FRANK CHẲNG NHỚ GÌ NHIỀU VỀ tang lễ. Nhưng cậu vẫn còn nhớ những giờ trước đó – khi bà ngoại đi ra sân sau và tìm thấy cậu đang bắn tên vào bộ sưu tập gốm sứ của bà.
Nhà bà ngoại là một biệt thự buồn tẻ xây bằng đá xám rộng mười hai mẫu ở Bắc Vancouver. Sân sau của bà chạy thẳng vào Công viên Lynn Canyon.
Buổi sáng hôm đó lạnh và có mưa phùn, nhưng Frank chẳng cảm nhận được sự lạnh giá. Cậu mặc một bộ vest len đen và áo bành-tô đen từng thuộc về ông ngoại cậu. Trước đấy, Frank đã giật mình và buồn rầu vì nhận ra rằng chúng vừa vặn với mình. Bộ quần áo có mùi như mùi băng phiến ướt và hoa nhài. Lớp vải hơi ngứa nhưng ấm áp. Với cung tên và ống đựng tên, chắc cậu không khác một người quản gia cực kỳ lợi hại là mấy.
Cậu chất ít đồ gốm của bà ngoại vào xe đẩy và bê nó ra sân sau, nơi cậu xếp chúng thành bia bắn trên các cột gỗ cũ ở rìa khu đất. Cậu đã bắn tên được một lúc lâu, các ngón tay đã bắt đầu mất cảm giác. Cứ mỗi mũi tên, Frank lại tưởng tượng rằng cậu đang giải quyết các rắc rối của chính mình.
Những tên bắn tỉa ở Afghanistan. Bụp. Một bình trà vỡ tan tành khi một mũi tên xuyên qua giữa bình.
Huân chương anh dũng hy sinh, một miếng bạc tròn dẹt gắn vào một dải ruy băng đỏ-đen, được truy tặng vì đã tử trận trong lúc làm nhiệm vụ và trao lại cho Frank như thể đó là một vật quan trọng, vật khiến mọi việc đều trở nên đâu vào đấy. Thụp. Một tách trà ghim chặt vào mặt gỗ.
Viên sĩ quan đã đến để nói với cậu rằng: “Mẹ cậu là một anh hùng. Đại úy Emily Trương đã hy sinh khi đang cố giải cứu đồng đội.” Rắc. Một cái đĩa xanh-trắng vỡ thành từng mảnh.
Hình phạt của bà ngoại cậu: Đàn ông không được khóc. Đặc biệt là những người đàn ông họ Trương. Fai à, cháu sẽ phải chịu đựng.
Chỉ có bà ngoại gọi cậu là Fai
Frank là cái kiểu tên gì mới được? bà sẽ rầy la như thế. Đó không phải là tên Trung Quốc.
Cháu có phải là người Trung Quốc đâu, nghĩ vậy nhưng Frank không dám nói ra. Nhiều năm trước, mẹ cậu từng nói: Đừng cãi lời bà ngoại con. Việc đó sau này chỉ làm cho con đau khổ hơn thôi. Mẹ đã đúng. Và giờ Frank không còn người thân nào khác ngoài bà.
Thịch. Mũi tên thứ tư cắm vào hàng rào gỗ và cắm chặt ở đó, rung rung.
“Fai,” bà ngoại gọi cậu.
Frank quay người lại.
Bà đang nắm chặt một cái hộp gỗ gụ to cỡ hộp đựng giày mà Frank chưa nhìn thấy bao giờ. Với bộ váy đen cổ cao và búi tóc bạc giản dị, bà trông giống một cô giáo của thập niên 80.
Bà quan sát bãi chiến trường: đồ gốm sứ trong xe đẩy, mảnh vỡ của bộ đồ trà mà bà yêu thích nằm tán loạn khắp mặt cỏ, những mũi tên của Frank cắm lỗ chỗ dưới đất, trên các thân cây, các cột hàng rào, và một mũi tên cắm vào đầu tượng thần lùn giữ của đang mỉm cười.
Frank nghĩ rằng bà sẽ la mắng hoặc dùng cái hộp đánh mình. Câu chưa bao giờ gây ra chuyện gì tệ hại như lần này, cũng chưa một lần giận quá mất khôn.
Vẻ mặt bà cậu đầy đau khổ lẫn chê trách. Bà chẳng giống mẹ Frank chút nào. Cậu tự hỏi làm sao tính tình mẹ mình lại có thể trở nên dễ chịu như thế – luôn cười vui vẻ, luôn dịu dàng. Frank không tưởng tượng ra được cảnh mẹ lớn lên cùng bà ngoại nhiều hơn cảnh bà xông pha trên chiến trường là mấy – mặc dù hai tình huống chắc là hoàn toàn khác nhau.
Cậu chờ đợi bà ngoại nổi giận. Có thể cậu sẽ bị cấm túc và không đến được lễ tang. Cậu muốn làm bà đau khổ vì lúc nào cũng quá xấu tính, vì đã để mẹ cậu tử trận, vì đã la rầy buộc cậu phải vượt qua chuyện này. Tất cả những gì bà quan tâm là bộ sưu tập ngớ ngẩn của bà.
“Ngừng ngay hành vi lố bịch này đi,” bà nói. Giọng bà nghe chẳng tức tối chút nào. “Việc đó hạ thấp phẩm giá của cháu.”
Với sự ngạc nhiên của Frank, bà đá một trong số những tách trà yêu thích của mình sang bên.
“Xe sẽ sớm đến đây,” bà nói. “Chúng ta cần nói chuyện.”
Frank ngẩn người. Cậu nhìn kỹ cái hộp gỗ gụ hơn. Trong khoảnh khắc kinh sợ, cậu tự hỏi có phải trong đấy chứa tro của mẹ mình không, nhưng đó là điều không thể nào. Ngoại đã nói với cậu rằng sẽ có nghi thức an táng theo kiểu quân đội. Vậy thì sao bà ngoại lại cầm cái hộp cẩn thận thế kia, như thể thứ được chứa bên trong khiến bà đau buồn?
“Vào nhà đi cháu,” bà nói. Rồi chẳng cần đợi xem cậu có đi theo hay không, bà quay người và đi về phía ngôi nhà.
Trong phòng khách, Frank ngồi trên ghế sofa nhung, xung quanh là các bức ảnh gia đình kiểu cũ, các bình sứ còn to hơn xe đẩy của cậu và các bức tranh thư pháp màu đỏ. Frank không biết nghĩa những từ thư pháp đó. Cậu chưa bao giờ có hứng thú học chúng lắm. Cậu cũng chẳng biết hết mọi người trong các bức ảnh.
Bất cứ khi nào bà ngoại bắt đầu thuyết giảng về tổ tiên cho cậu nghe – chuyện họ đã đi khỏi Trung Quốc, sau đó kinh doanh xuất nhập khẩu thành công và trở thành một trong số các gia tộc người Hoa giàu có nhất Vancouver như thế nào – ừm, chuyện đó khá nhàm. Frank là thế hệ người Canada thứ tư. Cậu không quan tâm đến cố hương và mớ đồ cổ mốc meo cũ kỹ đó. Từ tiếng Hoa duy nhất cậu nhận biết được là họ của mình: Trương. Bậc thầy cung thủ. Chỉ vì nghĩa của nó thật bảnh.
Bà ngoại ngồi kế bên cậu, dáng ngồi của bà cứng nhắc, hai tay chắp lại phía trên cái hộp.
“Mẹ cháu muốn cháu nhận cái này,” bà miễn cưỡng nói. “Mẹ cháu đã giữ nó từ khi cháu hãy còn đỏ hỏn. Khi con bé lên đường đi chiến đấu, nó đã tin tưởng trao nó cho ta. Nhưng giờ nó đã mất rồi. Và cháu sẽ sớm ra đi thôi.”
Dạ dày Frank nhói đau. “Ra đi? Đi đâu ạ?”
“Ta già rồi,” bà ngoại nói, cứ như đây là một thông báo gây ngạc nhiên. “Không sớm thì muộn rồi ta cũng về với tổ tiên thôi. Ta không thể dạy cho cháu các kỹ năng mà sau này cháu sẽ cần, và ta không đảm trách gánh nặng này mãi được. Nếu có chuyện gì đó với nó, ta sẽ không bao giờ tha thứ cho mình. Cháu sẽ chết.”
Frank không chắc là mình có nghe rõ lời bà không. Bà ngoại nói cứ như thể cuộc đời cậu phụ thuộc vào cái hộp này ấy. Cậu băn khoăn vì sao trước đây mình chưa từng thấy nó. Bà ắt đã khoá nó lại trên gác mái – căn phòng duy nhất mà Frank bị cấm đến gần. Bà thường nói bà cất giữ những vật quý giá nhất của mình ở trên đó.
Bà đưa cái hộp cho cậu. Tay run run, cậu mở nắp hộp ra. Bên trong, được đặt trong lớp vải lót bằng nhung, là một thứ gây kinh hãi, thay đổi cuộc đời, vô cùng quan trọng… một mẩu gỗ.
Nó trông giống một mẩu gỗ dạt – cứng và nhẵn nhụi, được chạm trổ thành một vật có hình gợn sóng. Nó to bằng một cái điều khiển tivi. Phần đầu ám đen. Frank chạm vào phần đã bị đốt cháy. Vẫn còn cảm giác âm ấm. Tàn tro để lại một vết nhọ đen trên ngón tay cậu.
“Nó là một que củi,” cậu nói. Cậu không thể đoán ra vì sao bà ngoại lại tỏ ra căng thẳng và nghiêm trọng đến vậy.
Hai mắt bà bừng sáng. “Fai, cháu biết các lời tiên tri chứ? Cháu có biết gì về các vị thần không?”
Các câu hỏi làm cậu thấy không thoải mái. Cậu nghĩ đến những tượng thần bất tử Trung Quốc bằng vàng ngớ ngẩn của bà ngoại, sự mê tín của bà về việc đặt đồ đạc trong nhà ở những nơi cụ thể nào đó và việc tránh những con số xui xẻo. Các lời tiên tri khiến cậu liên tưởng đến món bánh may mắn, mặc dù món ấy không phải là của người Hoa – không hẳn – nhưng đám trẻ hay bắt nạt ở trường đã trêu chọc cậu về những thứ ngu ngốc đại loại như: Khổng Tử nói rằng… hết thảy cái mớ vớ vẩn đó. Thậm chí Frank còn chưa đặt chân đến Trung Quốc lần nào. Cậu chẳng muốn dính líu gì đến xứ sở đó. Nhưng dĩ nhiên, bà ngoại không muốn nghe cậu nói vậy.
“Một ít thôi ngoại à,” cậu nói. “Không nhiều lắm.”
“Phần lớn mọi người đều đã chế giễu câu chuyện của mẹ cháu,” bà nói. “Nhưng ta thì không. Ta biết các lời tiên tri và các vị thần. Các vị thần Hy Lạp, La Mã, Trung Quốc – họ có liên quan mật thiết đến gia tộc chúng ta. Ta không chút nghi ngờ những gì mẹ cháu đã nói với ta về cha cháu.”
“Khoan đã… chuyện gì
“Cha cháu là một vị thần,” bà thẳng thắn nói.
Nếu bà ngoại là người có khiếu hài hước, Frank hẳn đã nghĩ bà đang nói đùa. Nhưng bà ngoại chưa bao giờ biết đùa. Liệu bà có mắc chứng lão suy không nhỉ?
“Đừng có há hốc miệng nhìn ta!” bà gắt. “Ta chưa lẫn đâu. Đã bao giờ cháu thắc mắc sao cha cháu không về đây lấy một lần chưa?”
“Ông ấy…” Frank ngập ngừng. Việc mẹ mất đã đủ đau khổ rồi. Cậu không muốn nghĩ thêm về cha mình nữa. “Ông ấy là quân nhân, như mẹ vậy. Ông đã mất tích trong lúc chiến đấu. Ở Iraq.”
“Hừ. Ông ấy là một vị thần. Ông ấy yêu mẹ cháu vì mẹ cháu là một chiến binh bẩm sinh. Mẹ cháu cũng giống như ta – mạnh mẽ, dũng cảm, tốt bụng, xinh đẹp.”
Mạnh mẽ và dũng cảm, Frank có thể tin điều đó. Việc hình dung ra bà ngoại tốt bụng hay xinh đẹp thì có khó hơn.
Tuy vẫn nghi ngờ điều này là do bà bị mất bộ sưu tập đồ bằng cẩm thạch nhưng cậu vẫn hỏi, “Là vị thần nào ạ?”
“La Mã,” bà nói. “Ngoài ra ta không biết gì hơn. Mẹ con không nói gì cả, hoặc có thể bản thân nó cũng không biết. Căn cứ vào gia tộc chúng ta, chẳng có gì ngạc nhiên khi một vị thần yêu mẹ con. Ông ấy ắt biết mẹ con có dòng máu cổ xưa.”
“Khoan đã bà… chúng ta là người Hoa cơ mà. Sao các vị thần La Mã lại muốn hẹn hò với những người Canada gốc Hoa cơ chứ?”
Hai lỗ mũi bà ngoại phồng lên. “Nếu cháu thấy phiền khi học lịch sử gia tộc, thì Fai, cháu phải biết điều này. Trung Quốc và La Mã không khác nhau nhiều lắm, cũng không tách biệt như cháu hằng tin. Gia tộc chúng ta phát xuất từ tỉnh Cam Túc, một thị trấn từng được gọi là Li-Jien. Và trước đó… như ta đã nói, dòng máu cổ xưa. Dòng dõi của các hoàng tử và các anh hùng.”
Frank chỉ biết trân mắt nhìn bà.
Bà bực bội thở dài. “Những lời của ta cứ như nước đổ đầu vịt ấy! Cháu sẽ biết được sự thật khi cháu đến trại. Có thể cha cháu sẽ thừa nhận cháu. Nhưng hiện tại, ta phải giải thích vụ mẩu củi này cho cháu.”
Bà chỉ về phía lò sưởi lớn bằng đá. “Không lâu sau khi cháu được sinh ra, một vị khách đã xuất hiện trong lò sưởi của chúng ta. Lúc ấy mẹ cháu và ta đang ngồi trên chiếc ghế đi-văng ở đây, ngay nơi cháu và ta ngồi bây giờ. Cháu thì nhỏ xíu, được bọc trong mền màu xanh dương, và mẹ cháu đang bế cháu trên tay.”
Chuyện đó nghe như một ký ức ngọt ngào, nhưng bà ngoại cậu lại kể bằng giọng cay đắng, như thể bà đã biết, ngay từ lúc đó, rằng Frank sẽ trở thành một đứa ngốc lớn xác vụng về.
“Một phụ nữ hiện ra trong ngọn lửa,” bà nói tiếp. “Bà ta là một người đàn bà da trắng – mặc trang phục bằng lụa màu xanh dương và khoác một chiếc áo choàng kỳ lạ giống da một con dê.”
“Một con dê,” Frank lặng người.
Bà ngoại cậu cau có. “Đúng thế, rửa tai cháu mà nghe đây, Fai Trương! Ta quá già để kể lại từng chuyện đến hai lần! Người đàn bà với tấm da dê đó là một nữ thần. Ta có thể nói đi nói lại những điều này. Bà ta mỉm cười với đứa bé – với cháu đấy – và bà ta bảo với mẹ cháu, bằng một giọng Quan Thoại thật chuẩn, không hơn không kém: ‘Nó sẽ là người khép lại vòng tròn. Nó sẽ đưa gia tộc các ngươi trở về với nguồn cội và mang đến cho các ngươi vinh dự to lớn.’”
Bà ngoại khịt mũi. “Ta không tranh cãi với các nữ thần, nhưng có lẽ người đó đã không nhìn thấy tương lai rõ ràng cho lắm. Dù có là gì thì bà ta cũng đã nói thế này, ‘Đứa bé sẽ đến trại và khôi phục danh tiếng của các ngươi ở đó. Nó sẽ giải thoát Thanatos ra khỏi xiềng xích băng giá…”
“Khoan đã ngoại, ai ạ?”
“Thanatos,” bà ngoại cậu kiên nhẫn lặp lại. “Tên Hy Lạp của Tử Thần. Giờ liệu ta có thể tiếp tục mà không bị ngắt lời nữa không? Nữ thần nói, ‘Dòng máu của Pylos chảy mạnh mẽ hơn trong đứa trẻ này từ phía người mẹ. Đứa bé sẽ có được món quà của dòng họ Trương, đồng thời cũng sẽ kế thừa các sức mạnh từ cha nó.’”
Bỗng nhiên lịch sử gia tộc của Frank dường như không còn nhàm chán nữa. Cậu vô cùng muốn hỏi câu đó có nghĩa là gì – sức mạnh, món quà, dòng máu của Pylos. Cái trại kia là thế nào, và cha cậu là ai? Nhưng cậu không đị cắt ngang lời bà ngoại lần nữa. Cậu muốn bà tiếp tục kể.
“Không có sức mạnh nào xuất hiện mà không phải trả giá, Fai à,” bà nói. “Trước khi nữ thần đó biến mất, bà ta đã chỉ vào ngọn lửa và nói, ‘Thằng bé sẽ là người mạnh nhất trong gia tộc các ngươi, và là người vĩ đại nhất. Nhưng Ba nữ Thần Mệnh cũng đã vạch rõ rằng nó cũng sẽ là người dễ gặp nguy hiểm nhất. Cuộc đời nó sẽ chói sáng và ngắn ngủi. Ngay khi mẩu gỗ đó cháy hết – cái que củi ở rìa ngọn lửa kia kìa – con trai ngươi được định là sẽ chết.’”
Frank gần như không thể thở nổi. Cậu nhìn cái hộp trong lòng mình và vết tro trên ngón tay cậu. Câu chuyện nghe khá buồn cười, nhưng đột nhiên mẩu gỗ dạt trong tay cậu dường như đáng sợ hơn, lạnh lẽo hơn và nặng nề hơn. “Đây… đây…”
“Đúng thế, thằng cháu ngốc của ta,” bà ngoại nói. “Vật này chính là mẩu gỗ đó. Khi nữ thần biến mất, ta đã chộp ngay lấy nó đem ra khỏi lò lửa. Từ bấy đến nay, chúng ta đã cất giữ nó.”
“Nếu nó cháy hết, cháu sẽ chết sao?”
“Điều đó chẳng lạ lẫm gì cho lắm,” bà ngoại nói tiếp. “La Mã, Trung Quốc là như thế – nơi số phận của con người thường được dự báo trước và đôi khi còn có thể ngăn ngừa được kiếp nạn. Ít nhất là trong một thời gian. Giờ mẩu củi này thuộc về cháu. Hãy giữ nó cẩn thận. Chừng nào nó còn an toàn thì cháu sẽ vẫn bình an vô sự.”
Frank lắc đầu. Cậu muốn cãi lại rằng đó chỉ là một truyền thuyết ngớ ngẩn. Có khi bà ngoại đang cố hù cậu sợ vì tội làm vỡ đồ sứ của bà.
Nhưng ánh mắt bà có vẻ ngang ngạnh. Dường như bà đang thách thức Frank: Nếu cháu không tin, đốt nó đi.
Frank đóng nắp hộp lại. “Nếu dễ gặp rủi ro như vậy, sao không đóng kín nó lại bằng thứ gì đó không cháy như nhựa hoặc thép ạ? Sao không đặt nó vào trong két ký gửi an toàn hả bà?”
“Chuyện gì sẽ xảy ra,” bà ngoại băn khoăn, “nếu chúng ta bao bọc mẩu gỗ bằng một loại vật chất nào đó. Cả cháu nữa, liệu cháu có bị ngạt thở không? Ta không biết. Mẹ cháu sẽ không mạo hiểm. Con bé không dám rời xa cái que, vì sợ sẽ có chuyện xấu xảy ra. Cướp ngân hàng. Cháy nhà. Những việc kỳ lạ sẽ phát sinh khi một người nào đó cố lừa gạt số mệnhon cho rằng cái que đó sẽ an toàn hơn trong sự bảo vệ của nó, cho đến khi nó lên đường đi chiến đấu. Rồi nó trao nó cho ta.”
Bà ngoại cáu kỉnh thở dài. “Emily thật dại dột khi đi ra chiến trận, mặc dù ta vẫn đinh ninh mình luôn biết đó là định mệnh của con bé. Nó hy vọng được gặp lại cha con lần nữa.”
“Mẹ nghĩ… mẹ nghĩ là ông ấy sẽ ở Afghanistan sao?”
Bà ngoại dang hai tay ra, như thể điều đó vượt quá sự hiểu biết của bà. “Nó cứ vậy mà đi. Và đã hy sinh thật anh dũng. Nó đã nghĩ rằng món quà của gia tộc sẽ bảo vệ nó. Chắc chắn nhờ thế nó đã cứu được những người lính đó. Nhưng món quà ấy sẽ không bao giờ bảo hộ cho gia tộc chúng ta. Nó đã chẳng giúp gì cho cha ta, hay cha ông ấy. Cả với ta nữa. Giờ thì cháu sắp sửa trưởng thành rồi. Cháu phải đi theo con đường đó.”
“Nhưng… là con đường nào ạ? Món quà của chúng ta là gì – thuật bắn cung sao?”
“Cháu và cái thuật bắn cung của cháu! Thằng nhóc ngốc nghếch này. Cháu sẽ sớm tìm ra thôi. Tối nay, sau lễ tang, cháu sẽ phải đi về phía nam. Mẹ cháu đã nói nếu như nó không trở về, Lupa sẽ phái người đưa tin đến. Họ sẽ hộ tống cháu đến nơi mà con cái của các vị thần được huấn luyện cho số phận của chúng.”
Frank có cảm giác như thể mình đang bị tên bắn vào người, trái tim cậu tan thành những mảnh sứ nhỏ. Cậu vẫn chưa tỏ lời của ngoại lắm, nhưng có một điều rõ ràng là: bà đang đá cậu ra khỏi nhà.
“Bà cứ thế để cháu đi sao?” cậu hỏi. “Người cuối cùng trong gia đình bà ấy?”
Miệng bà ngoại cậu run run. Đôi mắt bà trông rơm rớm. Frank choáng váng khi nhận ra bà mình suýt bật khóc. Nhiều năm trước đây, bà đã mất đi chồng mình, rồi đến con gái, và giờ bà sắp phải đuổi đứa cháu trai độc nhất của mình rời đi. Nhưng bà đứng dậy khỏi đi-văng và đứng thẳng người, dáng điệu của bà cứng nhắc và đúng tư thế như mọi khi.
“Khi đến trại,” bà dặn dò, “cháu phải nói chuyện riêng với pháp quan. Nói với cô ta rằng ông cố của cháu là Shen Lun. Chuyện ở San Francisco cũng đã qua lâu rồi. Hy vọng họ sẽ không lấy mạng cháu vì những gì ông cháu đã làm, nhưng cháu phải cầu xin họ tha thứ cho những hành vi của ông ấy.
“Chuyện này càng nghe càng hấp dẫn đây,” Frank lầm bầm.
“Nữ thần từng nói cháu sẽ mang gia tộc chúng ta quay trở lại điểm xuất phát.” Giọng bà ngoại cậu chẳng có lấy chút thương cảm nào. “Bà ta đã chọn sẵn đường đi cho cháu nhiều năm rồi, và nó sẽ không dễ dàng gì đâu. Nhưng giờ là thời gian dành cho tang lễ. Chúng ta còn có các nghĩa vụ. Đi nào. Hẳn là xe đang đợi.”
Tang lễ đối với Frank mà nói là một ký ức mờ nhạt: những khuôn mặt nghiêm nghị, tiếng mưa rơi tí tách trên tấm vải bạt che phủ khoảng trống bao quanh ngôi mộ, tiếng kêu răng rắc từ súng trường của hàng lính danh dự, hình ảnh quan tài chìm dần vào trong lòng đất.
Đêm đó, những con sói đến. Chúng tru lên ở mái hiên trước. Frank đi ra ngoài để gặp chúng. Cậu cầm lấy túi du lịch, những bộ quần áo ấm nhất, cung và ống tên của mình. Huân chương anh dũng hy sinh của mẹ được nhét vào túi du lịch. Mẩu củi than được bọc cẩn thận bằng ba lớp vải trong túi áo khoác, liền kề với tim cậu.
Cuộc hành trình đi về phía nam của cậu bắt đầu – đến Nhà Sói ở Sonoma, và cuối cùng là đến Trại Jupiter, nơi cậu nói chuyện riêng với Reyna như bà ngoại đã căn dặn. Cậu cầu xin sự tha thứ cho người cố mà cậu chẳng hề biết chút gì về người đó. Reyna đã cho phép cậu gia nhập quân đoàn. Cô chưa bao giờ kể cho cậu nghe về việc mà ông cố cậu đã làm, nhưng chắc chắn cô biết rõ ngọn ngành câu chuyện. Frank có thể khẳng định đó là một việc chẳng hay ho gì.
“Tôi đánh giá mọi người dựa trên công lao,” Reyna đã nói với cậu như thế. “Nhưng không được nhắc đến cái tên Shen Lun với bất cứ người nào khác. Nó phải là bí mật của chúng ta, nếu không cậu sẽ bị đối xử tệ bạc đấy.”
Rủi là, Frank đã không giành được công lao nào. Tháng đầu tiên ở trại đã trôi qua với việc đánh đổ các hàng binh khí, làm hỏng xe ngựa và làm vướng chân cả đội khi họ hành quân. Công việc yêu thích của cậu là chăm sóc cho chú voi Hannibal, nhưng cậu cũng đã làm rối tung chuyện đó – bằng cách làm con Hannibal mắc chứng khó tiêu vì cho nó ăn đậu phộng. Ai mà biết voi lại không tiêu hóa được đậu phộng cơ chứ? Frank đoán lúc này Reyna đang hối tiếc với quyết định cho cậu gia nhập quân đoàn.
Mỗi ngày cậu đều thức dậy và tự hỏi, liệu có khi nào que củi sẽ bắt lửa và bốc cháy, để rồi cậu sẽcõi đời này không.
Tất cả những điều đó lần lượt hiện ra trong đầu Frank khi cậu đi cùng Hazel và Percy đến tham gia trò chơi đánh trận. Cậu nghĩ về que củi được giấu bên trong túi áo khoác, và việc nữ thần Juno xuất hiện ở trại là có ý gì. Cậu sắp chết sao? Hy vọng là không. Cậu vẫn chưa mang lại danh tiếng gì cho gia tộc – chắc chắn thế rồi. Có thể hôm nay thần Apollo sẽ thừa nhận cậu, đồng thời giải thích cho cậu về sức mạnh và món quà cậu có.
Trước khi họ ra khỏi trại, Đội quân Số Năm đã xếp thành hai hàng phía sau các đội trưởng của họ, Dakota và Gwen. Họ hành quân về phía bắc, đi men theo rìa thành phố và thẳng tiến về phía Cánh đồng Thần Mars – phần rộng lớn nhất và bằng phẳng nhất trong thung lũng. Cỏ ngắn ngủn vì đàn kỳ lân, bò và các thần nông vô gia cư đã gặm trụi nơi đây. Mặt đất lỗ chỗ hố bom và chi chít những đường hào có từ các trận đánh trước đây. Ở phía bắc, cuối cánh đồng, mục tiêu của họ lừng lững án ngữ. Các công binh đã xây một pháo đài bằng đá với các khung lưới bằng sắt, các tháp canh, máy bắn tên, súng phun nước, và không nghi ngờ gì là còn có vô số những ngạc nhiên gây khó chịu dành cho lính phòng ngự sử dụng.
“Hôm nay họ đã làm rất chu đáo,” Hazel lưu ý. “Điều đó không may với chúng ta.”
“Chờ đã,” Percy nói. “Ý em là pháo đài được xây trong hôm nay sao?”
Hazel cười toe toét. “Các binh lính được huấn luyện cho việc xây dựng. Trong tình huống bắt buộc, chúng ta có thể đập hết toàn bộ trại và xây dựng lại nó ở một nơi khác. Việc này có thể mất ba bốn ngày, nhưng điều đó là khả thi.”
“Đừng nên làm thế,” Percy nói. “Vậy là mỗi đêm bọn em lại tấn công một pháo đài khác nhau sao?”
“Không phải đêm nào cũng vậy,” Frank nói. “Bọn tớ có các bài tập huấn luyện khác nhau. Đôi khi là trò ‘banh chết’ – ừm, giống như là trò súng bắn sơn ấy, ngoại trừ… cậu biết đó, chất độc, axit và các quả banh lửa. Thỉnh thoảng bọn tớ tổ chức thi đua xe ngựa và đấu kiếm, cũng có khi là các trò chơi đánh trận.”
Hazel chỉ về phía pháo đài. “Đâu đó bên trong, Đội quân Số Một và Số Hai đang cất giấu các lá cờ của họ. Nhiệm vụ của chúng ta là vào trong đấy và đoạt chúng mà không bị đánh bại. Hoàn thành nhiệm vụ, chúng ta sẽ thắng
Đôi mắt Percy bừng sáng. “Giống trò cướp cờ. Anh nghĩ anh thích chơi trò cướp cờ.”
Frank cười lớn. “Phải rồi, ừm… nói nghe thì tưởng dễ nhưng thật ra không phải vậy đâu. Chúng ta phải vượt qua đám máy bắn tên và súng phun nước trên tường thành, chiến đấu và mở đường vào trong pháo đài, tìm các lá cờ, đánh bại lính gác, trong khi đó vẫn phải bảo vệ cờ và đội của chính chúng ta để tránh bị đánh cắp cờ. Và đội chúng ta phải cạnh tranh với hai đội cũng làm nhiệm vụ tấn công khác. Kiểu như ta với họ phải làm việc cùng nhau, nhưng thật sự thì không phải thế. Đội nào đoạt được các lá cờ sẽ gặt hái hết vinh quang.”
Percy suýt vấp ngã, sau đó cố đi đúng với nhịp bước đều trái-phải. Frank thông cảm. Cậu đã từng bị vậy trong suốt hai tuần đầu tiên.
“Dù vậy, sao chúng ta lại luyện tập chuyện này chứ?” Percy hỏi. “Các cậu đã dành nhiều thời gian bao vây để củng cố các thành phố ư?”
“Làm việc theo nhóm,” Hazel nói. “Nghĩ thật nhanh. Mưu kế. Các kỹ năng chiến đấu. Những gì anh học được trong các trò chơi đánh trận sẽ làm anh ngạc nhiên cho xem.”
“Như việc ai sẽ đâm sau lưng cậu,” Frank nói.
“Đặc biệt là vụ đó,” Hazel đồng ý.
Họ hành quân ra giữa Cánh đồng Thần Mars và các binh lính dàn thành hàng. Đội quân Số Ba và Số Bốn tập hợp cách Số Năm càng xa càng tốt. Các đội trưởng của phe tấn công tập trung lại bàn bạc kế sách. Trên đầu họ, Reyna bay vòng vòng trên con pegasus của mình, Scipio, tư thế sẵn sàng với vai trò trọng tài. Đằng sau cô ta, sáu con đại bàng khổng lồ bay theo đội hình – chuẩn bị tốt cho nhiệm vụ xe cứu thương trên không nếu cần. Người duy nhất không tham gia vào trò chơi là Nico di Angelo, “đại sứ của thần Pluto”, người đã leo lên một đài quan sát cao khoảng chín mươi mốt mét tính từ pháo đài và sẽ quan sát trò chơi bằng ống nhòm.
Frank chống lao móc pilum vào khiên của mình và kiểm tra áo giáp của Percy. Mỗi dây đeo đều nằm đúng vị trí. Từng bộ phận của áo giáp đều được mặc đâu ra đấy.
“Cậu mặc đúng rồi,” cậu nói với vẻ kinh ngạc. “Percy này, hẳn là trước đây cậu đã từng chơi qua trò đánh trận.”
“Tớ không biết nữa. Có lẽ thế.”
Vật duy nhất không hợp lệ là thanh kiếm đồng sáng lấp lánh của Percy – không phải vàng Imperial và cũng chẳng phải là thanh đoản kiếm gladius. Lưỡi kiếm có hình chiếc lá, chữ viết trên cán là tiếng Hy Lạp. Frank cảm thấy lo lắng khi nhìn vào nó.
Percy cau mày. “Chúng ta có thể sử dụng vũ khí thật hả?”
“Ừm,” Frank đồng ý. “Chắc chắn đấy. Tớ chưa bao giờ nhìn thấy thanh kiếm nào như thế này.”
“Thế nếu tớ làm bị thương ai thì sao?”
“Bọn tớ sẽ chữa lành cho họ,” Frank nói. “Hoặc cố hết sức. Các thầy thuốc của quân đoàn khá mát tay với bánh thánh, rượu thánh và thuốc chiết xuất từ lũ kỳ lân.”
“Chẳng ai chết đâu,” Hazel nói. “Được rồi, không thường xuyên lắm. Và nếu họ…”
Frank bắt chước giọng Vitellius: “Lũ chết nhát! Vào thời của ta, lúc nào chúng ta lúc nào cũng có thể mất mạng, và chúng ta thích thế!”
Hazel bật cười. “Cứ việc ở đây với bọn em, anh Percy. Các khả năng có thể xảy ra là chúng ta sẽ chơi dở nhất và sớm bị loại. Họ sẽ phái chúng ta tấn công tường thành để làm hàng phòng ngự yếu đi. Rồi Đội quân Số Ba và Số Bốn sẽ tiến lên và giành thắng lợi, nếu họ có thể chọc thủng pháo đài.”
Tiếng tù và vang lên. Dakota và Drew quay trở lại từ cuộc họp bàn của các đội trưởng, trông có vẻ chán nản.
“Được rồi, đây là kế hoạch!” Dakota nhấp nhanh một ngụm Kool-Aid trong bình đựng nước của mình. “Họ sẽ đưa chúng ta lên trước nhằm làm yếu đi hàng phòng ngự.”
Toàn đội rêи ɾỉ.
“Tôi biết, tôi biết,” Gwen nói. “Nhưng biết đâu lần này chúng ta may mắn thì sao!”
C để việc đó cho Gwen vì cô ấy là một người lạc quan. Mọi người thích cô ấy vì cô ấy quan tâm đến binh sĩ của mình và đang cố làm mọi người phấn khởi. Cô ấy thậm chí còn kiểm soát được cả Dakota trong lúc anh ấy hiếu động thái quá do nước si-rô. Thế nhưng, các trại viên vẫn cằn nhằn và than trách. Không ai tin vận may sẽ đến với Đội quân Số Năm.
“Hàng đầu tiên do Dakota chỉ huy,” Gwen nói. “Hãy chắn khiên lại với nhau và tấn công theo đội hình mai rùa vào cổng chính. Cố bám sát nhau đấy. Thu hút hỏa lực của họ. Hàng thứ hai…” Gwen không chút hăng hái quay sang hàng của Frank. “Mười bảy người, tính từ Bobby trở lên, lo phần con voi và trèo lên thang. Cố tấn công vào bên hông tường thành phía tây. Biết đâu chúng ta có thể dàn mỏng quân phòng ngự ra. Frank, Hazel, Percy… ừm, các cậu cứ làm những gì mình thích. Chỉ cho Percy các sợi dây thừng. Và cố giữ cậu ta còn sống nhé.” Cô ấy quay lại về phía toàn đội. “Nếu người nào leo qua được tường thành trước, tôi sẽ đảm bảo rằng người đó có được Vương miện Thành. Chiến thắng dành cho Đội quân Số Năm!”
Cả đội reo hò uể oải và tan hàng.
Percy cau mày. “Làm những gì mình thích là sao?”
“Đúng thế đấy,” Hazel thở dài. “Một sự tín nhiệm lớn.”
“Thế còn Vương miện Thành là gì?”
“Một huân chương trong quân đội,” Frank nói. Cậu đã bị buộc phải nhớ hết mớ giải thưởng có thể được trao. “Vinh dự lớn dành cho lính mới khi chọc thủng hàng phòng ngự của đối phương. Cậu sẽ nhận ra là chẳng có ai ở Đội quân Số Năm đeo nó. Thường thì chúng ta còn không vào được bên trong pháo đài vì chúng ta đã bị bỏng, bị nhấn chìm hoặc…”
Cậu ngập ngừng và nhìn vào Percy. “Những cây súng phun nước.”
“Gì chứ?” Percy hỏi.
“Súng phun nước trên các bức tường,” Frank nói, “chúng lấy nước từ cầu dẫn nước. Sẽ có một hệ thống bơm – khỉ thật, tớ không biết chúng hoạt động ra sao, nhưng chúng chịu lực rất lớn. Nếu cậu kiểm soát được chúng, như cách cậu đã điều khiển dòng sông…”
“Anh Frank!” Hazel cười toét miệng. “Ý đó thật hay!
Percy trông không chắc lắm. “Tớ không biết lúc ở sông mình đã làm thế nào. Tớ không cam đoan mình kiểm soát được các cây súng đó từ khoảng cách xa như thế này.”
“Bọn tớ sẽ đưa cậu đến gần hơn.” Frank chỉ về bờ tường phía đông của pháo đài, nơi Đội quân Số Năm sẽ không tấn công. “Đó là nơi hàng phòng ngự yếu nhất. Họ sẽ không khi nào xem trọng ba đứa nhóc đâu. Tớ nghĩ chúng ta có thể lẻn đến khá gần trước khi bị họ phát hiện.”
“Làm sao lẻn đến được đó?” Percy hỏi.
Frank quay sang Hazel. “Em có thể làm lại điều đó lần nữa không?”
Cô đấm vào ngực cậu. “Anh nói anh sẽ không kể cho bất cứ ai cơ mà!”
Tức thì Frank cảm thấy mình thật tệ. Cậu đã quá để tâm vào ý tưởng…
Hazel lầm bầm. “Không sao. Ổn thôi. Anh Percy, anh ấy đang nói về các đường hầm công sự. Trải qua hằng ấy năm, Cánh đồng Thần Mars chi chít những đường hầm. Vài cái đã bị sập hoặc bị chôn vùi, nhưng rất nhiều đường hầm vẫn có thể qua lại được. Em khá giỏi trong việc tìm ra và sử dụng chúng. Thậm chí trong tình huống bắt buộc em còn có thể làm sập chúng.”
“Như em đã làm với lũ gorgon đó,” Percy nói, “để giữ chân chúng.”
Frank gật đầu hài lòng. “Tớ đã bảo cậu là thần Pluto ngầu lắm mà. Ông ấy là vị thần của mọi thứ bên dưới lòng đất. Hazel có thể tìm được các hang động, đường hầm, các cánh cửa sập…”
“Và đó là bí mật của chúng ta,” cô cằn nhằn.
Frank cảm thấy mặt mình đỏ bừng. “Đúng thế, anh xin lỗi. Nhưng nếu chúng ta đến được gần hơn…”
“Và nếu tớ hạ được mấy khẩu súng phun nước đó…” Percy gật đầu, như thể cậu ấy đang bị ý tưởng đó kí©ɧ ŧɧí©ɧ. “Sau đó chúng ta sẽ làm gì?”
Frank kiểm tra ống tên của mình. Cậu luôn nhét vào đó những mũi tên đặc biệt. ước đây cậu chưa từng có cơ hội sử dụng chúng, nhưng đêm nay sẽ là thời điểm đó. Cuối cùng cậu cũng đã có thể làm được điều gì đó đủ thú vị để thu hút sự chú ý của thần Apollo.
“Chuyện còn lại cứ giao cho tớ,” cậu nói. “Chúng ta đi nào.”