhóm người bên kia đi đến gần bờ thì ba cây đuốc dừng lại, cảnh giác trông chừng hướng rừng rậm, hai bóng người đi đến sát mép nước.

Một người bên đó nói tiếng Chân Lạp, Lâm bá trả lời một tiếng ngắn. Rồi hỏi lại một câu hơi dài. Lâm bá lắng nghe xong thì lên tiếng hỏi bằng tiếng Việt:

– Là Nguyễn huynh ở Trấn Giang?

– Phải, xin hỏi huynh biết ta?

A, là cậu hai. Thật sự tìm được cậu rồi. Mọi người đều hơi nhẹ nhõm. Cha chắc cũng vui mừng. Mai nghe cha lên tiếng:

– Nhị cửu ca, ta và a Bình, còn có a Sinh nữa. Ở bên này.

– Sao lại vô đây?

– Nguyễn huynh, để nói sau. Lúc nãy phát hiện thồ lộ, nhóm huynh tính sao?

Đúng là đêm hôm thế này mà lội qua, trong khi có một con sấu núp đâu đó thật nguy hiểm. Mai nghe loáng thoáng tiếng nói chuyện, rồi cậu hai nói vọng qua.

– Chúng ta ở bên này, sáng mai rồi tính.

– Được, chúng tôi ở chỗ đó.

Dù sao cũng đã gặp rồi, nghe tiếng cậu vẫn dồi dào, không đến nỗi là bị thương hay gì đó. Thon bá cũng vậy, chắc bá ấy nghĩ là nhóm người Chân Lạp đi săn hay gì đó vào đây. Nhóm cậu hai rất nhanh đã nhóm được đống lửa, tắt bớt một cây đuốc rồi cũng chia canh gác đêm.

Giống như hôm qua, mọi người thay phiên nhau canh giữ đống lửa và so kè kiên nhẫn với con sấu. Ai là thợ săn, ai là con mồi lệ thuộc vào điều này. Gánh nặng lo âu trong lòng Mai nhẹ đi, cô ngủ nhiều hơn mấy đêm trước, có lẽ một phần do mỏi mệt.Chương 135: Trần gia“Đùng, đùng,”

Hai tiếng nổ liên tiếp xé tan không gian buổi sớm. Mai giựt mình tỉnh dậy. Cô đang mơ sao, là tiếng súng. Trong phút chốc cô mơ màng không rõ cái nào là tỉnh, cái nào là mơ. Ở thời này đã có súng rồi sao? Hay chuyện cô đến vũng Đông Hồ chỉ là giấc mộng?

– Cha, có chuyện gì vậy?

Tiếng Sinh ca hỏi lớn sang bên kia làm Mai bừng tỉnh. Cô nhanh chóng ngồi dậy, theo sau mọi người chạy về hướng tiếng nổ. Đúng là tiếng súng, hai người đàn ông đang chỉa súng bắn con cá sấu, máu đỏ đã loang trên mặt nước. Con cá sấu trúng thương nhưng vẫn còn sức đang quẫy rất giữ làm bùn đất văng tứ phía.

Xem ra con sấu thấy trời gần sáng, con người mỏi mệt nên muốn tấn công. May mắn nhóm người đàn ông này vẫn tỉnh táo bắn hạ nó. Mai nhìn cây súng trong tay hai người đàn ông. Là loại súng thân dài, đường kính lớn, không phải dùng đầu đạn mà là thuốc pháo, sức sát thương không lớn như đầu đạn kim loại. Chắc đây là kiểu của thời đầu khi con người mớt biết chế tạo súng.

Xem ra nhóm người này không phải dân thường rồi. Thời này chỉ có quân đội triều đình mới có thể có loại sung này, mà phải là quân tinh nhuệ mới có.

Mai nhìn nhanh người đàn ông lớn tuổi nhứt trong nhóm. Râu ông dài che bớt cằm vuông cương nghị. Đôi mắt ông ta trầm tĩnh nhìn con sấu đang vùng vẫy trong phút cuối. Ông bị thương trên vai và cả cánh tay nữa. Gương mặt ông có chút mệt mỏi. Đây là lý do họ chậm bước sao? Nhưng nhìn dáng người vẫn còn tráng kiện của ông thì vết thương này sẽ không thể cản bước ông được.

Rất nhanh sau đó Mai biết lý do họ chậm bước, và đó cũng là lý do làm cô căng thẳng mấy ngày kế tiếp.

Mọi người trên cồn đều nhìn chăm chăm vào hai cây súng pháo, hiếu kỳ tò mò đủ cả. Có thể gϊếŧ con sấu ở khoảng cách như vậy? Xem ra họ không sợ đám thồ lộ này trên đường về rồi. Mai nhìn ánh mắt khao khát của mấy đứa con trai thì bĩu môi, tưởng bở! Mỗi lần bắn có một viên pháo, lỡ không trúng điểm yếu thì con sấu vẫn dư sức hạ mình, biết đâu nó còn giận dữ và dữ tợn hơn!

“Ẳng, ẳng”,

Tiếng con Vện rêи ɾỉ như bị ai đánh làm mọi người giựt mình. Hùng huynh lớn tiếng gọi cậu:

– Cậu, nhanh qua đây, có nguy hiểm.

Lâm bá cũng nói câu gì đó với Thon bá. Ông ấy rất nhanh khoác gùi trên vai lội xuống qua bên này. Cậu hai và ba người còn lại như tỉnh ra, hai người cầm súng trước sau hộ tống người bị thương đi nhanh về cồn đất.

Nhóm người trước sau vừa đặt chân lên cồn thì nghe tiếng “g.. rầm,.. g rừ…” vang vọng khắp khu rừng. Trời ơi, đã xuất hiện rồi! Mai kéo con Vện sát người, cả thân hình nó run rẩy không kiềm được. Cô và nó đứng phía trong nhìn mấy người lớn cảnh giác quan sát xung quanh. Lâm bá và Thon bá nói với nhau mấy câu. Bên này cậu cũng giải thích.

– Mấy ngày nay chúng ta bị vây trong rừng, không biết hướng để tránh.

Đâu có ai muốn đấu với vị chúa tể này, mà tránh thì không biết tránh đường nào. Giữa nơi này, bản năng sinh tồn là quan trọng nhất. Con người sống thành làng, thành trấn sẽ dần mất đi các giác quan tinh nhạy của mình. Chỉ có những người đi rừng như Lâm bá, Thon bá mới còn giữ lại chút ít.

Tiếng nổ và mùi máu rất nhanh đã dẫn đường cho vị chúa tể sơn lâm tới đây. Từ trong những thân cổ thụ, con cọp to lớn xuất hiện, bộ lông hơi xám màu, vằn vện giúp nó ẩn đi giữa những thân cây và lá mục. Bước chân nhẹ nhàng, thân hình uyển chuyển, nó từ từ tiến tới. Cả đoàn người đã lui về góc xa của cồn đất.

Lâm bá ra hiệu cho mọi người bất động. Ông hy vọng thịt và máu con sấu đủ để con cọp thỏa mãn và bỏ qua bọn họ. Thật ra bản năng của cọp cũng biết con người nguy hiểm, có khả năng gϊếŧ được chúng, nhất là cả nhóm đông người như vầy. Ngoại trừ nó bị kɧıêυ ҡɧí©ɧ hay giận dữ thì nó mới liều mà tấn công.

Con cọp không vội tiến về phía con sấu, nó nấn ná chỗ nhóm người đốt lửa, nằm ngủ tối qua. Lát sau nó mới từ từ đi về phía này, rồi dừng lại quan sát, từ từ tiến gần tới xác con sấu đang nằm ven bờ. Dù có thể con sấu nặng hơn nhưng nó vẫn dễ dàng cắn và lôi xác con sấu vào rừng. Nó vẫn không hề lơ là, luôn cảnh giác nhìn về bên này.

Chừng một khắc sau, không còn nghe động tĩnh gì nữa. Có đàn khỉ lại khẹt khẹt chuyền cành thì mọi người mới thở ra.

– Ta họ Trần, đây là hai thuộc hạ của ta. Đa tạ các vị đã đến hiệp trợ.

Người đàn ông lớn tuổi xưng họ Trần, chắp tay về phía Lâm bá nói.

– Không dám, ta nhận sự nhờ cậy của gia đình Nguyễn huynh đây.

Cậu hai nói:

– Đây là người nhà ta, muội phu Lê tứ. Đa tạ Lâm huynh đã cực nhọc.

Cậu hai nhăn mày khi thấy Mai trong nhóm người. Lúc mọi người chia nhau chuẩn bị thức ăn bữa sáng cậu mới hỏi cha tỉ mỉ chuyện mấy ngày nay. Sau đó cậu kể mấy chuyện chính từ khi cùng Thon bá vào rừng.

– Hôm đó a Thon có thấy nhóm người dượng năm vào rừng.

Nước đang lên, trong rừng rất nguy hiểm. Tối hôm sau Thon bá thoáng nghe tiếng gầm rú phía này. Nhưng mấy ngày sau vẫn không thấy ai trở ra, chắc là dữ nhiều lành ít. Đến khi cậu hai đến hỏi thăm, Thon bá kể lại chuyện ông ấy suy đoán.

Hai người định chỉ vào mé rừng để xem có thêm dấu hiệu gì không. Ghe cậu hai lớn, không chen được vào bên trong như nhà Mai. Thon bá biết một đường khác để vào, nhưng không may lúc đó nước lại đang rút mạnh. Hai người cố gắng chèo ngược dọc đến chỗ gò đất thì nghỉ chân lại một đêm. Sáng hôm sau, hai người còn chưa biết nên tiến hay lùi thì lại có tiếng gầm và tiếng nổ lạ (là tiếng súng bắn) rất gần. Môt khắc sau thì dòng nước loang máu đỏ chảy về xuôi dòng. Cậu và Thon bá chèo nhanh lên để xem sự việc.

Nghe đến đây thì Trần gia lên tiếng như tiếp lời.

– Ở chỗ vòng xoáy nước phía dưới, xuồng của nhóm a Thế bị lật, dạt về phía biển. Chúng ta đành phải nhập lại một xuồng. Nhưng người nhiều, xuồng khẳm không thể đi tiếp, chúng ta đành ghé lên bờ. Vừa lên thì con sấu chờ sẵn táp tới, lôi một người về phía sông. Hắn nóng ruột nổ súng. Không nghĩ tới là người không cứu được, còn kinh động đến nó.

Trần gia hất đầu chỉ hướng con cọp mất hút khi nãy.

– Hôm đó chúng ta buộc phải hợp sức đấu với nó. May là con đó nhỏ, cỡ hai khắc sau thì nó rút lui. Nhóm chúng ta tổn thất không ít. Chiếc xuồng còn lại cũng bị thồ lộ đánh gãy.

Khoan, ý Trần gia là có hai con lận hả?

Thấy mọi người há miệng nhìn ông mà không thốt nên lời, ông đành gật đầu, – Phải, ta nghĩ là hai.

Trời ơi, không phải nói là một rừng không thể có hai cọp sao. Sao mình lại gặp toàn chuyện hiếm có không vậy!

– Dượng năm con bị thương nặng, nên ta đưa ghe cho dượng con về trước. Không hiểu sao không về tới nhà.

Chuyện này không ai trả lời được. Trước mắt là họ phải vượt qua đã, an toàn rời khỏi đây rồi tính tiếp. Bây giờ họ có mười hai người, không thể lên được hai chiếc ghe nhỏ. Đường quay trở lại cũng không dễ dàng gì. Ăn sáng rất nhanh xong thì mọi người sẽ đi xuyên rừng về chỗ neo ghe.

– Chỗ đó vẫn chưa ra khỏi phạm vi của nó. Nhưng cứ đến đó chúng ta sẽ xếp đặt chuyện canh phòng, rồi nghĩ cách rời đi.

Chuyến về vẫn để Lâm bá chỉ huy, thỉnh thoảng bá ấy nói chuyện riêng bằng tiếng Chân Lạp với Thon bá. Đúng như Mai nghĩ, vết thương trên vai vị Trần gia này chỉ làm sắc mặt ông hơi tái, nhưng không cản được bước chân ông.

Lúc nhóm người đi cùng nhau Mai thoáng ngửi thấy mùi dầu hôi, là mấy cây đuốc. Chuyện này càng khẳng định họ không phải là dân thường vô tình lạc trong rừng. Chỉ là nhà mình vì cậu nên mới mạo hiểm, còn việc riêng của họ thì không nên tò mò. Hiện tại họ đi chung nhóm vì lợi ích chung thôi. Ra khỏi khu rừng nầy thì đường ai nấy đi, sẽ không còn liên hệ.

Giống như những người khác, Mai cũng không lường được sự kỳ diệu của chữ “duyên phận”, hữu tình hay vô tình không phải chỉ vì mình không nghĩ tới thì nó sẽ không tới!

Đoàn người đến gò đất chỗ neo ghe lúc trời vẫn còn sáng. Theo lời Lâm bá, họ chia nhau làm việc. Mai vừa canh bếp lửa, vừa nghiền mấy loại thuốc trong chén đất. Cậu không bị thương nặng, nhưng vết cắt nông sâu trên cánh tay thì có. Không riêng gì cậu, ai cũng có. A Sao còn bị đĩa vắt hút máu thành vết lớn, rướm máu. Cô bắt hắn tự rịt vết thương, không được coi thường.

Dù sao thì nhiệm vụ cô là chế và nghiền thuốc thôi. Mọi người tự đắp, ai không đắp được thì nhờ Hùng huynh. Lâm bá và Thon bá cũng biết mấy vị thuốc trị thương này, hai người nhanh tay tự rịt cho mình.

– Cô nương có học y thuật sao?

Mai ngẩn người nhìn vị hộ vệ trước mặt người vừa hỏi cô.

– Cháu chỉ biết một chút, chỉ trị mấy vết thương nhỏ thôi. Cháu không biết bắt mạch, kê thang.

Ba người Trần gia nhìn nhau như phân vân. Vết thương trên vai Trần lão chắc do cọp vồ. Từ đó đến giờ đã mười ngày rồi, không biết có nhiễm trùng không? Mai nghĩ chắc họ có mang theo thuốc quí chuyên dùng, nhìn hành trang họ đi, súng, đuốc, túi da, giày da, còn có mấy thanh kiếm và đao nhỏ giắt lưng nữa. Toàn là những thứ chuyên dụng, thuốc chắc là phải có rồi, trừ khi.

– Để cô nương xem đi, dù sao cũng không thể tệ hơn.

A, xem ra vết thương rất tệ rồi!

Mai đành bước lại chỗ Trần lão, hỏi tỉ mỉ vết thương từ đâu, bao lâu rồi, hiện giờ ông cảm thấy thế nào. Đúng là người có ý chí kiên cường. Mai vừa đưa tay sờ trán ông vừa nghĩ. Ông ấy sốt cao như vậy mà vẫn giữ được tỉnh táo, còn tự thân vượt rừng nữa. Chắc chắn là vết thương nhiễm trùng rồi. Vuốt cọp, dù là chúa sơn lâm thì cũng không phải loài ưa sạch sẽ, thích tắm rửa. Trong móng vuốt của nó vi trùng rất nhiều, gặp ngay vết thương hở thì bọn vi trùng như gặp đại tiệc rồi.

Mai nấu thêm hai nồi nước sôi, cô hỏi mượn thanh đao sắc trên người Trần gia, rồi nói:

– Cháu sẽ rạch vết thương, nặn máu độc rồi mới rịt thuốc. Sẽ rất đau, rất xót.

– Ta biết, cô nương cứ làm.

Mai còn hỏi ông có muốn cắn vải để tránh cắn phải lưỡi lúc đau. Ông có vẻ suy nghĩ rồi gật đầu ra hiệu một hộ vệ đưa cán đao đến.

Phải rồi, phụ nữ và con nít mới cắn vải, ông thì cắn đao mới đúng.

Lúc vết thương được tháo ra thì đúng như Mai dự đoán. Thịt bị thối rửa, vùng da xung quanh ửng đỏ, chuẩn bị làm mồi cho vi trùng. Cô hơ lửa lưỡi đao nhỏ, rạch vết thương, dùng vải sạch và nước ấm vệ sinh vết thương.

Công việc này ở thời hiện đại chỉ là chuyện nhỏ. Bác sĩ có đủ dụng cụ thanh trùng, chỉ cần dạn tay là làm được. Bệnh nhân thì có thuốc giảm đau, thuốc tê nên không cảm thấy gì.

Còn ở đây thì chuyện này là một cực hình với bệnh nhân. Người nào yếu là ngất xỉu, mê mang luôn. Và chuyện thanh trùng hơi khó, chuyện phải mở vết thương ra lần nữa rất dễ xảy ra. Lúc Mai sắp rịt vết thương và băng bó, cô quay lại hai hộ vệ nói:

– Thúc lại gần đây, cháu chỉ cách đắp vết thương và băng vải.

Sau khi ra khỏi rừng thì họ đã đi hai hướng rồi, dù sao cũng nên hướng dẫn để họ săn sóc cho lão gia nhà mình.

Lúc cô tập trung chỉ cách quấn vải, cô không thấy được ánh mắt Trần gia trầm xuống một chút. Là đang trách họ lôi người nhà cô vào nguy hiểm sao? Không phải ông đã nhường chiếc ghe duy nhất cho dượng cô đi về trước?

Nói thật ra thì không phải ông nhường, mà ông không thể giành chiếc ghe đó. Nguyễn gia và người Chân Lạp này hiểu rõ khu rừng, mà chắc chắn Nguyễn gia chỉ để chiếc ghe cho em rể mình về thôi. Ông nhường một bước sẽ nhận lại trợ giúp từ hai người này. Lúc đó mới có thể an toàn ra khỏi nơi đây.

Bằng chứng là mấy hôm loanh quanh trong rừng nhưng họ vẫn tránh con hổ dữ kia. Hộ vệ của ông quen chinh chiến sa trường, nhưng kinh nghiệm đi rừng, đi sông thì không thể nào sánh bằng dân địa phương được.

Hơn nữa trong nhóm người trên chiếc ghe quay về có một thân tín đi thông báo tin mật gấp. Bên kia khi nhận tin này sẽ thêm phần thắng, ông không cần lộ diện không cần thiết.

Ông nghiến chặt răng vào cán đao khi cô bé siết băng vải. Lúc thấy có cô gái nhỏ trong đoàn người ông rất ngạc nhiên, ai lại dẫn vào rừng nguy hiểm người như vậy, còn phải cõng nữa, thêm gánh nặng. Nhưng mà bây giờ ông hiểu tại sao cô bé này đến.

Những vết thương không được chữa trị kịp thời còn nguy hiểm hơn quân thù trước mặt. Một người khi bị thương mất máu, choáng váng rồi thì chỉ là vô dụng. Họ có thể phải ở trong rừng này thêm mấy ngày nữa, thức ăn nước uống không là vấn đề, những vết thương lở loét mới là chuyện lớn. Cô gái nhỏ này đúng là rất cần thiết.Chương 136: Rốn của rừngCả ngày hôm nay trời lúc nắng lúc không, chắc sẽ có mưa vào chập tối. Cho nên vừa đến nơi gò đất hôm qua, mọi người đã bắt đầu dựng chòi lá tạm. Cha, Bình ca và Sinh ca nhanh chóng dựng cột, lợp mái lá. A Sao thì chạy ra bãi bồi bắt về một dây cua lớn nhỏ và hai con ba ba. Thon bá thấy vậy thì góp thêm một mớ rau rừng và mấy trái bần sắp chín.

Có được hơn một canh giờ chuẩn bị, bữa cơm có thêm nồi canh cua rau rừng với bần chua. Hai con ba ba thì hấp muối. Lần đầu tiên Mai ăn canh chua bần, hơi mặn vì nấu bằng nước sông lóng phèn nhưng mà vị bần chua khác hẳn với me. Mấy con cua mập mạp, có gạch bùi bùi. Nếu có thêm chút bún tươi ăn chắc sẽ ngon hơn. Ăn với cơm hơi khô khô.

Rừng ngập mặn là nguồn thức ăn cho tất cả các loài trong chuỗi sinh thái, bao gồm cả con người. Đang ăn cơm thì trời bắt đầu mưa, lâm râm rồi nặng hạt dần. Vừa ngồi trong chòi lá, vừa ăn canh cua nóng, không phải là cảnh cắm trại thú vị sao? Trừ chuyện là họ thật sự ở rừng rậm, nguy hiểm cận kề. Nhờ có cái áo da trâu của a Báo mà Mai chịu đựng được cái lạnh đặc trưng của rừng. Vừa lạnh, vừa ẩm, lại thêm gió lùa từng cơn. Người nào thể chất yếu ớt sẽ không chịu nổi. Người khỏe mạnh mà ở trong rừng lâu quá cũng sẽ nhiễm bệnh, mài mòn sức khỏe.

Mai nhìn thoáng qua Trần gia, ông ấy chỉ ăn một chén cơm, một ít thịt ba ba muối thì buông đũa, lui lại trong góc, nhắm mắt định tâm, gương mặt vì sốt mà hơi ửng đỏ. Bất kỳ ai nhìn qua cũng biết được ông ấy có công phu, mà còn rất thâm hậu. Hai người hộ vệ vẫn trước sau bảo vệ ông, nhiệm vụ chính của họ. Nhóm người cùng nhau chụm lại trong chòi lá tạm bợ trong rừng rậm này, ai cũng có mục đích chính của mình.

Mai tưởng rằng hôm nay là đủ vất vả mệt mỏi rồi nhưng mà cô đã lầm. Đối với một số loài mưa là lúc nghỉ ngơi, tránh đυ.c. Nhưng mà một số loài khác thì mưa là lúc thích hợp nhất kiếm ăn hoặc chơi đùa giỡn nước, đặc biệt lúc chạng vạng tối như vầy thật “thích hợp”.

Đoàn người đang nhìn hai con trăn lớn đang “quần” nhau trên khoảng rừng thưa xăm xấp nước. Lâm bá vội tạt bếp lửa, chỉ chừa lại mấy cục than nhỏ và làn khói mỏng. Ánh chiều nhập nhọang không nhìn rõ lắm, nhưng chắc chắn là hai con trăn này rất lớn. Mấy thân cây bị đuôi nó đập trúng cứ rung rinh, lá già rụng xuống. Mai hơi lo lắng, sức mạnh của nó tới cỡ nào đây? Điểm yếu của nó là gì?

Còn chưa nghĩ ra cách gì, a Sao đã khều tay cô chỉ về hướng cành cậy rậm. Ôi trời, mấy con rắn to nhỏ khác nhau đang quấn trên nhành cây ven sông. Người ta hay nói quấn “xà nẹo”, chữ xà này là ý chỉ rắn sao? Vì đúng là bọn chúng đang quấn nhau thiệt chặt, không biết đầu con nào là đuôi con nào? Sau này chắc Mai bị ám ảnh chữ “xà nẹo” này quá! Cô nổi da gà da vịt khắp người.

Rất nhanh, có tiếng lao xao lan đến. Là một đàn vịt ùa về theo con nước. Hai con trăn ngừng đùa giỡn mà lặng lẽ trườn về bờ sông. Thật mai Lâm bá có kinh nghiệm chọn chỗ làm chòi, lỡ như chọn đúng chỗ bọn nó muốn bò qua thì không khỏi phải đánh nhau rồi.

Đàn vịt có lẫn mấy nhóm chim nước, le le nữa, hơn trăm con tràn lội ồn ào lội qua khúc sông. Sau đó là cảnh săn mồi – chạy trốn hỗn độn và ầm ĩ. Một con sấu núp phía bên kia bờ cũng không bỏ lỡ cơ hội, ào ra đớp con mồi.

Mai ngồi sát gần cha, cô không dám nhìn cảnh săn mồi hoang sơ, nguyên thủy này. Đúng là lý thuyết về chuỗi thức ăn trong tự nhiên rất dễ hiểu. Nhưng mà chứng kiến cảnh đàn vịt, chim cò đang tung tăng vui vẻ sau một ngày kiếm ăn, giờ lại thành thức ăn của loài khác thật tàn nhẫn. Cô bịt tai không muốn nghe, dấu đầu trong hai gối chờ cho qua. Tưởng là rất lâu, nhưng mà rất nhanh đã xong. Đàn vịt vẫn tiến về phía trước, số lượng có ít đi, nhưng rất nhanh sẽ được bổ sung. Mai tự an ủi mình.

Một lát sau Lâm bá nói:

– Ngày mai chúng ta làm thêm cái bè. Từ chỗ dòng xoáy a Thon sẽ dẫn đường dọc theo sông nhỏ quanh lại Bàu Sen. Sau đó ta và Lê đệ quay lại lấy ghe lớn.

Mọi người gật đầu đồng ý, thay phiên nhau canh gác và nghỉ ngơi. Mai bắt đầu mong được về nhà rồi, càng nhanh càng tốt.

Hình như khúc sông, chỗ đất này là nơi “hội tụ” của các loài trong rừng này vậy? Người ta hay nói cái rốn của rừng thì phải.

Nửa đêm, tiếng cú rúc, tiếng đàn dơi hay chim gì đó ào ào bay qua. Rồi có cả tiếng trầm trầm gì đó rất lạ, tiếng khịt khịt nho nhỏ như sát bên tai. Con Vện lại rút sát vào người Mai. Chẳng lẽ tới nữa rồi?

Lần này mọi người nhanh chóng bị đánh thức, đốt hết các ngọn đuốc trong tay, đứng quanh tám hướng quan sát. Con Vện rất cảnh giác nên đã phát hiện ra. Gần gốc cổ thụ lớn là đôi mắt xanh rực đang nhìn về hướng này. Bóng tối che hết thân hình nó, chỉ có đôi mắt là không thể giấu được.

Bỗng đâu có tiếng gầm thật lớn vang vọng khắp nơi. Lần này mấy con chim cú cũng bị dọa. Ngay trong một góc khuất, con heo rừng nhỏ chạy ào đi, còn không thấy đường va vào gốc cây gần đó. Con cọp phóng tới, định vồ con heo thì có tiếng gầm như cảnh cáo, rồi “đại ca” xuất hiện.

Đúng là có tới hai con cọp trong khu rừng này. Mà bọn chúng cũng không thân thiện với nhau. Có vẻ con nhỏ hơn từ nơi khác đến. Là cuộc chiến tranh giành địa bàn sao?

Con heo rừng nhỏ thật lanh, nó cong đuôi chạy biến vào bóng tối, bỏ lại chiến trường sau lưng với hai đối thủ đang vờn nhau. Con lớn hơn gầm vang hai tiếng, rồi từ từ tiến tới. Mọi người khẩn trương, ai cũng lăm lăm vũ khí trong tay, nó muốn dồn con nhỏ về hướng này? Bây giờ chạy là không kịp, hơn nữa gây ra sự chú ý bị cả hai con dồn lại tấn công càng khó khăn hơn. Nhưng mà đứng yên, càng bị động hơn.

– Bắn bị thương con nhỏ đi. Tiếng Trần gia trầm trầm, nhưng mọi người đều nghe thấy rõ ràng. Mọi người không kịp suy nghĩ thì hai hộ vệ đã đưa súng lên, tiếng “kịch” của cò súng lên nòng nghe rất rõ. Cả hai con đều quay nhìn hướng này.

“Đùng”

Tiếng nổ đầu tiên vang lên, chính xác vào phần bụng con cọp nhỏ. Nó rống lên phóng về hướng này. Hộ vệ thứ hai bồi thêm một viên pháo nữa vào bụng, làm giảm tốc độ đang rướn tới của nó, máu đã tuôn ra. Nó có vẻ hoảng sợ, nhìn một đám lửa đỏ phía trước.

Con cọp lớn gầm lên góp thêm phần làm nó dừng chân rồi quay lưng rất nhanh phóng đi. Con lớn hơn nhanh như chớp phóng theo.

Vậy là vượt qua nguy hiểm rồi? Mọi người vẫn căng thẳng nghe ngóng xung quanh. Bọn chúng to lớn như vậy mà phóng đi không hề nghe chút âm thanh gì. Chẳng bù cho con heo rừng lúc nãy, đã nhỏ người mà còn quá ồn ào.

Từ lúc đó đến gần sáng thì mọi người vẫn cảnh giác quan sát. Trời vừa rựng sáng thì Lâm bá đổi kế hoạch, mọi người kết nhanh một cái bè tạm, dùng hai ghe nhỏ vừa kéo, vừa chống vừa đẩy tránh xa khỏi chỗ là rốn của rừng hôm qua.

Cách khoảng vòng xoáy hơn trăm thước thì cả nhóm cập vào bờ.

– Làm kịp đi trong đêm không?

Lâm bá vừa hỏi cha vừa hỏi Thon bá. Có thêm nhóm năm người lớn và một ít đồ đạc thì chiếc bè phải lớn. Nhưng Thon bá dặn không thể quá lớn không luồn vào trong con sông nhỏ được, rất dễ vướng vào đám bèo hoặc rễ cây vươn ra. Còn chuyện đi đêm trên sông thì phải thật sự thuộc lòng dòng sông mới được. Hơn nữa, buổi đêm thì dễ làm mồi cho thồ lộ, bọn chúng thích săn đêm và có lợi thế hơn nhiều.

Sau chuyện tối qua thì nên chọn làm sao đây, cá sấu hay cọp!

– Mấy đêm này trăng khuyết, đêm dài, bọn chúng đều muốn tìm thức ăn.

A, có chuyện này sao? Mọi người nghe Lâm bá nói thì còn nhăn mặt hơn. Rồi cùng nhìn về chỗ Trần gia. Tối qua ông đã quyết định rất nhanh, và là cách tốt nhất trong tình huống đó. Khiến cho đoàn người đều thêm phần tin tưởng ông hơn. Thấy mọi người có ý chờ mình, ông nói:

– Qua được vòng xoáy nước trước trời tối không? Càng xa cuộc đất hôm qua càng tốt. Nhưng cũng không thể đi đêm. Con chó này không phát hiện ra con sấu ở xa được.

Trần gia rất nhanh đã tổng kết tình cảnh của đoàn người. Chỗ hôm qua rõ ràng là “trọng địa” của thú rừng. Có thể nơi đó có điều kiện thuận lợi, nước chảy không xiết, sinh vật phát triển tốt hơn, nên các loài thú ăn thịt hay tìm tới.

Giác quan của con Vện là một lợi thế với họ. Phát hiện ra kẻ thù càng sớm càng tốt. Nếu đi ghe đêm, mắt người không thể nhìn ra con sấu đang ẩn mình được.

– Được, theo ý Trần gia.

Lâm bá cân nhắc một lát rồi lên tiếng. Cả nhóm theo sắp xếp khẩn trương làm việc.Chương 137: Tình thânMai phụ thắt dây thừng từ sợi gai tươi do Thon bá và a Sao chặt đem về. Thật ra tay Mai nhỏ, không đủ sức quấn và siết dây chặt, nên cô chỉ dùng dao cạo đi lớp vỏ xanh của sợi gai. Bên trong là những “đường gân” rất chắc, nếu được phơi khô đi lại càng dẻo dai hơn.

Cô nhìn cây đao nhỏ, sắc bén trong tay. Bên kia a Sao cũng đang cầm một cây. Hai cây đao là vật tùy thân dắt bên hông của hai hộ vệ. Thật sự là dùng rất tốt. Mai thấy a Sao rất thích thì phải. Đoản đao này hay cây mác đều có lợi thế riêng, biết cách tận dụng sẽ phòng thân khi nguy cấp.

Chiếc bè dài cỡ mười thước, ngang bốn thước được Thon bá và cậu hai chống sào từ từ xuôi dòng nước tiến dần đến vùng nước xoáy. Phía dưới bốn người lớn đã sẵn sàng ứng cứu trên hai ghe nhỏ. Mấy đứa nhỏ, Trần gia và đồ đạc đã được hai ghe nhỏ chở đến chỗ ngụ tối nay rồi.

Sinh ca, Hùng huynh và Bình ca đang tranh thủ chút ánh sáng lợp mái lá của cái chòi tạm. Họ không có thời gian dựng cột mà nối các cành nhánh lại, đậy lớp lá dừa nước lên. Đêm nay chắc sẽ mưa. Mai và Trần gia đang xếp bập dừa thành đệm trên đất. Vết thương trên vai Trần gia hành ông ấy rất dữ, nhưng mà ông cũng không rên tiếng nào. Chỉ là một tay bị cố định nên chỉ làm việc linh tinh.

Lần đầu tiên qua vòng xoáy nước trên kia, Mai hơi sợ, nhưng hôm nay thì đỡ hơn rồi. Thon bá đã qua lại chỗ này nhiều lần. Lúc nãy mọi người theo lời bá ấy hướng dẫn là có thể bình an qua được.

Mai không nghĩ là cậu hai dẻo dai và bản lĩnh thiệt. Hình như chuyện trong rừng, dưới sông hay trên trấn cậu đều biết. Mặc dù cậu đã đi chung nhóm Trần gia mấy ngày và chắc cậu nhận ra những điểm lạ của họ nhưng cậu vẫn như vậy, làm những việc cần làm; không thân thiết cũng không quá lạnh nhạt.

Thon bá thì khỏi nói rồi, ông ấy chỉ nói chuyện với cậu và vài câu với Lâm bá. Mai nghĩ ông ấy biết tiếng Việt, nghe hiểu hết nhưng không bận tâm. Ông ấy sống theo cách của mình, ung dung tự tại.

Thật ra ba người Trần gia không phải người dân thường rất dễ nhận ra, họ không thể dấu trong tình cảnh này. Đi rừng thì người ta chỉ mang theo những món đồ hữu dụng nhất, tốt nhất. Nên ba người họ mang theo đao, kiếm hay súng là những món đồ giúp họ sinh tồn, an toàn để ra khỏi đây. Không thể ngụy trang bằng những món đồ thường dân được.

Mấy anh em Mai và a Sao thì chắc có nhiều tò mò, hiếu kỳ nhưng nhìn theo cách hành xử của cậu hai và cha nên cũng không tỏ thái độ. Dù sao đợi khi ra khỏi đây rồi tìm hiểu cũng chẳng muộn.

Như hôm qua, chạng vạng thì trời lại mưa. Mọi người chỉ ăn vội tôm cá nướng và cháo cá rau rừng là xong. Ai cũng tự nhủ, ráng qua đêm nay nữa, Thon bá nói cả ngày mai thuận lợi thì sẽ ra đến bãi đất bồi. Từ đó đi Giá Khê hoặc chợ Bàu Sen đều an toàn.

Cây mưa này không ngờ lại lớn như vậy. Bây giờ là cuối tháng mười, qua đầu tháng mười một rồi, định mưa lần cuối sao? Nhờ lớp lá rừng trên cao, rồi lớp lá dừa vừa lợp nên chỉ vài giọt nước rớt vào trong. Vấn đề là mưa lớn cùng với nước lớn đang dâng lên rất nhanh, sắp ngập lên gò đất này rồi. Thon bá đi ra ngoài một lát, khi trở vào thì nói mấy câu với cậu hai và Lâm bá.

– Chúng ta phải đi thôi, chỗ này rất nhanh sẽ ngập, không an toàn.

Lâm bá bàn bạc xong với Thon bá và cậu hai thì nói. Mọi người không có ý kiến gì mà nhanh chóng dọn các món đồ lên ghe và bè. Hai chiếc ghe nhỏ đầy nước, Mai hì hục tát ra ngoài. A Sao cũng tát nước cho ghe kia.

Nước dâng lên rất nhanh, Mai như còn nghe được tiếng nước ùng ục phía vòng xoáy trên kia. Thon bá dẫn đầu chống ghe rời đi. Bá ấy cũng không thèm mặc tấm nốp, cứ thế dầm mưa mà chèo.

– Trần gia đừng để nước vào vết thương.

Vừa nghe Mai nói thì một hộ vệ đã lấy nón lá của mình úp lên vai Trần gia. Mai quấn chặt tấm nốp ngồi yên trên ghe. Trời tối, không trăng không sao, lại mưa tầm tã, chỉ có tiếng mái chèo khua cụp cụp vào be ghe. Chiếc ghe nhỏ này không thể chịu được sóng cao gió lớn, cứ mỗi lần qua vùng nước mạnh nó lại trồi lên hụp xuống. Mai cũng hồi hộp theo, mong là chỉ cần qua đêm nay thôi.

Gần nửa canh giờ sau thì mưa tạnh, mấy cây đuốc dầu được đốt lên soi sáng được chút ít. Thon bá quan sát chung quanh, chỉ có thể dựa vào mấy đám cây rừng này mới biết mình đang ở đâu.

– Lên đi.

Vậy là họ vẫn còn đúng hướng.

“Phập”

Chưa kịp vui mừng đã nghe tiếng táp vào be ghe nhỏ. Mai và Trần gia ngồi trong ghe nghiêng ngả, tưởng đâu sắp lật ngang rồi. Ghe Mai đang ngồi là ghe đi giữa, có cha chèo và Hùng huynh “bảo vệ”. Sao nó canh trúng chiếc này vậy? Là mùi máu trên vết thương của Trần gia sao? Khứu giác của cá sấu chắc tốt hơn mũi của mình rất nhiều lần rồi.

Chưa kịp định thần thì “phập” một lần nữa. Mai chới với sắp té thì Hùng huynh bắt kịp tay cô nắm chặt quăng cô qua chiếc bè theo sau. Một hộ vệ đã nhảy lên ghe giữ lấy Trần gia.

– Cha,

– Chống bè ra xa.

Chiếc ghe bị quá nhiều lực tác động không giữ được thăng bằng nên lật ngang. Chỉ còn cha Mai trên đó. Cậu hai và Thon bá người cầm đuốc, người cầm chèo xoay ngang chiếc ghe kia tìm cách tiến lại gần chiếc ghe lật.

Con cá sấu đâu? Cha có bị úp trong ghe không? Trong hoảng loạn Mai chợt nhớ suy nghĩ lúc nãy, nó lần theo vết máu. Cô quay sang người hộ vệ và Lâm bá đang chống sào cái bè, cô la lớn,

– Chống ra xa, nhanh.

Trong lúc chiếc ghe được chống ra xe khỏi chiếc ghe lật, Mai hét lên với cậu:

– Cậu, nó lần theo vết máu.

Nói rồi cô giựt cây mác Hùng huynh còn cầm cứa vào trên mạch chính ở bắp tay. Máu lập tức tuôn ra. Cô đưa tay ra khỏi chiếc bè cho máu nhỏ xuống nước.

Mau, máu ở đây! Tới đây! Cậu hai nghe Mai hét rồi thấy cô cứa tay thì lập tức hiểu. Ông ào xuống nước, Bình ca, Sinh ca cũng ào xuống, cố gắng lật cái ghe lên. Trong ánh sáng của ánh đuốc, đôi mắt đỏ ngoạch của con sấu trồi lên, từ từ tiến về phía cái bè. Hai hộ vệ và Hùng huynh đều sẵn sàng. Lâm bá và Hùng huynh hết sức cho cái bè trôi nhanh hơn.

Thêm một chút nữa! Sắp được rồi!

Mai tự nhủ, nhìn dòng máu nhiễu xuống nước. Mắt cô quan sát hai chiếc ghe đằng kia, một úp một ngửa. Cô đang chờ một bóng dáng đã trở thành thân thuộc hơn một năm nay.

Lúc lội nước, lực đạp của hai chân rất quan trọng. Chân cha cô đã gãy một lần, xương có lành thì cũng không được như xưa. Cũng vì vậy nên cha không đi biển đánh cá được. Huống chi là kháng cự với con sấu có sức mạnh bằng mấy người thường, mà nó còn đang hăng vì ngửi được mùi máu nữa.

Rất nhanh, cha Mai đã thoát ra, cùng hợp sức mọi người lật chiế ghe lại, trèo lên.

– Hùng huynh, sẵn sàng?

– Muội qua chiếc ghe kia đi.

Mai lau máu trên cánh tay, tháo dây vải buộc tóc xiết lại mạch chính phía trên vết thương.

– Thon, đi trước đi.

Cậu hai vòng chiếc ghe đón đầu chiếc bè, vừa ôm Mai qua ghe đó vừa nói với Thon bá.

– Ta ở lại.

Trần gia nhìn ý của hộ vệ bảo ông cũng đi trước. Ông rất ngắn gọn trả lời. Một con sấu thôi, ông tin là sẽ không có nguy hiểm. Chiếc ghe kia quá nhỏ, để mấy đứa nhỏ đi trước. Mai kéo tay a Sao không để hắn ở lại. Còn nhiều người lớn mà, không đến phiên hắn.

Cuối cùng chiếc ghe nhỏ đi trước chỉ có Thon bá, Mai, a Sao và Bình ca. Đến ngả rẽ thì Thon bá buông chèo, chờ đợi.

Đồ đạc trên cái ghe kia bị mất hết rồi, cây đuốc cũng cháy hết. Hình như đã qua nửa đêm rồi, vầng trăng khuyết đã lên từ lúc nào, lặng lẽ tỏa ánh sáng xanh xao. Mất không nhiều máu lắm mà, sao cô thấy hơi mệt mỏi, buồn ngủ vậy?

Hơn hai khắc thì nghe tiếng mái chèo, rồi cái ghe của cậu và cha tiến lại.

– Nó bị thương rồi. Chúng ta nhanh lên, nước đang xuôi dòng xuống đó.

Ngắn gọn như vậy thì mọi người đã hiểu. Máu con sấu còn tanh hơn các loài khác, chắc chắn sẽ dẫn dụ các loài khác đến. Qua ngả rẽ thì con sông rộng hơn, không cần phải nối đuôi nhau nữa.

– Ngủ đi.

Mai nghe lời cha, co người nằm giữa hai lớp nốp ngủ. A, nước gì mà vừa mặn vừa đắng như vậy. Cô chỉ muốn ngủ thêm một lác nữa thôi. Mai cảm giác không khí xung quanh ấm áp hơn, gió cũng nhẹ hơn. Cô giựt mình tỉnh dậy. Mặt trời lên rồi, chắc cỡ đầu giờ thìn.

– Tỉnh rồi, ăn miếng cháo đi.

Bình ca đưa cho cô chén cháo, còn có hai trứng chim luộc nữa. Họ đang trên đường về Đông Hồ. Chiếc bè được thay bằng chiếc ghe lớn, cô đang nằm trong mui ghe. An toàn rồi, sắp về nhà rồi!

– Muội còn mệt không? Ngủ thêm đi.

– Dạ, muội biết rồi. Mình về nhà kịp tối nay không ca?

Nghe hai anh em nói chuyện, cậu hai đi vào mui, rờ trán Mai nói:

– Thon cho con uống ít thuốc bổ dưỡng. Con thấy khó chịu ở đâu? Khúc này mới qua khỏi chợ Bàu Sen một đoạn. Cậu sợ không về kịp Đông Hồ trong ngày. Mình sẽ đi đêm.

– Cậu, có ghé nhà a Sao không?

– Có, con khó chịu sao?

– Dạ không? Con muốn tìm mấy loại thuốc.

– Được.

Cơ thể con người phản ứng với việc mất máu hơi chậm. Qua mấy canh giờ rồi Mai mới cảm thấy choáng váng, mờ mắt. Có thể liều thuốc Thon bá cho cô uống đã có tác dụng, cô không yếu sức như dự đoán.Chương 138: Về nhàQua một đêm mưa lớn, trời lại trong xanh. Mai nhích người ra ngoài mui ghe nhìn hai bên bờ cây xanh rậm rạp.

A Sao đi lại ngồi gần cô, nhỏ giọng nói:

– Có thể về Đông Hồ rất nhanh.

Hắn đưa tay gõ nhẹ be xuồng. Mai hiểu ý nhưng lắc đầu, cô vẫn còn chịu đựng được. Cô không muốn những người ở đây biết sự hiện diện của bạn mới a Sao. Theo cô biết, mấy trăm năm sau loài cá nược bị săn bắt gần hết, còn lại rất ít trên vùng đồng bằng này. Cô ước gì mình có cách để chuyện đó không diễn ra. Loài cá nược xinh đẹp, hiền lành này cần được bảo vệ, càng ít người biết đến càng tốt.

Cô dặn a Sao những thứ cô cần, chỉ là một vài thứ để bổ sung dinh dưỡng và hỗ trợ tạo máu thôi. Nhà a Sao có, hắn gật đầu hiểu ý.

Đoàn người rất nhanh đến ngả quẹo vào làng Giá Khê nội. Vì họ sẽ không ngủ lại nên Mai không cần lên nhà. Cha cô và cậu hai tạ ơn Lâm bá, hẹn sẽ đến thăm ông khi rảnh rỗi. Trần gia gật đầu để một người hộ vệ bước lên, đặt vào tay Lâm bá hai đỉnh bạc.

– Không dám, ta đã nhận bạc Lê gia rồi.

– Đây là Trần gia tạ ơn Lâm huynh đã hết lòng. Xin nhận để chúng ta yên lòng. Ta cũng xin mua một ít thịt rừng và nấu ấm nước nóng cho Trần gia.

– Được, được, mời đến nhà ta.

Lúc nãy Bình ca và a Sao đã chạy nhanh đi trước để chuẩn bị những món Mai cần. Là nấu cháo thịt rừng, luộc hột gà, còn thêm chặt dừa trái và mật ong. Cô chỉ cần mấy loại này giữ sức, về đến nhà có Đỗ Lang y kê đơn, cô sẽ khỏe lại. Lúc nãy chắc hộ vệ Trần gia nghe lời cô dặn nên cũng muốn dự trữ thêm.

Mai nghĩ là ba người họ sẽ đi hướng khác sau khi ra khỏi rừng. Không biết sao, lúc cô tỉnh dậy thì họ vẫn theo ghe đến Đông Hồ. Có thể họ biết có Đỗ Lang y trong làng, nhưng mà từ Bàu Sen đi Trấn Giang tìm Trần lang y ở dược quán gần hơn nhiều.

Mọi người vẫn đang chờ trên ghe thì nghe tiếng bước chân đến. Là huynh đệ Trương bá. Ông chắp tay chào mọi người rồi nói:

– Về là tốt rồi. Mấy ngày trước ta đi rừng về, nghe tẩu đệ kể chuyện thì hoảng hồn. Ta vội dông ghe đến Đông Hồ. Nguyễn bá nói chưa có tin tức, kêu ta cứ về đây. Chắc chắn đệ sẽ ở đây nghỉ đêm. Giờ về rồi!

– Đa tạ Trương huynh. Đệ không thể nghỉ lại được, định gấp rút về nhà tìm lang y.

– Hả? Bị thương sao?

– Cũng không nghiêm trọng lắm, nhưng mà về càng sớm càng tốt.

– Đúng, nên về. Lấy ghe lớn của ta đi đi. Ta và tam đệ theo giúp. Đừng khách khí với ta.

Thấy cha và cậu hơi ngần ngừ, Trương bá bồi thêm. Nếu có huynh đệ Trương bá thay phiên chèo thì chắc sẽ nhanh hơn rồi. Mấy ngày nay ai cũng đã mệt mỏi, đuối sức. Để lại hai cái ghe nhỏ nhờ Trương bá mẫu trông coi. Hai chiếc ghe lớn chuẩn bị rời đi. Biết mọi người gấp gáp, bá mẫu nấu vội hai nồi cơm nóng, thêm thịt cá khô đem lên ghe.

Mai không ăn cơm mà ăn cháo thịt, thêm hai cái hột gà luộc. Nồi cháo nấu vội nên chưa kịp nhừ, không sao, nước cơm thịt đã đủ chất dinh dưỡng rồi. Thật ra loại gạo chưa chà kỹ, vẫn còn lớp cám gạo lại đầy đủ chất cần thiết. Bình ca chặt sẵn hai trái dừa cho cô. Mai cứ uống từ từ, vừa ngủ vừa thức cũng qua được một đêm dài.

Trời vừa rạng sáng thì đã về vũng Đông Hồ. Lúc ghe ghẹo vào con rạch trước nhà, cha chắp tay nói với Trần gia.

– Ta đi mời Đỗ lang y, ba vị đi theo luôn không? Đỗ lang y có phòng cho khách ngụ, ông ấy là lang y giỏi nhất ở đây.

– Được, chúng ta đi.

Hai người hộ vệ còn nôn nóng muốn gặp lang y hơn cả Trần gia. Họ nhanh nhẹn nhảy lên cầu ván, rồi đỡ Trần gia theo cha đi vào làng.

Trời còn sương mù giăng giăng, tiếng gà gáy râm ran khắp nơi. Trong nhà Mai đã có khói bếp và có tiếng người nói chuyện, làm việc.

– Nương ơi!

Bình ca vừa chạy vào sân nhà vừa gọi. Trong nhà có tiếng chân lật đật chạy ra. Lớn nhỏ đều chạy ra đầy sân.

– Về rồi!

Ông ngoại và nương Mai nhìn lướt qua đoàn người như “điểm danh”.

– Cha con, cậu, còn Mai đâu?

– Cha vội đi mời lang y rồi. Cậu dưới ghe.

Hả? Mời lang y, ai bị thương vậy? Là cậu hai sao?

– Không sao, nương. A mai bị thương, không sao.

A Bình lên tiếng trấn an cũng vô dụng. Mọi người đã ào ra ghe nhìn tận mắt mới yên tâm. Cậu hai còn đang ôm Mai, vừa bước lên cầu ván thì mọi người ra tới. – Vào nhà đi,

Cậu hai không vội giải thích, chỉ ôm Mai đi thẳng vào phòng, đặt cô lên giường rồi nói:

– A Mai bị thương, mất máu. Nấu mấy món bổ dưỡng, chờ Đỗ lang y đến xem sao.

– Con không sao, đừng lo. Nương hầm gà đi.

Mai đã tỉnh ngủ, thấy về nhà rồi thì thở ra. Cô lên tiếng để mọi người bớt lo lắng. A Vĩnh đã ngồi bên cạnh cô, còn bắt mạch trên cổ tay nữa.

– A Mai mệt lắm, để muội ấy nghỉ ngơi đi.

Ừ, ừ, mọi người nghe vậy đều lần lượt ra ngoài. Nhóm đàn ông thì lên nhà trên nói chuyện mấy ngày qua. Nhóm đàn bà con gái thì xuống bếp lo nấu nướng. Đoàn người đi về ai cũng mệt mỏi, đuối sức, để họ ăn uống tẩm bổ, chuyện gì cũng từ từ nói sau.

Lúc Đỗ lang y đến thì Mai hơi mơ màng một chút rồi cũng ráng mở mắt. Ông bắt mạch, kê đơn rồi nói:

– Đúng là mất nhiều máu nên cơ thể suy yếu, bổ dưỡng từ từ sẽ khỏi.

Mấy ngày sau đó Mai đương nhiên là được chăm sóc, bồi dưỡng rất chu đáo. Chỉ là chuyện tắm rửa, vệ sinh hơi bất tiện. Ở đời trước, cô bệnh gần như liệt nên không thể tự tắm, đành để mẹ giúp. Còn bây giờ, cô chỉ hơi mệt thôi.

Thế là Nương và Cúc tỷ lăn cái lu vào trong chái nhà, nấu nước nóng pha cho cô tự mình tắm rửa ở đó. A, hơi giống tắm bồn massage phải không? Thật là thoải mái, sau khi hết mệt mình có nên xin cha dựng thêm khu nhà riêng cho đàn bà con gái không? Thời bây giờ hay gọi là hậu viện, được như vậy mình có thể thường xuyên tắm kiểu này hơn.

Lần thứ ba Đỗ lang y đến khám, thì sức khỏe cô đã hồi phục.

– Gân tay cháu tổn thương nặng không?

Người ta hay nói gân cốt, thì gân quan trọng hơn cốt. Gân khi đã đứt thì gần như không thể nối lại, ở hiện đại có nối lại thì cũng không còn đủ mạnh như ban đầu. Lúc đó rất nguy cấp, nếu không cắt ngay mạch chủ, máu sẽ không chảy đủ nhanh. Thường thì mạch chủ đi liền với gân, Mai chắc là đã cắt trúng gân cánh tay, nhưng nặng nhẹ thế nào chưa rõ.

Đỗ lang y quan sát bé gái đang nhìn chăm chú cánh tay bị thương, như suy nghĩ gì đó. Ông đã nghe chuyện lúc đó, thật không nghĩ nhỏ như vậy đã nhanh trí và can đảm.

– Có, mấy năm tới không nên làm việc nặng.

A, như vậy là không đến nỗi không vận động được, vẫn còn cầm nắm được là tốt rồi.

Hai nhà Trương bá và Lý thúc đã về Giá Khê mấy hôm trước.

Chuyện dượng năm bị thương không nghĩ là nặng đến vậy. Dượng bị con sấu cắn nát hết bàn tay. Khi về được Trấn Giang đã hôn mê, nhóm người đi chung thì người đã chết, người sốt cao. Thành ra không ai về nhà ngoại báo tin. Đợi khi dượng năm tỉnh lại, nhắn tin về thì ông ngoại đã đến nhà Mai. Dì năm nghe tin xong khóc ròng, ông ngoại kêu dì về Trấn Giang lo chăm sóc dượng, nhắn nhà ngoại biết chuyện ở đây.

Hai hôm nay, đoàn người về đến nơi thì ông ngoại mới nhẹ lòng. Lúc nghe cậu hai kể chuyện nhóm người Trần gia thì ông nhăn mày:

– Không biết là giao thiệp thế nào với a Thế!

– Cha, muội phu cũng thành ra như vậy rồi, cha đừng trách.

Cha Mai biết ông ngoại có ý trách dượng năm làm liên lụy nhà mình. Nhưng mà tình cảnh này ai cũng sẽ làm như vậy thôi. Mà tính ra nhà mình may mắn hơn nhiều rồi. Phía Trần gia cũng không “sung sướиɠ” gì. Trước khi về Trấn Giang, cậu hai đến cáo từ Đỗ lang y và Trần gia.

Ông ngoại dặn lại:

– Lần này, Lý gia và Trương gia đều hết lòng với nhà con. Ngày sau mình nên ghi nhớ. Cháu cũng nhớ.

Câu sau là ông nói với Sinh ca. Sinh ca gật đầu đáp:

– Dạ, cháu biết ông nội. Chỗ Thon bá và Lâm bá cũng hết lòng.

Lúc lâm nguy mới biết lòng người nông sâu. Nguyễn lão mừng vì nhà con rể có được những mối thâm giao. Từ Đông Hồ đến Giá Khê không gần, nhưng cũng không xa để cách lòng. Mấy ngày này đàn ông trong nhà đều đến đây, chuyện ở ngả bảy ông cũng đánh tiếng nhờ Trần lão coi sóc. Chuyện ân nghĩa trong đời là như thế, như là những sợ dây vô hình, tưởng như mong manh nhưng thật ra bền chặt nhất.

– Ừ. Ta sẽ ghé Giá Khê mang hai chiếc ghe nhỏ đi luôn. Chuyện sửa chữa ghe để cha lo liệu. Cha sẽ nhắn tin ra đây.

– Dạ, con biết. Cha về lo chuyện dì năm.

Chuyện ở đây đã xong, ông còn lo lắng con gái út ở nhà. Nguyễn lão không nhiều lời, lên ghe về Trấn Giang.Chương 139: Đoản đaoNhà Mai lại quay về nhịp sống ngày thường. Hôm trước a Phúc nhùng nhằng không chịu đi học, hắn nói ở nhà chơi với Mai cho đỡ buồn. Cô phải hầm hừ nói:

– Đệ làm biếng thì có, không đi học rồi sao về giúp tỷ viết chữ. Không thấy tay tỷ đau sao?

Nghe đến đó thì hắn lật đật ôm giỏ đệm chạy theo a An, cũng còn biết thương mình. Nương cứ nhìn cánh tay cô, rồi nước da xanh mét của cô mà rươm rướm nước mắt. Lúc nghe lang y nói vài năm nữa cánh tay sẽ khỏi, nương mới không sụt sùi nữa.

Hôm chợ phiên, Hùng huynh và a Sao đến chơi. Nương và Cúc tỷ làm thức ăn trưa đặc biệt thịnh soạn. A Sao ha ha cười nói:

– Bà nội ta khen ngươi gan dạ quá!

Mai cười cảm ơn La bà, còn cám ơn hắn cho mượn cái áo da trâu.

– Không có gì, ngươi thích thì cứ lấy mặc. Mai mốt ta xin cha tìm mua cái khác. Mà sao, bộ cung tên tốt không?

Trời, thì ra chuyện hắn quan tâm nhất là hỏi xem bộ cung tên mới có tốt không, thiệt là.

– Chưa có xài tới.

– Sao vậy?

Mai liếc hắn, không dùng là tốt chứ sao? Một đám người lớn đi chung, mà Mai phải bắn tên thì họ cũng “vô dụng” quá đi. Nhắc chuyện này Mai mới nhớ, cô có việc nhờ cậy Trần gia.

Sau hôm về làng, ba người Trần gia có đến đây, đem trà rượu đến nói cảm ơn. Họ biết ý không đưa bạc như ở chỗ Lâm bá. Mấy người lớn trò chuyện, thăm hỏi một hồi thì về. Vết thương của Trần gia đã gần lành, không hiểu sao họ vẫn nấn ná ở lại.

Sáng nay, Mai xin cha nương đến nhà Đỗ lang y chung với Vĩnh ca. Tiếng là tạ ơn lang y, cô còn muốn gặp Trần gia có việc. Tối qua cô đã xin cha, cha đồng ý rồi.

Trần gia đang ngồi yên trên ghế để Đỗ lang y thay thuốc rịt vết thương. Móng vuốt cọp luôn có độc (thật ra là vi trùng) nên vết thương nó gây ra lâu lành hơn, còn bị nhiễm trùng nên miệng vết thương lớn và sâu. Lúc Trần gia mới đến, ông có nói chuyện Mai đã chữa trị sơ qua. Đỗ lang y gật đầu, cũng không ý kiến gì. “không phải nên chê bai cô gái nhỏ làm liều sao?” Trần gia nghĩ.

Người ta hay nói nghề nào cũng có ganh đua, so bì. Lang y cũng vậy, ai cũng muốn chỉ có mình ra tay trị cho bệnh nhân; không thích người khác ý kiến chen vào. Vị Đỗ lang y này thật sự “đại lượng” vậy sao?

“Tiếc là con gái”, tiếng Đỗ lang y lẩm bẩm một mình lọt vào tai ba người Trần gia. Thật sự đứa bé gái biết y thuật? Trần gia nhớ lại chuyện Mai dặn dò mấy món ăn dưỡng thân bổ máu trên đường về. Đúng là con bé xanh xao, yếu ớt; nhưng không đến nỗi hôn mê. Lượng máu chảy xuống dụ con sấu kia không nhiều với người lớn, nhưng đối với đứa nhỏ như vậy không phải ít.

Đợi khi cha con Đỗ lang y rời đi, ông nói:

– Hôm về đây, hai ngươi nghĩ có cách nào đi nhanh hơn không?

Hai hộ vệ không theo kịp suy nghĩ của ông, một lát sau hiểu ra mới lên tiếng:

– Chúng ta thay phiên chèo ngày đêm, có người sức lớn thì nhanh hơn cỡ một canh giờ. Trừ khi dùng, …

Trần gia trầm ngâm suy nghĩ “chắc chắn hai đứa nhỏ đó chưa hề biết thuyền chiến mà hộ vệ định nhắc đến. Vậy là còn có cách khác? Xem ra tiểu cô nương đó biết, quan trọng là có muốn dùng hay không thôi. Tại thời điểm đó mà vẫn chưa dùng đến cách cuối thì đúng là đủ kiên cường”.

– Để ý xem Lê gia có gì lạ không.

– Tuân lệnh.

Người hộ vệ trẻ hơn chắp tay nhận lệnh rồi ra ngoài. Mấy ngày nay ba người không vội rời đi, để Trần gia dưỡng thương, và nghỉ ngơi cũng tốt.

Lúc a Vĩnh và Mai đến nhà Đỗ lang y thì thấy ông đang uống trà, trò chuyện cùng Trần gia. Hai đứa nhỏ bước lên chắp tay chào rồi lui xuống sân sau. A Vĩnh lo làm nhiệm vụ, mang cây lá thuốc ra phơi, theo sư huynh lựa, phân loại lá thuốc. Mùi thuốc thoang thoảng trong không khí thật dễ chịu. Đỗ bá mẫu mang ra một dĩa bánh mứt cho Mai, hiền từ nói:

– Cháu ngồi chơi thôi, đừng tốn sức.

– Dạ, cháu khỏe rồi, tạ ơn bá mẫu.

Bà gật gật đầu rồi đi vào trong, để ba đứa nhỏ ở lại sân thuốc tự ý. Con trai lớn Đỗ lang y Đỗ Tầm rất ít nói, siêng năng, cũng là người thuần hậu, đối đãi với sư đệ a Vĩnh thật lòng. Chỉ là không hiểu sao đã hai mươi tuổi rồi mà chưa thành thân. Đỗ bá mẫu không sốt ruột sao?

Mai thoáng quan sát huynh ấy. Tướng mạo dễ nhìn, không quá anh tuấn, nhưng không dị hình; hơn nữa là người sẽ nối nghiệp nhà làm lang y. Lẽ ra mấy ông bà mai sẽ nhộn nhịp tới lui chứ? Hay là có bệnh khó nói? Ha ha, Mai phì cười mình ngớ ngẩn. Đúng là rảnh rỗi quá nghĩ chuyện không đâu.

– Muội muốn gặp Trần gia?

Hi hi, mai hơi mỉm cười gật đầu. Thì ra Đỗ huynh cũng tinh ý quá. Cô đang trông chừng đợi Trần gia nói chuyện xong thì xin gặp.

Lát sau, Đỗ huynh mang mấy thang thuốc đặt lên mâm gỗ, nói với cô.

– Trần gia sắp rời đi, thuốc này là mang theo. Muội mang qua cho ông ấy đi.

Ha, Mai càng thấy “thuận mắt” với Đỗ huynh rồi. Cô mang mâm gỗ ra phía trước. Nhà Đỗ lang y có xây hai phòng ở cách sân trước một đoạn dành cho bệnh nhân ngụ. Mai thấy cách này rất thuận tiện, tách riêng sinh hoạt của thân nhân lang y và bệnh nhân.

Một hộ vệ đứng ở hiên trước như canh gác, Mai hơi nhún gối chào.

– Cháu mang thang thuốc cho Trần gia. – Mời Lê cô nương vào.

Trần gia đang ngồi ở bàn tròn gỗ. Mai chào xong thì đặt mâm gỗ lên bàn. Cô chưa kịp mở lời Trần gia đã hỏi:

– Cháu có việc gì không?

A, nhìn mặt cô dễ đoán vậy sao? Mai hấp háy mắt nhìn ông ấy nói.

– Dạ, cháu có chuyện hỏi thăm Trần gia.

– Chuyện gì?

Mai cũng không vòng vo, cô kể chuyện mình muốn tìm mua hai thanh đoản đao tốt. Thật ra lúc ở rừng cô chỉ muốn mua một cây cho a Sao. Nhưng hôm qua cô nghĩ mình cũng nên đáp lễ tấm lòng của a Báo. Mặc dù a Báo đã có bộ cung tên, nhưng khi cần cận chiến, đoản đao hiệu quả hơn nhiều. Hơn nửa, không phải dễ dàng mua được. Trần gia có vẻ là người có thể giúp được chuyện này.

– Ta sắp rời đi. Có thể không quay lại đây nữa.

– Trần gia có thể chuyển dượng năm cháu ở Trấn Giang, mong người hỗ trợ!

Thấy ông ấy còn trầm ngâm suy nghĩ, Mai đành dùng chiêu cuối để trao đổi.

– Trần gia thấy ghe nhỏ nhà cháu đóng không? Dùng rất tốt trong đám rừng đước, mùa nước lên. Cái này là nhà cháu nghĩ ra.

Vừa nói cô vừa lấy từ trong túi nhỏ ở tay áo mấy tờ giấy. Là bản vẽ nguyên lý cân bằng đáy ghe nhỏ. Trần gia đưa mắt nhìn mấy tờ giấy, ông xem thoáng qua, ánh mắt nhìn Mai sâu hơn. Cô cũng không ngại, còn hơi mỉm cười nói:

– Cháu có mang theo một ít bạc, là tiền góp riêng của cháu. Trần gia xem còn thiếu hay không?

Liên tiếp nói như vầy là cô đã thể hiện hết thành ý muốn mua đoản đao rồi. Có nó, a Sao và a Báo sẽ có thêm cơ hội khi hữu sự, nên cô không ngại cầu người.

– Được, coi như ta trao đổi với tiểu cô nương.

– Dạ, đa tạ Trần gia. Vậy cháu xin cáo từ. Chúc ngài thượng lộ bình an.

Ông gật đầu nhìn Mai rời đi. Cô đi thẳng vào sân phơi thuốc, a Vĩnh mang mẹt tre đến gần hỏi:

– Được không?

– Được rồi.

Mai chỉ ống tay áo ý nói đã trao đổi với bản vẽ rồi. Cô nhỏ giọng nói tiếp:

– Ca nghĩ nếu ông ngoại biết sẽ giận muội không?

Lần đó, cô định nhờ mua giúp lúa giống đã khiến ông ngoại lo lắng như vậy. Lần này mặc dù cha đã đồng ý, nhưng ông ngoại chắc sẽ la rầy.

– Ta nghĩ không đâu, chuyện này khác. Muội không thấy mấy ngày mọi người đi rừng đâu. Ông ngày đêm lo lắng không yên. Lúc nghe tin dượng đã về trước đó, ông giận run lên. Lúc đó cả nhà ai cũng sợ. Dì năm không dám khóc luôn, nương gói ghém cho dì ấy đi đó.

Mai nghĩ chắc ông ngoại giận bản thân mình nhiều hơn, để con cháu vì mình vào rừng nguy hiểm thì tâm ông đau đớn biết mấy. Mai có thể tưởng tượng cảnh ông ngoại gầy gầy xương xương trông về hướng rừng xa. Giống như dáng bụi tre già bị nắng hạn khô cháy nhưng vẫn gắng sức chống chọi, đem thân mình làm tường thành che chắn cho đám con cháu vươn lên.

Ừ, lần này là Mai mua đoản đao để đền ơn La gia và Lý gia, chắc ông ngoại còn khen cô nữa chứ!

Trước khi rời đi, hộ vệ đã báo tin tức thu được về nhà Lê Tứ. Trần gia trầm ngâm hỏi:

– Trấn Giang có nhà nào mua hai mươi chiếc ghe?

– Bẩm, thuộc hạ không đoán được. Nhưng nghe nói mấy tháng trước Mạc gia có đi đón Mạc phu nhân ở đó.

– Không lẽ là Bùi gia? Cử thêm người về đó đi. Sẵn tìm hai đoản đao, loại tốt một chút. À, đến Lê gia chọn mua cái ghe lớn. Ngày mai lên đường.

– Tuân lệnh!

Vào một buổi sang trời trong, Dương ông, Đỗ lang y và Lê tứ cùng tiễn Trần gia lên đường. Lúc về Dương ông còn vỗ vai Lê tứ nói:

– Vị này không biết là ai, nhìn phong thái không phải phường đạo tặc. Qua Tết ta có dịp đi Lũng Kỳ thử tìm hiểu tin tức xem sao.

Lê tứ gật đầu ý hiểu. Ông đã kể mấy chuyện chính xảy ra trong rừng cho Dương ông nghe. Từ lúc về đây, Trần gia và hộ vệ đã dấu đi sự sắc sảo và bản lĩnh. Các vũ khí cũng không thấy nữa, chắc được giấu trong hành trang. Họ hành động kín kẽ như vậy làm Dương ông hơi lo lắng. Chuyện giặc cướp giả trang dọ thám không phải chưa từng có, cẩn thận vẫn hơn.Chương 140: Làm rểQua ngày rằm tháng mười một thì Mai được đi học trở lại. Haiz, mấy đứa con trai cứ hay liếc nhìn về chỗ cánh tay Mai. Đúng là không giấu được chuyện gì hết. A Phúc còn làm quá lên, mang giỏ đệm dùm cô. Hắn cứ cặp nách hai giỏ, a, không ai nói cho đệ biết làm vậy sẽ học “ngu” chết luôn hay sao? Hèn chi học hơn tháng rồi, mà mấy chữ viết không xong. Nhưng mà mấy câu tam tự kinh có vần có điệu hắn lại thuộc rất nhanh. Mấy lúc hắn vui miệng còn tự ngâm nga.

Năm nay gặt lúa sớm hơn, nước trên ruộng vẫn còn xâm xấp chỉ còn trơ lại gốc rạ đã úa vàng. Khắp nơi đều như thế, nhưng hai mẫu đất cao nhà Mai vẫn xanh um. Mấy nhà trong làng đều hiếu kỳ đến xem. Đây là hai mẫu đất trồng đậu lúc trước, tháng chín hái xong đậu thì nhà cô đã trồng dây khoai lang, dây khoai mỡ, còn ghim mấy gốc khoai mì nữa. Bây giờ mấy luống đã xanh um, dưới rễ chắc đã tượng được củ rồi.

Thúc bá trong làng nghe cha nói tranh thủ trồng thêm thì đều ngạc nhiên, rồi vui mừng. Nếu có thể trồng như vậy, lương thực trong nhà thêm một bồ nữa thì còn gì bằng. Mặc dù ăn khoai không chắc bụng như ăn cơm, nhưng ăn phụ bữa trưa, bữa tối. Mấy năm lúa mất mùa lại càng quý giá.

– Giờ nhà ta trồng kịp không?

Một vị bá bá hỏi, ông nhìn đám rau lang xanh rờn không nhịn được hỏi cha.

– Đệ nghĩ được, nhưng sẽ hơi cực. Phải tưới nước mấy ngày nắng lớn. Nhà đệ mỗi chiều tối đều tưới. Mấy hôm có mưa thì khỏi.

Mùa mưa đã qua, chỉ còn lác đác vài cây mưa sót lại. Bây giờ trồng thì sẽ tốn công nhiều hơn. Nhưng mà nhà nông vừa gặt xong mùa lúa, rảnh rỗi làm gì? Bây giờ trồng, qua Tết thì có củ rồi, lúc đó giá lương thực đều cao. Biết đâu có thể bán được giá, không bán được thì để trong nhà ăn lần, mất mát gì đâu?

Mỗi người một câu, nhà nào cũng định trồng thử, không nhiều thì ít, cỡ một hai công ruộng cũng được. Cha nói thúc bá không cần ươm giống, cắt dây khoai nhà cô trồng sẽ nhanh hơn. Dây khoai lang lúc bắt đầu có củ thì cũng nên cắt bớt dây nhánh, để rễ chỉ nuôi củ, thì củ mới lớn.

Mấy ngày nay nhà Mai bắt đầu tỉa dây, lá xanh nấu cháo cho ba con heo, dây khoai thì quăng vào chỗ ủ phân, một vòng khép kín.

– Làng mình đào thêm mấy cái hào lớn nữa đi, trữ nước ngọt, vừa nấu nướng, tưới khoai nữa.

Dương ông thấy mọi người háo hức, sẵn dịp đề xuất luôn. Hào sen cạnh chùa tuy lớn, nhưng mỗi ngày tưới khoai mà đi xa như vậy thì đúng là vất vả.

– Dương bá thấy chọn chỗ nào, có nước ngọt còn gần các nhà nữa.

– Được, để ta hội ý Nguyễn lão, Trần tú tài xem sao. Đúng là nên tính toán để nhà nào cũng thuận lợi.

Chuyện nọ nối chuyện kia, nương và ngũ cô nướng cá, khô; rồi còn kêu An ca chạy đi mua chút rượu để khách vừa nhâm nhi vừa nói chuyện.

– Sao không thấy a Hà qua?

– Ha ha, ta nói hắn có út nam rồi, mặt mày hớn hở, nhìn không được!

Ha ha, mọi người đều lớn tiếng cười. Trong mấy ngày Mai đi Giá Khê, Lưu bá mẫu đã sanh, là con trai. Cả nhà Lưu bá đều vui mừng, hớn hở. Đứa nhỏ cũng thiệt khỏe mạnh, khóc lớn, ngủ ngáy cũng lớn.

Sau đợt bán hai mươi chiếc ghe nhỏ, còn thêm cái ghe lớn Trần gia mua, tính toán chi phí xong thì Mai và a An “báo cáo” sổ sách. Nhà nội được gần tám mươi quan, thêm tiền bán ghe từ đầu năm nữa đã hơn trăm quan rồi. Gương mặt ai cũng mừng rỡ. Cha, nương và mấy đường ca thu xếp ra làng chài một chuyến. Mai thấy hơi lạ, Vinh ca, Hân đã lớn, tự mang tiền về được, chắc là cha nương muốn gặp ông bà nội có chuyện gì đó. Chuyện gì mà có vẻ bí mật vậy kìa?

Mai quên chuyện này rất nhanh, mỗi ngày ngoài hai canh giờ ở lớp Trần tú tài, cô sẽ dành một canh giờ để tập viết chữ. Còn lại là phụ làm việc nhà, hiện cô đang nghĩ chuyện ba con heo. Ba con heo nhà cô được gần trăm cân, bây giờ nuôi thúc tới Tết chắc được hơn một trăm cân.

Nhà nông nuôi heo cả năm, sẽ tranh thủ bán thịt vào dịp Tết, vừa được giá vừa giữ lại đầu heo, lòng heo làm thức ăn trong mấy ngày Tết nữa. Nhưng mà nếu nhà mình bán đi, qua tháng giêng lại tìm nhà có heo con để mua. Lỡ tìm không có thì sao? Nhà mình chờ lâu lắm mới mua được ba con này.

Trời xế bóng, mấy cơn gió mát từ vũng Đông Hồ thổi vào nhẹ nhẹ. Nước đã rút ra biển, mấy con đường nhỏ đã khô lại, không còn nhão nhoẹt. Nhưng mà con nước cũng “san bằng” mặt ruộng bờ đất. Qua giêng, người nông dân lại phải đắp bờ cao lên, lên giồng để trồng khoai đậu. Cực nhọc hơn một chút nhưng có cái lợi là nước ngọt thượng nguồn rửa bớt độ mặn, trôi phèn chua của cả vùng đồng bằng này. Sau năm có lũ, đất sẽ màu mỡ hơn, cây trái cũng xanh tốt hơn.

Ngũ cô đang may giày cho ông bà nội, nương và Cúc tỷ thì đo xấp vải thô, rồi tính toán cắt may. Năm nay nhà mình ai cũng sẽ có một bộ quần áo mới, không cần nhường nhau nữa.

Mai ngồi bên cạnh tập làm túi vải. Túi vải nhiều lúc thuận lợi hơn giỏ đệm, đeo quàng trên vai cũng dễ dàng hơn. Giỏ đệm bằng lát xài được một năm sẽ hư, có khi không cẩn thẩn để ướt càng mau hư. Túi vải đi đường xa đều có hai lớp, lớp ngoài vải thô, lớp trong vải mịn. Có may thêm túi nhỏ đựng tiền hay vật có giá khác. Mai cũng có một cái túi nhỏ trong tay áo. Mỗi lần đi chợ phiên cô đều nhét vài văn tiền trong đó.

– Nương ơi, nhà mình có để heo nái giống Nguyễn gia được không? Nương ngước lên rồi quay sang hỏi ngũ cô.

– Ý muội sao?

– Muội cũng muốn nuôi thêm heo con, tẩu thấy mình đến hỏi Nguyễn gia được không?

Đúng là chỉ ngại nhà người ta không sẵn lòng chỉ dẫn. Giá thịt heo cao, nhà nào nuôi khéo, cuối năm bán thịt là đủ mua đồ tết, sắm sửa trong nhà.

– Để ta hỏi ý cha con xem sao, dù sao chuyện heo giống mấy người đàn ông rành rẽ hơn chúng ta.

Chính vì chuyện này nên Mai không dám nói trực tiếp với cha. Thời này phân chia rất rõ, chuyện cây giống hay con giống đều do đàn ông quyết định. Mấy thiếu nữ như a Cúc cũng không được biết, nói chi đến cô.

Đến giờ chuẩn bị cơm chiều thì mọi người chia nhau làm việc. Ngũ cô và Mai định đi ra chuồng heo cho nó ăn thì có dáng người vào sân, là Đỗ bà mai. Cô hơi nhíu mày, là chuyện gì vậy ta?

– A Cúc, con ra cho heo ăn đi.

– Dạ,

A, lại bị đuổi rồi! Lần này a Cúc kéo tay cô đi nhanh, không cần cô nghe lén nữa sao? Hả, mặt tỷ ấy đã hơi ửng lên rồi. Xem ra tỷ ấy biết là người lớn bàn chuyện gì. Không lẽ chuyện cưới gả của Hùng huynh và a Cúc có thay đổi? Nếu có, chỉ có thể là tốt hơn thôi. Sau chuyến đi vào rừng tìm cậu hai. Cả nhà cô đều quí Hùng huynh hơn nhiều. Gặp lúc cảnh nhà khó khăn, huynh ấy chung tay lo lắng thì còn gì bằng? Lúc trước, cha đã mang ít đồ trong nhà cùng với cậu hai đến thăm La gia và nói cảm ơn.

Tối hôm đó thì cả nhà đã biết là chuyện gì, chuyện vui, đương nhiên là chuyện vui. Lễ thành hôn của Hùng huynh và Cúc tỷ sớm hơn dự định, qua Mùng 6 tháng hai là tổ chức. Cả nhà vui vẻ nói xem nên chuẩn bị cái gì? Làm sao? Nương sẽ bận rộn nhất đây.

– Ngày mười chín này nhà trai qua đưa lễ, hai mươi thì a Hùng đến làm rể một tháng. Mình sắp xếp sao đây?

Còn có chuyện làm rể một tháng nữa? Đúng là cưới được vợ về không dễ dàng chút nào! Mai nghe Vinh ca nói a Hùng sướиɠ thiệt, chỉ ở một tháng. Năm đó ca ấy làm rể tới ba tháng. Chàng trai đi làm rể nhà vợ đương nhiên là rất “căng thẳng” rồi. Thời gian đó là để nhà gái xem coi tính tình, tài năng của chàng rể. Trong dân gian rất nhiều câu chuyện bi hài kể chuyện đi làm rể. Chàng rể khờ quá thì bị chê, làm biếng cũng không được, mà lanh lẹ thì nhiều khi hỏng chuyện.

Ha ha, Mai cười thầm nghĩ “Hỏng lẽ, hồi đó cha đi làm rể nhà ngoại có trục trặc gì sao mà cha rất ngán ông ngoại”. Nhà gái vẫn có quyền từ chối gả con gái mà không trả lễ nếu chàng rể không giống như bà mai nói ban đầu.

A, như vậy chuyện cô tính xin cha sửa lại nhà có thể làm được rồi, có thêm “nhân công miễn phí” mà.

– Cha, con thấy nhà mình sắp xếp lại giống nhà Đỗ lang y thuận tiện hơn?

Mai nói xong thì chạy đi lấy tấm bảng gỗ và mấy tờ giấy cô đã “nghiên cứu” vẽ sẵn mấy ngày nay. Trên đó là cách bố trí, sắp xếp mấy gian nhà. Mục đích chính là tách riêng chỗ xưởng gỗ, tiệm tạp hóa Đông Hồ ra khỏi nhà.

Cả nhà thấy cô vẽ từng ô chữ nhật trên giấy thì lạ lùng, hỏi tới lui chỗ này là xưởng gỗ, chỗ này là chuồng heo hả? Cũng tốn mất gần nửa canh giờ cả nhà mới biết sơ sơ là mai mốt sắp xếp như thế nào, ai sẽ ở đâu.

Mai “lợi dụng” cơ hội này làm riêng gian nhà cho cô. Cô thích có chỗ riêng để tắm rửa vệ sinh. Lần này cần dựng chính là gian nhà đó. Thật ra nó giống mấy nhà khác, có ba gian chính và hai chái, chỉ là nằm hơi tách biệt một chút. Sau khi dựng xong thì ngũ cô, a Cúc và cô không phải ở gian phía sau nhà chính của khách nữa. Mai mốt cô sẽ trồng mấy hàng cây mai trắng, luống cây sống đời, từ từ sẽ thành Mai viên. Mới nghĩ tới đó là cô đã thấy vui sướиɠ, thỏa mãn.

– Cô ở phòng nhỏ này được rồi, sao phải tách ra?

Ngũ cô nghe nói mình tách ra ở một gian riêng thì hơi ái ngại. Cha lại dứt khoát nói:

– Tính như vậy đi. Thợ trong xưởng, rồi khách đến đông. Muội và hai đứa con gái ở phía sau cho tiện. Phòng đó để dùng việc khác.

Vậy là việc này đã định rồi, nhờ có chuyện Hùng huynh đến làm rể, thuận lợi hơn Mai nghĩ nhiều.Chương 141: Từ gia trangNăm nay nước lên, nghe nói nhà phú hộ Từ không thuê kịp người cắt lúa. Lúc nước lên nhà họ mới cắt được một phần, hai phần còn lại chỉ có thể kéo ghe đi cắt ngọn lúa nào cao hơn thôi. Những hột lúa chín này làm thức ăn cho chim cò, rồi mọc thành lúa hoang đâu đó trên mấy chỗ đất trũng.

“Không biết có ai đặt mua ghe nữa hay không. Ở đây còn chưa nghe tin gì về chuyện thu hoạch của miệt trong. Tạm thời đóng cầm chừng một hai chiếc”. Lê tứ nghĩ tranh thủ dựng thêm gian nhà cho xong. Quan trọng hơn là cũng sửa sang nhà cửa để ra giêng làm Lễ Vu Qui cho a Cúc. Nhà cửa rộng thì thêm chỗ thoải mái cho nhà nội ngoại, đàng trai thấy cũng coi trọng con gái mình hơn.

Lễ hỏi lần này hơi vội, nhưng hai nhà đều có thành ý. Lại thêm mùa màng đã xong, mọi người trong làng đều vui vẻ nhận thêm tin vui. Không phải chỉ có nhà Lê tứ, có một nhà khác cũng đang chuẩn bị Lễ hỏi, nhà kia thì là Lễ thành thân. Năm nay nhiều gia đình cũng đến đây sanh sống, chuyện mời tân gia, cúng trời đất cũng có liên miên. Cha đã mời Dương trưởng làng, Đỗ lang y và Nguyễn bá đến tham dự. Lưu bá mẫu luôn miệng nói không nghĩ là Lễ hỏi Cúc tỷ nhanh vậy. Bá mẫu đành chờ đến lễ cưới, hết thời gian ở cử mới qua phụ nương Mai một tay.

Có nhà khác chuẩn bị Lễ vang dội và được chú ý nhất. Đó là Lễ Vu Qui của Từ tiểu thơ. Chuyện thất thu mùa lúa này không ảnh hưởng gì đến nhà phú hộ. Nhà bên đó đến đặt mua thêm một con heo của Nguyễn gia, nghe nói nhà cô bán gà vịt cũng đến mua. An ca vui vẻ cân gà, cân vịt, trói chân thành cặp rồi cùng với Nguyễn gia chở đi giao.

Mai xin nương đi theo, cô chưa bao giờ đến nhà phú hộ Từ. Lúc nghe cô nói đến xem nhà phú hộ làm sao, nhà mình cũng có thể làm theo. Nương cười lắc đầu:

– Con đúng là, nhà người ta giàu có mấy đời. Làm sao mà so bì được. Nhà mình cứ sống an lành là nương vui rồi.

“Biết đâu được, cũng không phải là không thể bằng được” Mai nghĩ bụng. Quan trọng hơn là cô không hề muốn so sánh chuyện tiền của. Cô thật sự muốn nhìn thấy cách sắp xếp mấy gian nhà. Nghe nói dựng nhà dựng cửa đều phải xem phong thủy, phải dựa theo hướng nắng hướng gió mà bố trí. Những kiến thức này thì cô không biết. Bản vẽ sắp xếp cô đang làm là theo sự thuận tiện cho người ở thôi. Nếu mình đến nhìn xem thì cũng coi như học hỏi thêm kinh nghiệm.

Con heo nhà Nguyễn bá nuôi rất khéo, mập tròn, sạch sẽ, nặng hơn một trăm cân. Nên Nguyễn bá và Tùng huynh đi theo để khiêng nó. Ghe Nguyễn gia đi trước, ghe An ca và Mai theo sau.

Đợt vừa rồi nước lên cao gần mười ngày, mấy cây tràm đước bị ngâm nước gốc rễ nhiễm bùn, phèn nhìn xơ xác. Mặt trời còn cao, Mai kéo nón lá lụp xụp, nghiêng nghêng đầu nhìn hai bên bờ. Những ngồi nhà thấp trên gò đất cao đã nhiều hơn, mấy chiếc ghe đánh cá, giăng câu lác đác trên rạch, bóng nón lá thấp thoáng.

Lúc quẹo vào con rạch dẫn đến nhà phú hộ, hai chiếc ghe bị đám bèo trôi cản lối. Nguyễn bá dùng mái chèo vớt từng đám, quăng lên bờ. Có mấy loại tôm cá thích sống trong đám bèo giật mình nhảy tủm ra khỏi, trốn mất.

An ca chạy lên phụ một đầu đòn gánh của Tùng huynh để khiêng con heo lên trên. Mai buộc ghe xong định xách gà vịt lên thì a An nói:

– Để đó, ca chạy xuống mang lên.

Từ ngày Đỗ lang y căn dặn cô không thể làm nặng mấy năm thì gân tay mới có thể phục hồi thì ở nhà không cho cô mang vác cái gì. A, cặp gà vịt cỡ bốn năm cân cũng không nặng lắm. Mai tự biết lượng sức mình chứ.

Nghe a An nhắc, cha con Nguyễn bá đều bất giác nhìn vào cánh tay nhỏ của Mai.

– Ta khiêng được.

Tùng huynh nói với a An.

– Không sao, chỉ một đoạn thôi, dù sao cũng phải đợi cân heo xong rồi mới cân gà vịt.

Ba người khiêng được một khoảng thì có một thanh niên từ nhà phú hộ ra giúp. Thế là An ca và Tùng huynh quay lại xách hết đám gà vịt đi theo. Bến ghe này nằm trong đất của phú hộ, vậy mà mất gần một khắc mới tới được cổng sau Từ gia trang. Mai không khỏi quay nhìn một vùng đất đai rộng lớn. Chỗ mấy bờ đất lớn, cây thốt nốt, cây dừa cao vυ't. Mấy gò đất thì từng nhóm cây dầu cổ thụ xanh um. Dưới ruộng trơ rơm rạ, mấy đàn chim đang líu ríu kiếm thức ăn. Mấy vũng nước đọng lại thì cá quậy đυ.c bùn. A, cái này mà lấy gàu ra tát chắc được nhiều cá tôm lắm!

Từ ngoài cổng đã nghe tiếng xôn xao phía trong. Cổng sau Từ gia trang mở rộng, gian nhà ngoài và sân nhộn nhịp người qua lại. Nhóm đàn ông thanh niên đang dựng rạp bằng thân cây tràm và lá dừa. Cổng vào được kết thành bông lá dừa trang trí rất đẹp. Rạp dựng cũng rộng, đặt được hơn mười bàn tiệc.

Nhóm đàn bà ở phía sau gần khu bếp thì vừa làm việc vừa nói chuyện rôm rả. Nhà có việc vui nên ai nấy đều vui.

– Tam thúc ơi! Ra cân heo.

Abbott & Mosley Cream CarraraTiếng người đàn ông gọi lớn. Từ trong gian nhà chính có một vị trung niên, râu dài ngang ngực bước ra. Nguyễn bá đặt con heo xuống, bước lên chào.

– Từ huynh, ta khiêng con heo đến.

– Đa tạ Nguyễn huynh, mời vào uống chén nước.

Nói rồi vị Từ quản gia dẫn đầu đi vào lương đình, là một gian sảnh xây dạng lục giác. Trên bàn tròn đã có sẵn bình trà và mấy chén sứ. Đồ dùng nhà phú hộ có khác, bình trà và chén được tráng men trắng, có hoa văn hình mây viền quanh thật xinh xắn.

Nguyễn bá và Từ quản gia hỏi thăm nhau vài câu, ba đứa nhỏ đi theo đứng phía sau lắng nghe mà không chen lời.

– Đây là con trai nhà Lê tứ, đến giao gà vịt.

An ca chắp tay chào Từ quản gia lúc nghe Nguyễn bá giới thiệu.

Mai định quan sát xem kiểu nhà Từ gia trang này có phù hợp với nhà mình hay không thì thấy An ca và Tùng huynh đã đi xuống sân để phụ giúp cân gà vịt. Mai nhìn cái cân đòn trên tay người thiếu niên ban nãy, theo sau là một lão bà hơi luống tuổi. Cái cân làm bằng sắt đúc khéo léo nên trơn nhẵn, cục đòn cân lớn cỡ mười cân.

Theo hướng dẫn của lão bà, người thanh niên cân từng cặp gà vịt. Tổng cộng được hai mươi bảy cân vịt và ba mươi sáu cân rưỡi gà. A An tính nhẩm rất nhanh, nhưng hắn không nói gì, chờ lão bà tính tính, đọc ra con số thì hắn mới gật đầu ý phải.

Lão bà lấy trong túi vải ra mấy xâu tiền, đếm đếm rồi giao cho a An. Thịt gà vịt tháng này còn rẻ, chỉ ba mươi văn một cân gà, hai mươi hai văn một cân vịt. Nhưng mà tiền quỹ lại tăng thêm mấy xâu, quá tốt rồi.

A, làm sao cân heo? Mai nhìn cái cân đòn chỉ cỡ mười cân đó. Chẳng lẽ giống như chuyện xưa, dẫn heo xuống ghe rồi cân như cân voi.

Trời, đúng là nghĩ không đâu, đương nhiên là không làm vậy. Người ta làm thịt heo rồi mới cân. Chính vì vậy nên Nguyễn bá mới tới đây. Bá ấy, Tùng huynh và An ca cùng giúp làm thịt heo. Mai hơi tránh ra xa. Cô xin phép Từ quản gia được ngồi ở lương đình nhỏ cách xa khu bếp.

Mai hiếu kỳ kín đáo quan sát khắp nơi. Từ gia trang bố trí các gian nhà đều quay mặt về hướng nam như thường thấy. Các gian liền nhau gần khép kín vây quanh cái sân trong rất rộng. Trong sân trước sau đều có mấy lương đình giống như chỗ cô đang đứng. Có lương đình rộng hơn, dạng bát giác, đặt được cái bàn tròn lớn, có chỗ thì đặt cái khung thêu bằng gỗ.

Gian nhà chính là dạng năm gian chính hai chái, nằm ở giữa, dãy đầu tiên được xây bằng tường gạch, mái ngói âm dương. Các gian còn lại nhỏ và thấp hơn, có hai gian cũng lợp mái ngói chắc là chỗ ở của Từ phú hộ và các vị công tử, tiểu thơ.

Mai bất giác nhìn thêm lần nữa hai gian nhà đó, giờ này Từ tiểu thơ chắc đang sửa soạn hành trang, các món đồ hồi môn sẽ mang theo. Còn Tương huynh, không biết đang làm gì. Cả ngày nay không thấy huynh ấy đâu cả.

Mấy gian phía sân sau thì lợp mái lá, vách một nửa xây gạch một nửa vừng lá, được dựng rất khéo léo, tề chỉnh.

Nhà mình chưa đủ tiền mua gạch ngói, cha đang đẽo cây gỗ làm cột, chặt lá dừa nước phơi khô để lợp. Hơn nữa Từ gia trang có gia đinh, thị nữ đông, đất đai rộng nên không ngại phô trương. Mai hay nghe người lớn nhắc lại chuyện giặc cướp nên cô luôn chú ý đề phòng. “Đợi mình tích trữ đủ tiền, sẽ khai hoang thêm ruộng đất, tạo thành cuộc đất riêng biệt như ở đây sẽ tính đến chuyện sửa sang thành nhà ngói sau”, Mai lẩm bẩm một mình.

Hơn một canh giờ sau thì Nguyễn bá cũng làm xong con heo, cân được tám mươi cân thịt, tính ra gần ba quan tiền. Đúng là nuôi heo rất có lời. Lúc về đến chỗ quẹo vào làng, ghe Nguyễn bá vẫn đi thẳng theo con rạch vào nhà Mai. Bá ấy nói:

– Nghe cha cháu nói muốn để nái mấy con heo, ta đến coi sao.

A, thì ra cha đã nói chuyện với Nguyễn bá rồi. Cô thực sự không nhớ được gì cách nuôi heo nái ở hiện đại. Nhưng mà kiến thức sinh vật học cũng biết chút đỉnh, hy vọng là lúc nghe Nguyễn bá hướng dẫn sẽ nhớ thêm gì đó có ích.Chương 142: Lễ hỏi A CúcCha thấy Nguyễn bá đến thì vui mừng ra chào, rồi vừa đi ra chuồng heo vừa hỏi thăm chuyện nhà cửa, mùa màng. Vĩnh ca cũng vừa về tới, Mai kéo tay a Vĩnh đi theo sau. Cha thấy cũng không nói gì. Lẽ ra con gái như cô là không được nghe mấy chuyện lai giống này nọ đâu. Nhưng mà từ ngày đi rừng về đến nay, cả nhà luôn “thầm lặng” chiều chuộng cô hơn. Mai cũng vui vẻ nhận sự chăm sóc này, nó có nghĩa là cô có thêm đặc quyền làm vài chuyện hơi bất thường một chút. Chẳng hạn như chuyện này, ha ha.

Nguyễn bá coi kỹ con heo cò và con heo bông định để nái, coi nó bao nhiêu vυ', chân có đủ khỏe không, hông có đủ rộng không. Lúc coi xong, vào nhà trên Nguyễn bá nói:

– Giống heo bông này đẻ say lắm, lứa nào cũng gần chục con. Chỉ là thịt nó mỡ nhiều, nhẹ cân hơn heo cò. Hai con này để nái cũng được. Còn con heo cò đực này sao? Nhà đệ bán Tết này hay để lại.

– Đệ tính để qua tháng hai thì làm tiệc đãi khách trong Lễ Vu Qui của con gái lớn. Lúc đó chắc cũng hơn trăm cân, thịt vừa ngon.

– Ha ha, vậy là tiệc lớn rồi! Đúng là lúc đó thịt heo vừa ngon.

Nguyễn bá cười sảng khoái nói. Đúng là không nghĩ tới mới đây mà nhà Lê tứ đã nuôi heo lớn làm thịt đãi khách cả con rồi. Những nhà nông dân khi đãi khách dù là Lễ thành thân con cái cũng ít dám quá xa xỉ, như nhà phú hộ thì sung túc không nói. Nhà ông ngoại năm rồi cũng chỉ mua cỡ một phần con heo làm tiệc.

Lê tứ không phải là người khoe khoang, nghe Nguyễn nhị nói vậy thì hơi cười, từ tốn nói.

– Bây giờ bán thì tiếc, mà để lại đến Tết năm sau thì con heo cũng già rồi, tính tới lui mới làm vậy. Nguyễn huynh chê cười rồi.

– Ta đâu có trêu chọc, nhà đệ chí thú làm ăn, vất vả cả năm nay ai cũng thấy. Mấy nhà trong làng đều khen đệ ngày tối cực nhọc. Chúng ta còn muốn theo học đây. Mình cực nhọc đổ mồi hôi kiếm ăn thì đệ lo ngại cái gì. Ta cùng tam đệ vừa lên giồng trồng khoai đậu mấy ngày nay. Còn phải tạ ơn đệ chỉ dẫn đó.

– Đệ không dám, đúng là nơi đây là đất lành. Từ ngày vào đây nhà đệ nhờ vả Lưu huynh, Nguyễn huynh rồi mọi người trong làng nữa, kiếm đủ lúa đầy bồ, quả thật mãn nguyện.

Thấy Nguyễn nhị thật lòng, Lê tứ cũng cảm thán tâm sự. Hơn năm nay ông không dám hở tay, ngày tối trên đồng, trong xưởng. Đổi lại năm nay lúa đầy bồ, nhà cha nương ở làng chài cũng không cần mua gạo từng tháng. Qua giêng gả con gái cũng có heo có gà làm tiệc đãi khách. Ông quả thật thấy thỏa mãn, vất vả hơn cũng được.

Nói chuyện một lát thì trời đã chiều, cha mời Nguyễn bá ở lại uống mấy chén rượu. Nguyễn bá nói để ông về đưa tiền cho người nhà rồi qua.

– Vậy huynh mời Nguyễn tam huynh đến luôn. Đệ chạy đi mời Lưu huynh bên kia nữa.

– Được, tắt nắng huynh đệ ta đến.

“Gầy” xong chầu nhậu tối nay, hai người chào nhau lo mấy việc còn lại trong ngày. Lê tứ mỗi ngày sau khi dứt việc ở xưởng ghe, đều đi một vòng coi sóc chỗ ủ phân, rảo quanh giồng khoai đậu, chuồng heo gà vịt. Xong xuôi thì ông mới yên tâm tắm rửa rồi cơm nước, kết thúc một ngày làm việc.

Tối hôm đó, bốn người lớn có thêm Vinh ca, Hân ca cùng ngồi bàn tròn ngoài sân lai rai nói chuyện. Đống lửa cháy lốp bốp, lập lòe. Bình ca đem cái chạc ba và bình đất đựng vỏ trái mù u ra cho mọi người xem.

– Cái này được, để dành làm đuốc cũng tốt. Dọc sông rạch hay thấy cây này, vậy mà mình không biết trái nó đốt được. Ta tranh thủ lúc chờ khách hái về xài.

Lưu bá thấy vỏ trái mù u mới à ra nói. Đúng là khi có người nào đó làm trước rồi, mình mới “à” ra, sao nó dễ vậy mà mình không biết!

Mai rủ a Phúc theo nương qua nhà Lưu bá chơi. Lưu bá mẫu ở cử, không ra ngoài nên sanh buồn chán. Thấy nương qua thì vui vẻ tiếp chuyện.

– Thím chuẩn bị xong Lễ hỏi chưa? Còn thiếu cái gì không?

Tiếp đó là hai người bắt đầu chủ đề yêu thích nhất là chuyện Lễ hỏi sắp tới của Cúc tỷ. Mai nhìn nhóc con được quấn tả đang ngủ ngon không khỏi mỉm cười. Mọi người đều gọi nhóc là tiểu Tương. Chưa gì là bị đem ra so sánh với đại Tương huynh rồi.

Tương huynh bây giờ rất được mọi người khen ngợi. Huynh ấy buôn bán ở Chợ Sông Lớn với tam Mi tỷ, làm lái đò, rồi đi chành với nhà ngoại nữa. Hai đợt đi chành trong năm nay huynh ấy mua bán giống khoai đậu, đã có tiếng tăm lắm. Bây giờ huynh ấy bận rộn thu mua đặc sản ở vùng này mang đi bán ở Long Hồ dịp Tết. Gần cuối tháng huynh ấy sẽ dông ghe lên đó.

Mai nhìn hai bộ ván nhà trên đã chất giỏ lớn, giỏ nhỏ đủ các loại khô cá, khô mực.

Thấy Mai qua, tứ Mi dừng tay sắp xếp ngoắc cô lại gần.

– Tỷ chỉ muội cách tính tiền đi, sao muội thấy giống như tính sai.

Abbott & Mosley Cream CarraraNhững người lớn, dù không học cách tính toán bài bản nhưng cũng đếm được tiền, đương nhiên là chậm và dễ sai sót. Với lại họ chỉ tính toán đơn giản vài con số cộng, trừ. Tứ Mi cũng biết được một ít, nhưng mà để tính được hết số tiền của mấy món đồ trên hai bộ ván này thì không dễ. Mình không ghi ra, rất dễ sai.

Thành ra Mai phải dùng que tre để hướng dẫn tứ Mi tính và nhớ.

– Muội qua nhà tỷ đi, tỷ sẽ chỉ cách dùng bàn tính gỗ. Để Hân ca rảnh, tỷ sẽ nhờ ca ấy làm cho muội và tam Mi tỷ một cái.

Tứ Mi nghe vậy thì vui mừng gật đầu, nhưng mà sau có tam tỷ trong này; cũng không phải tam tỷ học. Mai hơi mỉm cười tứ Mi con nít. Nếu không nói là tam Mi tỷ cần, Hân ca sẽ sốt sắng làm nhanh sao?

Lần này Cúc tỷ gả đi rồi, Lưu bá mẫu xong thời gian ở cữ chắc sẽ nôn nóng tìm mối cho tam Mi tỷ. Không biết Hân ca tính sao đây, chưa nghe nói huynh ấy có hành động gì hết, còn chờ cơ hội sao?

– Nhị ca muội đâu?

– Nhị ca chống ghe đi giăng câu rồi.

Trăng hạ tuần mới lên, đêm nay mặt trăng vẫn còn tròn, chỉ là trăng già nên ánh sáng vàng vọt buồn tênh. Mai bước ra sân nhìn bốn phía. Gió mát thổi l*иg lộng. Vũng Đông Hồ như dát vàng lấp lánh. Có mấy ngọn đèn của ghe xuồng giăng câu trên vũng. Không biết ghe nào là của Tương huynh, là chiếc ghe có ngọn đèn leo lét phía xa kia, một mình giữa mặt vũng mênh mông sao? Vài ngày nữa là Từ tiểu thơ vu quy xuất giá rồi!

Đâu có ai đem chim sáo sang sông,

Mà sao sáo vẫn sổ l*иg bay xa!

Hình như văng vẳng có tiếng gió thổi qua bụi tre vi vu nghe như tiếng sáo nỉ non, nghe như tiếng ai thở dài!

Ngày mười chín tháng mười một đúng là ngày tốt. Nắng sớm nhẹ nhàng, gió nhẹ thổi lay mấy tàu lá dừa hai bên bờ rạch. Đàng trai rộn ràng, quần áo đủ màu theo còn đường nhỏ tiến về nhà Mai.

Lúc sáng sớm, đám rước dâu trong làng đã đốt phong pháo lúc lên ghe. Tiếng pháo nổ làm nhà nhà đều vui vẻ hân hoan. Giờ lại thêm từng đoàn người chia nhau về các nhà có đám. Con nít chạy theo nhìn ngó, rồi ù chạy về nhà mình báo tin. Nước trên ruộng đã rút, dấu chân chim cò chen nhau trên đất, đoàn người La gia làm một đám cò trắng trên ruộng giựt mình ngóng cổ kêu ran, rồi rủ nhau vυ't lên trời cao.

Nhà nội Mai đã vào từ sáng hôm qua, bàn tiệc đãi khách đã sẵn sàng, cau trầu, rượu đã tề chỉnh. Mai chạy vào phòng a Cúc nói:

– Tới rồi, tới rồi.

Cô cũng không nhìn phản ứng của a Cúc mà vội ra ngoài nghe ngũ cô dặn dò gì đó. Ai nấy đều có vẻ bận rộn, ngó nghiêng.

Ông cố của cô, tức là cha của ông nội là người từ miệt trong lánh ra làng chài mấy chục năm trước. Ông cố chỉ có ông nội đi theo nên ông nội là trưởng họ của mình luôn rồi. La gia cũng tương tự vậy, bà nội La là lớn nhất trong họ, thành ra người đại diện La gia mời là trưởng làng Bình San họ Trần thay mặt đàng trai. Dương ông trưởng làng thì bận dự Lễ thành thân nhà trong làng, thành ra Lễ hỏi a Cúc cũng không nhiều người ngoài. Có Lưu bá, Lưu tam bá, Nguyễn bá đến dự.

Đàng trai cũng chỉ hơn mười người. Ngoài sáu thiếu niên bưng quả, mấy người La gia thì còn vài vị trung niên, chắc là hàng xóm hoặc nhóm thợ săn bằng hữu của La bá.

Không khí như vậy lại rất thân thiết, vui vẻ.

Lần đi rừng gặp không ít nguy hiểm, cha không khỏi áy náy với La gia chuyện mình đưa La Hùng vào nguy hiểm. Cha càng hài lòng và coi trọng tư cách Hùng huynh. Nên lần đi cùng cậu đến La gia cha đã tạ ơn rồi sau đó xin cho hai trẻ được thành thân sớm. Đây cũng coi là một cách đáp tạ ơn nghĩa. La Hùng đương nhiên là hớn hở. La gia cũng mong mau sớm có dâu có cháu, thế là mọi việc cứ thế mà nhờ Đỗ bà mai thu xếp.

Tuy là thời gian gấp gáp, Lễ La gia mang đến không qua loa mà rất chu đáo. Các mâm lễ trầu cau, rượu, bánh và hoa quả đều đủ. Phần quà cưới cho cô dâu là đôi bông tai bạc có đính đá màu đỏ nhỏ, là gia truyền của nương Hùng huynh để lại.

Xong phần lễ hai họ thì bàn chuyện lễ thành thân sắp tới. Bà nội cũng nói của hồi môn nhà gái cho cô dâu mang theo gồm 6 bộ quần áo mới và hai mươi quan tiền. Chuyện của hồi môn cho Cúc tỷ cũng không cần bàn bạc nhiều. Lúc trước La gia đã xin tặng lễ hai mươi quan, nhà mình cũng giống như vậy là được.Chương 143: Của hồi mônHôm trước mấy đứa nhỏ ngồi đếm lại tiền quỹ, chờ bán thêm gà đợt Tết này nữa thì sẽ “chia phần” của Cúc tỷ ra. A Cúc mới đầu ngại ngùng không muốn lấy, nhưng mà đâu có gì mà ngại.

– Tỷ giữ làm vốn. Mai mốt muội trồng được vườn cây rồi thì tỷ cần tiền trả cho thợ nữa chứ. Một mình tỷ làm sao khai hoang cả khu đồi được.

Nghe Mai nói vậy a Cúc mới gật đầu. Còn mấy đứa con trai lại tranh nhau hỏi chuyện khai hoang đồi làm gì? Trồng cây gì?

Chuyện này Mai chỉ nói sơ qua, cô định trồng cây ăn trái chỗ đồi cao ở Bình San. Cây ăn trái cần vài năm mới thu được trái, người trồng phải kiên nhẫn, chịu khó. Bù lại mình trồng một lần mà thu hoạch “cả đời”. Nhưng mà điều kiện quan trọng nhứt là phải có đầu ra. Vài năm nữa ở đây là thương cảng sầm uất, chắc chắn sẽ bán được. Cô cần thêm thời gian ươm giống, trồng thử. Cô tính trồng cây con ở nhà mình, khi nào số lượng kha khá sẽ đào gốc rễ mang đến La gia vẫn được.

– Nương thấy ở miệt Trấn Giang dễ trồng hơn. Cây tự nhiên lớn mà cũng sai trái.

Nương nghe chuyện chỗ La gia có thể trồng cây ăn trái, bán ra tiền kiếm sống, bớt chuyện đi săn trong rừng thì rất chú ý.

– Nương không nhớ mấy trái xoài lần trước sao, ăn ngọt hơn ở đây đó.

A An nhắc lại giỏ xoài Hùng huynh cho lúc trước. Thổ nhưỡng ở vùng đồi núi không hẳn là cằn cỗi. Chỗ đất gò cao thì trái sẽ ngọt hơn, đứa nhỏ nhà nông nào cũng biết. Giống như trái cây mùa khô thì nhỏ hơn nhưng luôn ngọt hơn so với mùa mưa.

– Ừ, nương nhớ. Mai, con nhắm trồng được không?

Mai chỉ ra vườn cây sau nhà giải thích thêm:

– Con đang thử ươm giống. Mình cần trồng một vườn lớn cả khu đất thì mới bán cho thương lái được.

Đúng rồi, nhà nông nào cũng có vài cây xoài, vài cây đu đủ hay cam, dừa. Nhưng mà nhiêu đó cây chỉ để trong nhà ăn thôi, đâu thể bán cho thương lái, không lẽ bán một rổ, hai rổ. Trồng thành một vườn lớn thật nhiều, đến mùa trái chín rồi đem đi bán thì đúng là không nghĩ ra. Người nông dân thường chỉ lo trồng cây xanh tốt, bông nhiều trái sai, họ ít nghĩ chuyện phải bán như thế nào, cho ai. Mai chỉ là “á nông dân” thôi, cô lại thường thấy chuyện buôn bán ở hiện đại, đương nhiên không bị gò bó trong suy nghĩ.

Nhắc lại chuyện của hồi môn của cô dâu nhiều khi là lớn, nhiều khi lại không lớn.

Cô dâu mới về nhà chồng đương nhiên không nắm quyền hay giữ tiền rồi. Thậm chí có nhà chồng coi cưới con dâu như người làm việc không công, như nhà chồng ngũ cô vậy. Đàn bà con gái đôi lúc cần có ít tiền riêng chi dùng, sẽ lấy từ của hồi môn.

Của này là chuyện lớn nếu mọi người nghĩ là thể diện của hai đàng. Đàng gái thì khoe ra tiền của nhà mình, con gái mình “quý giá” ra sao. Đàng trai cũng được dịp nở mày nở mặt vì thông gia sang cả.

Thành ra chuyện của hồi môn của cô dâu, quà cưới chú rể luôn là chuyện tế nhị được mọi người tìm hiểu rồi bàn tán nhất trong một cuộc hôn nhân. Đôi khi sự không hài lòng ở chuyện này sẽ thành nguyên nhân bất hòa cho đôi vợ chồng trẻ, còn cho hai nhà thông gia nữa.

Hai nhà sui gia cùng hoàn cảnh, xuất thân thì hiểu nhau rồi sẽ ít so bì. Của hồi môn cho cô dâu ít một phần so với lễ nhà trai là được.

Mai thấy cha nương đã hỏi ý kiến ông bà nội, bàn với nhau mấy ngày mới quyết định của hồi môn a Cúc là hai mươi quan. Lục cô và a Cúc xuất giá gần nhau, nhà nội cũng đang tính toán chuyện của hồi môn cho lục cô. Cha nói không thể để hai cô cháu quá chênh lệch. Nhờ chuyện đóng ghe, nhà nội cũng bán được mẻ nước mắm nên tiền cũng có. Nhưng nhà nội còn có Hân ca đến tuổi thành thân, sắp tới là thất thúc, Bảo ca nữa. Đúng là số tiền chi ra sẽ rất nhiều.

Ở đây người ta nghĩ gả con gái đi thì coi như xong, sẽ không còn liên quan. Nhưng mà như vậy đâu có đúng, máu thịt dòng họ làm sao mà dứt. Mai nghĩ chuyện của hồi môn chỉ cần vừa phải, hợp với khả năng trong nhà là được. Nếu sau này nhà mình khá giả hơn, thì sẽ cho thêm hoặc đỡ đần gì đó cũng được mà.

Hai mươi quan là số tiền không nhỏ, nhà nội đúng là lo lắng cho lục cô ở nhà chồng không tốt mới cho nhiều để hộ thân. Năm đó, ngũ cô xuất giá được cho ba quan. Chỉ là chưa đầy năm thì số tiền đó bị nhà chồng bòn rút hết. Sau đó họ còn bòn rút trực tiếp từ nhà nội luôn, thiệt là!

Lần này chuyện của hồi môn của đàng gái Lê gia và quà cưới của đàng trai La gia đều làm mọi người vui vẻ, thoải mái. Đỗ bà mai càng hoat bát. Hai nhà đều có thành ý, mọi chuyện suôn sẻ, bà coi như được thêm tiếng làm mai tốt.

Qua giờ ngọ thì tiệc xong, ngày mai Hùng huynh sẽ đến làm rể một tháng. Qua tháng hai năm sau thì huynh ấy có thể rước cô dâu về nhà rồi. Chỉ là một tháng làm rể này không phải là nhẹ nhàng thảnh thơi lắm!

Sáng hôm sau ngày Từ tiểu thơ xuất giá, Tương huynh theo nhà ngoại chống ghe đi Long Hồ buôn bán. Lúc nương qua nhà Lưu bá về thở dài nói với ngũ cô.

– Tẩu ấy cứ lo lắng không yên, khóc mắt đỏ hoe. Đang ở cữ mà, đâu thể khóc được.

Hôm trước Lưu bá mang tiền qua mua chiếc ghe lớn để Tương huynh buôn bán xung quanh vùng. Số tiền này là Lưu bá mẫu để dành cưới vợ cho Tương huynh, nay đem ra dùng thì chắc ý Tương huynh chưa muốn thành thân. Lúc đó lại sắp tới ngày Từ tiểu thơ xuất giá, Lưu bá mẫu không yên, lo sợ có chuyện. Cũng may là đã qua rồi, bây giờ huynh ấy đi xa, dần sẽ nguôi ngoai.

Buổi chiều Lưu bá qua uống với cha mấy chén rượu, gương mặt bá ấy cứ dàu dàu.

Chưa đến ngày chợ phiên cuối tháng thì cậu mợ hai đến, còn có tam tẩu và a Duyên theo nữa. Mọi người vui vẻ hỏi thăm chuyện Đông Hồ, Trấn Giang. Mợ hai cười nói với nương:

Abbott & Mosley Cream Carrara– Cô ba vui rồi, có con rể sáng láng giỏi giang như vậy!

Mợ hai là lần đầu gặp Hùng huynh, mợ có vẻ rất vừa ý. Nương thì khỏi nói rồi, vui vẻ ra mặt. A, Mai phải đổi lại gọi là tỷ phu rồi.

Nhà Mai dựng mới thêm mấy gian nhà, để kịp trước Tết cha mời thêm thúc bá đốn gỗ lúc trước đến phụ. Thành ra ai cũng thấy Hùng huynh năng nổ, nhiệt tình làm chân sai vặt, lời một đồn ba bốn. Mấy bà mấy thím trong làng cũng kiếm chuyện ghé ngang nhà cô ngắm nghía. Miệng truyền miệng, người trong làng cũng tham gia bàn tán nói con rể nhà Lê tứ khéo chọn.

Cúc tỷ mắc cỡ trốn biệt trong buồng, thành ra một mình mai tới lui nấu nước, xẻ cau mệt chết được.

Bây giờ thì tam tẩu đang ngồi trong buồng với Cúc tỷ, chắc là đang nói chuyện quần áo cưới và khăn thêu. Nương thấy La gia đơn chiếc nên có ý muốn để Cúc tỷ may luôn hai bộ đồ cưới cho chú rể. Cái này cũng không tính là quá, La bà nội chỉ cần may ba bộ cho người nhà, sẽ đỡ vất vả hơn. Hùng huynh đương nhiên là thích chí rồi. Nương nói hôm trước, hôm sau huynh ấy đã mang vải tới, mang luôn vải làm khăn vấn đầu nữa. Xem ra từ giờ đến hết tháng giêng Cúc tỷ rất bận rộn.

Buổi chiều ăn cơm xong, cậu hai nói mấy chuyện ở nhà ngoại. Đặc biệt chuyện thương tích của dượng năm, thật không nhẹ. Đùi bị cắn trọng thương, một cẳng tay bị gẫy mất. Dì năm khóc cạn nước mắt rồi thì đưa về nhà ngoại chăm sóc. Năm người cùng đi chỉ có ba người còn sống quay về. Hộ vệ Trần gia một người bị cắn nát xương chân, vẫn còn hôn mê.

– Phải đợi dượng ấy khỏe mới tính chuyện sau này. Mấy món định bán dịp Tết này đều để lại nhà trong làng mua giúp. Dù sao cũng sẽ khỏe lại, không vội.

Lần này nhà ngoại còn mua mấy xấp vải tốt để nhà Mai chuẩn bị may đồ Tết, đồ mặc ngày gả a Cúc. Mợ hai biết Mai thích uống nước thơm pha mật ong nên hái theo hơn chục trái thơm lớn, đã chín. Lúc cô bưng mấy chén nước ép thơm lên thì thấy Mợ hai nhét vô tay a Cúc một gói vải, nói:

– Cái này là ông bà ngoại cho cháu làm của hồi môn. Hôm Lễ hỏi nhà ngoại không đến được. Mai mốt Lễ Vu qui sẽ đến.

– Dạ, …

Cúc tỷ ngại ngần chưa chịu nhận. Cậu hai nói:

– Cháu nhận đi,

– Con tạ ơn ông bà ngoại với cậu mợ đi.

Ý cha lên tiếng vậy là coi như nhận rồi. Người lớn quay sang nói chuyện sắp xếp Lễ Vu qui sắp tới. Nên mua rượu, trầu cau ở đâu, mời khách những ai. A Duyên kéo tay Mai nói:

– Cơ ca nói gà vịt lớn hết rồi, làm sao bán đây?

Ha, thì ra a Cơ, a Duyên cũng thích kiếm tiền. Tụi nhỏ thì cũng có lo lắng của tụi nhỏ.

– Ở đây, nhà muội đi Chợ Sông Lớn Giang Thành bán. Trên đó, Hữu ca, Cơ ca chịu cực chống ghe lên chợ ở trấn bán được không? Gần Tết rất nhiều nhà muốn mua.

A, còn cách nữa, mai chợt nhớ đến một nơi có thể bán được nhiều gà vịt.

– Cậu, tụi con đem gà vịt qua chỗ bến ghe thương lái bán được không?

Ở đó khách thương lái mua nhiều, nếu họ mua được cả đàn gà vịt nhà ngoại và nhà cô càng tốt. Đúng rồi, nghe tới đó An ca hớn hở nói:

– Nhà con bán chung luôn, đàn vịt gần 300 con rồi, kiếm thức ăn không dễ.

Qua mùa mưa, thức ăn cho đàn vịt lớn trở thành chuyện rất mệt nhọc. Ngũ cô cả ngày vớt bèo, cắt cây chuối cho đàn vịt ăn thêm. A Phúc thì lo bắt ốc, bắt còng. Để bọn chúng thiếu ăn sẽ xuống sức, đẻ hột ít mà cũng ốm đi.

– Để cậu về rồi lên đó hỏi thử coi sao.

Đem gà vịt đi xa mà cột chân thì tụi nó mất sức, gầy teo sao bán được giá. Mai nhờ nương đan thử cái l*иg tre, lúc trên ghe chỉ cần ụp bọn nó lại, vẫn cho ăn uống đều đặn như thường.

Chuyện nọ tiếp chuyện kia, xem ra phải bắt đầu đóng cái ghe đáy rộng rồi. Chuyện cái ghe đáy bằng này chiếm hết tâm trí của Mai mấy ngày sau đó. Cô miệt mài vẽ rồi xóa, lấy mấy miếng gỗ mỏng ghép thử tới lui.