“Cái đó thì không có.” Giang Sinh nhìn quanh một vòng, không xa có một quầy bán chè khoai môn: “Tôi đi hỏi xem dì ấy có cần không.”
Hạ La nhìn theo hướng ánh mắt anh, bừng tỉnh. Bán chè khoai môn, chắc sẽ dùng được khoai lang.
Giang Sinh tiến lên giải thích tình hình, đặt túi khoai lang lên xe ba bánh của dì chủ quầy, dì ấy cũng không tiện nhận không, múc cho anh hai bát chè đầy ắp.
Hai người bắt đầu đi về.
Nhớ đến chuyện cũ, Hạ La hơi im lặng, chỉ lặng lẽ bước đi. Giang Sinh nhận ra sự thay đổi tâm trạng của cô, cũng không lên tiếng, yên lặng đi cùng cô.
Con đường về khác hẳn với chợ đêm, hầu hết cửa hàng đều đóng cửa, trên đường cũng không có nhiều người, ánh trăng lạnh lẽo kéo dài bóng hai người trên mặt đất.
Im lặng suốt đường về đến bãi đỗ xe, bên cạnh là khách sạn nơi cô ở. Hạ La đột nhiên hỏi: “Bây giờ mấy giờ rồi?”
Giang Sinh móc điện thoại ra xem: “Gần 10 giờ rồi.”
“Mới có 10 giờ…” Hạ La lẩm bẩm.
Giang Sinh nghe giọng điệu của cô như chê sớm: “Sao vậy, không muốn về à?”
Hạ La lắc đầu: “Về ngoài ngủ ra còn làm được gì. Bây giờ tôi cũng không ngủ được.”
“Vậy hay là ở ngoài thêm chút nữa, ăn nốt dưa hấu rồi tính, còn hai bát chè nữa.”
“Ở đâu? Bãi đỗ xe tối om om, ngay cả chỗ ngồi cũng không có.”
“Sao lại không có?” Giang Sinh dùng cằm chỉ về phía trước lề đường: “Tôi thấy ngồi đó cũng được đấy.”
Hạ La nhìn theo ánh mắt anh: “…”
Chưa kịp đưa ra đánh giá thì Giang Sinh đã xách đồ đi qua, ngồi phịch xuống đất, rồi lấy giấy ăn mua ở siêu thị ra, rút mấy tờ ghép lại trải xuống đất: “Lại đây nhanh.”
Hạ La đấu tranh một lúc, đành cắn răng đi qua ngồi xuống.
Giang Sinh chân dài, vô tư duỗi thẳng ra, hai tay chống phía sau, ngửa đầu nhìn trời: “Tháng sau là Trung thu rồi, cô xem trăng tròn thế kia.”
Hạ La ngẩng đầu nhìn trời, trăng có vẻ to hơn và tròn hơn bình thường. Cô nhớ đến những câu chuyện ông ngoại từng kể cho cô nghe, Hằng Nga, cây quế, thỏ ngọc.
“Ông lão bán khoai lang đó…” Cô đột nhiên nói, rồi ngừng lại: “Hơi giống ông ngoại của tôi, nên tôi mới đi mua, không hoàn toàn là vì thương hại ông ấy.”
Giang Sinh cúi đầu, nghiêng mặt nhìn cô. Im lặng một lúc, anh hỏi: “Mất khi nào vậy?”
Hạ La không ngạc nhiên khi anh đoán ra điều này, nếu trên đời còn có người để cô vương vấn, cô cũng đã không đi đến đường cùng.
“Khi tôi bảy tuổi, ung thư gan.”
“Ông ấy chắc rất thương cô.”
Hạ La cười cười: “Còn phải nói, đúng là cưng chiều quá mức. Ông có ba đứa cháu trai, chỉ có mình tôi là cháu gái, nên được cưng lên tận trời. Lúc đó ông là chủ gia đình, tôi là số một trong nhà, không coi ai ra gì, chẳng ai quản được tôi.”
“Ông cưng chiều cô thế nào?”
“Ông thường dậy từ năm giờ sáng để làm bữa sáng cho tôi, hấp bánh bao nấu cháo làm bánh, ngày nào cũng khác nhau. Chỉ cần tôi xin tiền tiêu vặt, không quan trọng xin bao nhiêu ông đều cho, các anh họ tôi không có đãi ngộ này đâu. Có khi tôi không muốn đi học, cứ ở nhà làm nũng, lăn lộn dưới đất, ông chẳng biết làm sao, đành giúp tôi xin nghỉ ốm.”
“Thế thì đúng là cưng chiều thật. Cô trốn học kiểu này, ở nhà tôi là ăn đòn roi rồi.”
Hạ La cười cười, rồi khẽ thở dài: “Tiếc là ông đi sớm quá, tôi cũng không ở với ông được lâu.”
Dưới ánh trăng, gương mặt nghiêng của cô trông rất cô đơn, Giang Sinh gãi gãi đầu, anh quen sống thô kệch, không biết an ủi người khác thế nào: “Sinh lão bệnh tử, ai cũng không cản được, cô cũng đừng quá buồn. Hơn nữa linh hồn ông ngoại cô trên trời, chắc cũng không muốn thấy cô không muốn sống nữa.”
Hạ La im lặng hồi lâu: “Tôi biết, nếu ông còn sống, chắc chắn không muốn thấy tôi như thế này. Chỉ là việc sống tiếp, đôi khi, còn khó hơn cả cái chết.