Lão Bà Của Ta Không Phải Là Nhân Loại

Chương 4: Đi Đến Cuộc Hẹn (2)

---

Ngay khi bước vào tháng Năm, toàn bộ Quan Đông(Kanto) đã bước vào mùa mưa.

Ngày tổ chức tiệc của Đại Xuyên cũng liên tục mưa, từ sáng đến giờ trời vẫn chưa sáng tỏ.

Những nữ phục vụ trong quán bận rộn chạy tới chạy lui, không có thời gian cầm ô, tay áo dài buộc lại, liều mình xuyên qua mưa, váy kimono bay lên như những bông hoa chuối nở trong cơn mưa nhẹ.

Khi đến giờ khai tiệc, Đại Xuyên dẫn theo Nguyệt Luyến và bà chủ quán rượu đứng ở cửa đón khách, chỉ cần có khách đến, ông liền gọi lớn để các geisha đưa họ vào.

Dù tôi không có cảm tình gì với người như Đại Xuyên, nhưng cũng không thể không thừa nhận tài nghệ của ông trong việc giao tiếp.

Nhìn cách Đại Xuyên tiếp đãi khách, tôi biết rõ ông nắm rõ sở thích, độ tuổi, gia đình, nghề nghiệp của từng vị khách. Không chỉ vậy, ông còn phân bố các geisha theo đúng từng phòng, sắp xếp một cách hoàn hảo.

Nếu bàn tiệc có nhiều đàn ông độc thân, geisha không thể quá già dặn, nhưng cũng không thể quá non trẻ, nếu không sẽ không giữ chân được khách.

Nếu cùng một bàn có nhiều người lớn tuổi, thành đạt, thường là bà chủ quán dẫn theo những cô gái geisha nhỏ nhắn, dễ thương để phục vụ, nói những câu vui vẻ để khiến người ta vui cười.

Tôi được sắp xếp ngồi ở một phòng ở tầng hai, nơi này cách xa đường phố nhất, lại cách tầng dưới hai cầu thang, rất yên tĩnh, có lẽ là cố ý sắp xếp như vậy.

Những người cùng bàn với tôi, hầu hết đều là những gương mặt quen thuộc, hoặc là đã từng làm ăn với tôi, hoặc là cũng như tôi, hoạt động trong ngành công nghiệp, sống nhờ vào công việc công ty và chứng khoán, cũng có một số chủ đề chung.

Nói đến đây, chắc hẳn mọi người cũng đã rất tò mò về thân phận của tôi. Vậy nên tôi xin phép nói rõ một chút.

Tôi xuất thân từ một gia đình lớn, trước khi *Minh Trị Duy Tân, tổ tiên tôi đã là một nhà quý tộc ở một vùng xa xôi, được ban cho *quyền in bảy dấu gia phả trên kimono và *quyền mang theo kiếm ở bên mình.

*Minh Trị Duy Tân (1868) là một cuộc cải cách lớn ở Nhật Bản, nhằm hiện đại hóa đất nước và xóa bỏ các hệ thống phong kiến cổ xưa.

*Quyền in bảy dấu gia phả trên kimono: Trong văn hóa Nhật Bản, việc in dấu gia phả trên kimono là một biểu tượng của gia đình và dòng dõi quý tộc. Bảy dấu có thể tượng trưng cho một đặc quyền lớn, cho thấy vị thế của gia đình trong xã hội.

*Quyền mang theo kiếm bên mình: Kiếm là biểu tượng của samurai, thể hiện quyền lực và danh dự. Quyền mang kiếm cho thấy tổ tiên của nhân vật không chỉ có địa vị cao mà còn có khả năng tự vệ và được tôn trọng trong xã hội.

Sau khi *chế độ phiên vương bị bãi bỏ, cha tôi được giới thiệu bởi lãnh chúa Owari và giữ chức thư ký tại Bộ Văn hóa. Ông trở thành cấp dưới trực tiếp của Bộ trưởng, đứng ở hàng *chính tứ phẩm.

*Chế độ phiên vương (Shogunate): Là hệ thống chính trị phong kiến tồn tại ở Nhật Bản, trong đó các lãnh chúa (shogun) nắm giữ quyền lực thực tế, trong khi Thiên hoàng chỉ đóng vai trò biểu tượng.

Bãi bỏ chế độ phiên vương: Sự kiện này xảy ra vào giữa thế kỷ 19, khi Minh Trị Duy Tân diễn ra (1868). Nó đánh dấu sự chuyển giao quyền lực từ các lãnh chúa sang Thiên hoàng, đồng thời khởi đầu một giai đoạn hiện đại hóa ở Nhật Bản.

*Chính tứ phẩm: Là một trong các cấp bậc trong hệ thống quan liêu của Nhật Bản, tương ứng với một cấp bậc cao (trong hệ thống hành chính phong kiến).

Khởi đầu sự nghiệp, cha tôi đã nắm giữ vị trí chính tứ phẩm, từ đó sự nghiệp của ông thuận buồm xuôi gió, thăng tiến nhanh chóng.

Cha tôi có nhiều vợ lẽ, gia đình đông đúc, từ khi tôi còn nhỏ, số người sống trong nhà đã không dưới một trăm. Mỗi khi đến lễ Vu Lan hay Tết, nhà thường có nhiều khách ra vào, náo nhiệt như một chợ phiên.

Tôi là con trai thứ mười một, đến khi tôi ra đời, cha đã không còn tâm huyết như trước với việc dạy dỗ con cái như đối với người con trưởng.

Từ nhỏ, tôi đã học cùng với những người anh lớn tuổi hơn, tâm lý phát triển cũng nhanh hơn so với bạn đồng trang lứa. Tôi hiểu rõ rằng vị trí gia chủ không dành cho mình, và cảm thấy rằng thay vì trở thành một thiếu gia nhàn rỗi dựa vào quyền thế của cha, thà sớm độc lập, học được một nghề để tự lập trong xã hội.

Tôi đã đề xuất với cha về việc muốn đi du học ở châu Âu. Cha tôi, người đã từng tham gia đoàn kiểm tra của chính phủ sang châu Âu, rất tán thành, và năm sau ông đã chi tiền để tôi sang nước ngoài học tập.

Tôi đã sống ở Pháp, Đức và Anh, nơi tôi đặc biệt hứng thú với nghệ thuật quy hoạch và thiết kế đô thị. Khi về nước, tôi quyết định theo đuổi ngành này.

Hiện tại, tôi đã có một văn phòng thiết kế kiến trúc riêng ở Tokyo. Mặc dù chưa lớn mạnh nhưng cũng đã có thành tựu, từ những công trình như ngân hàng quốc gia Yokohama, cải tạo Hoàng Cung, đến những biệt thự của các quý tộc đều có dấu ấn của tôi.

So với con người, tôi thích những công trình kiến trúc không biết nói. Chúng là lịch sử và nghệ thuật im lặng, không phân biệt đẳng cấp, cũng không giống như con người hiện tại luôn dối trá và giả tạo.

Khi đã ngồi vào bàn, tôi vừa trò chuyện xã giao với những khách mời khác, vừa xem danh sách chương trình biểu diễn hôm nay.

Dù như Đại Xuyên nói hôm nay là “một sự kiện hiếm có,” nhưng quán rượu này không có cơ sở vật chất như nhà hát Đế quốc, nên khách ở mỗi bàn chỉ có thể xem những tiết mục trong phòng mình.

Điều này dễ dẫn đến tình trạng phân chia không công bằng, bàn của tôi cũng vậy, được phân cho bốn năm tiết mục đã quen thuộc, chẳng có gì mới mẻ.

Nguyên nhân cũng không khó đoán, những geisha này thường không quyết định tiết mục mình học, mà là do chủ quán, những geisha già dặn theo thói quen mà quyết định, sau đó cả đám đi học cùng một thầy, dẫn đến nhạc cụ shamisen và điệu múa đều giống nhau, không thể phân biệt cao thấp.

Tôi xem một lúc thì cảm thấy chán chường.

Kỹ năng của các nghệ sĩ tuy không phải vấn đề lớn, nhưng sự không nghiêm túc trong biểu diễn mới khiến tôi bực bội, thỉnh thoảng lại phải ném cho khán giả một ánh mắt đầy tình ý, khi nhạc shamisen bị sai nhịp không phải để cố gắng sửa chữa, mà là cười giả tạo cho qua.

“Chúng ta chỉ có những tiết mục này sao?” Đại Xuyên đi sang phòng khác trò chuyện, tôi đành phải hỏi một nữ phục vụ đang đứng bên ngoài.

“Làm gì có.” Nữ phục vụ nghe ra ý tứ của tôi, cười nói từ khe hở của vách ngăn, “Đây là những tiết mục mà các khách khác thích. Người mà ngài muốn gặp, vì rất ít khi xuất hiện, hôm nay có lẽ sẽ là tiết mục cuối cùng. Nhưng chắc chắn sẽ xuất hiện, ngài cứ chờ đợi nhé.”

Cô ấy nói thẳng “người mà ngài muốn gặp” khiến tôi cảm thấy hơi ngại, tôi không hỏi thêm gì nữa mà quay lại vị trí của mình.

Lại không biết đã chờ bao lâu, hành lang bên ngoài bỗng vang lên tiếng bước chân. Hóa ra có vài diễn viên kịch mới xếp hàng đứng sau vách ngăn, đang chờ vào sân.

“Ngài xem, họ đến rồi.” Nữ phục vụ quay đầu thấy họ, cười nói với tôi, “Không khiến ngài phải chờ lâu.”

Nghe cô ấy nói vậy, ánh mắt tôi không thể không hướng về phía những diễn viên mới đến.

Tôi có một sở thích lớn khi xem kịch, đó là không bao giờ ngồi ở hàng ghế được gọi là ngôi sao chính giữa, mà thích ngồi ở hàng ghế bên dưới, vì từ đây có thể nhìn rõ được tư thế của diễn kịch trước khi vào sân.

Chất lượng của một vở kịch ra sao, chỉ cần nhìn tư thế của diễn viên trước khi vào là có thể đánh giá được.

Nếu họ còn đứng sau vách ngăn mà không đứng vững, thì khi tiếng trống vang lên, bước vào cũng sẽ không vững vàng. Khi bắt đầu hát, âm thanh chắc chắn sẽ không đủ, khiến cả vở kịch trở nên nhàm chán.

Tôi chú ý thấy trong số diễn viên mới đến, có một người có khí chất rất đặc biệt.

Mặc dù chỉ nhìn thấy một bóng mờ qua vách ngăn trắng, nhưng bóng đó lại đứng yên lặng, vai rộng tạo nên một đường cong đẹp.

Những geisha xung quanh thì đong đưa, cười đùa, nhưng người đó không nhúc nhích, dường như bị một luồng khí bao bọc, tách biệt với xung quanh.

Hình ảnh này khiến tôi bỗng nhớ đến bức ảnh của một thiếu niên lạnh lùng, như thể đang sống tách biệt với thế giới.