Mái ngói xanh, tường trắng, cây cỏ um tùm, nhìn bề ngoài chùa Từ Ân không có gì khác biệt với chùa bình thường. Thái tử xây chùa với mục đích tưởng nhớ mẹ mình, vì sự từ bi của cố Hoàng hậu, nên chùa mở cửa cho bá tánh, bất kể thân phận, đều có thể vào dâng hương. Lâu dần, chùa Từ Ân đã trở thành nơi cầu khấn thần Phật của các quan lại và giới thượng lưu ở kinh thành. Tuy nhiên, chùa Từ Ân có quy tắc, điện trước có thể dâng hương, nhưng phòng thiền không lưu khách trần tục. Viện sau thì yên tĩnh vô cùng.
Con đường dẫn đến phòng thiền được lát bằng những viên sỏi xanh, một rừng trúc lớn tách biệt phòng thiền với điện trước, bóng trúc lay động. Gió thổi qua, làm khung cảnh càng thêm tĩnh lặng.
Lòng Cố Gia Mộng dần yên tĩnh lại, nàng lơ lửng dọc theo con đường nhỏ, chầm chậm tiến về phía trước. Thậm chí nàng còn tò mò nghĩ, nếu mùa hè, đi chân trần trên con đường đá xanh nhẵn bóng ấy, chắc chắn sẽ rất thoải mái!
Nàng nhìn xuống thân thể hư ảo của mình, thở dài nặng nề, cẩn thận hạ xuống, cố gắng đặt chân lên những viên sỏi xanh.
Nàng nhắm mắt lại, tưởng tượng mình đã cởi giày tất, đặt chân trần lên sỏi, cảm nhận đá mát lạnh áp vào lòng bàn chân, cái lạnh lan lên dọc bắp chân, thấm vào tận tâm can. Khóe môi nàng nở một nụ cười mãn nguyện, cho đến khi nàng mở mắt ra.
Nàng nhìn xuống, nhận ra mình vẫn còn cách mặt đất một khoảng nhỏ. Sợ là phải đến kiếp sau, nàng mới cảm nhận được thế nào là "chân chạm đất". Có rất nhiều thứ mà khi còn sống, nàng không hề trân trọng. Đến khi chết, mới nhận ra không bao giờ có thể lấy lại.
Cố Gia Mộng đứng trong ánh nắng, cảm thấy buồn bã vô cùng. Nàng tự hỏi mình chưa từng làm việc ác, cớ sao ông trời lại đối xử với nàng như vậy?
"A di đà Phật." Một tiếng niệm Phật kéo nàng ra khỏi dòng suy nghĩ. Nàng nhìn về hướng phát ra âm thanh, ở cuối con đường nhỏ, có hai người đang chậm rãi bước tới. Người đi đầu mặc áo xám của nhà sư, râu tóc bạc phơ, nét mặt hiền từ. Chỉ cần nhìn diện mạo, cũng toát lên khí chất của một người cao nhân ẩn sĩ.
Phía sau lão tăng là một nam tử mặc áo đen, khoảng chừng hai mươi tuổi, tóc búi lên, toàn thân không mang chút trang sức nào. Y chắp tay hành lễ, đôi bàn tay trắng như ngọc.
Cố Gia Mộng vô thức lánh đi, là con gái nhà lành, nàng không thể tùy tiện gặp mặt đàn ông khác. Sau khi bay thật xa, nàng mới nhớ ra mình là người chết, quy tắc của nhân gian không ràng buộc được nàng nữa. Huống chi, đây làm sao gọi là gặp mặt? Chẳng qua là một cô hồn luyến lưu chốn trần gian mà thôi.
Nàng thở dài một tiếng, rồi quay trở lại. Chợt nghe lão tăng nói: "Thí chủ có ý tưởng như vậy, thật là phúc của dân chúng, may mắn của xã tắc."
"Đại sư nói đùa rồi." Giọng của nam tử trẻ tuổi vang lên thật dễ nghe, như dòng suối mát chảy qua, trong trẻo và êm tai.
Cố Gia Mộng bất giác chú ý hơn, nhìn y thêm vài lần. Dù không phải là người sắc sảo, nhưng nàng cũng không ngốc. Nghe ý của đại sư, nam tử trẻ tuổi này dường như không phải người thường. — "Phúc của dân chúng, may mắn của xã tắc." Người nào có thể có suy nghĩ đem lại phúc cho bách tính, ân cho xã tắc?
Nàng chăm chú quan sát y, thấy y có vầng tóc mai sắc nét như lưỡi dao, lông mày đen như mực, đôi môi đỏ và hàm răng trắng, tướng mạo vô cùng tuấn tú. Nhưng trong ánh mắt lại toát lên vẻ u buồn, không giống một thiếu niên đầy khí phách.
Cố Gia Mộng đang không vui trong lòng, cho nên nhất thời nàng ghét nhìn người khác cũng buồn giống mình. Tâm tư nàng khẽ động, nhìn y càng chăm chú hơn. Trâm ngọc trên tóc y trong suốt không tì vết, tay áo của chiếc áo đen đơn giản có những hoa văn ẩn hiện. Nhìn xuống đôi giày trên chân y, đại khái nàng có thể đoán ra người này là ai.