Ngọc Tỷ Ký

Chương 4

Chương 4:

Không rõ có phải vì từ nhỏ đã không sống trong cung đình hay chăng, tính cách của Mục An Chi giống như cuộc đời chàng, bị chia cắt thành hai nửa.

Chàng mang trong mình sự đơn thuần, trực tính của người từng sống nơi thờ phật, nhưng cũng có sự cao quý, kiêu hãnh của hoàng tộc.

Chàng thường nói: “Ta có thể vì không đủ hiền lương, không đủ nhân ái mà mất đi ngôi vị Đông Cung, nhưng tuyệt đối không thể vì huyết thống mà đem ngôi vị ấy dâng cho kẻ khác!”

Nhưng cũng có lúc chàng lại tự vấn: “Như Ngọc, con người chỉ cần quyền lực thôi ư? Ta mong muốn cả đời này, ta có thân nhân, có bằng hữu, ta mong rằng những người thân yêu sẽ thương ta, lo lắng cho ta, chứ không phải dùng đủ mưu tính để đoạt lấy sự yêu thương ấy. Sự yêu thương ấy, nếu phải nhờ tính toán mà có được, thì liệu có còn là yêu thương thật sự? Liệu thứ tình cảm như vậy có đáng gọi là tình thân?”

Bùi Như Ngọc theo học trong cung với chàng, đã thấy rõ bao nhiêu lần Mục An Chi cần cù cố gắng, cũng đã chứng kiến nhiều lần chàng lạc lõng và thất vọng. Bùi Như Ngọc chưa từng thấy một người hoàng tộc nào lại có cảm xúc mãnh liệt như thế. Trong trí nhớ của Bùi Như Ngọc, những hoàng tộc thường mang dáng vẻ lạnh nhạt, xa cách, luôn duy trì một thứ uy quyền cao xa, khó lòng dò đoán. Ông nội của y từng nhắc nhở không biết bao nhiêu lần rằng, Tam điện hạ là hoàng tử, cần phải tuân thủ cẩn thận bổn phận của thần tử đối với quân vương.

Thế nhưng, ngay cả người lý trí như Bùi Như Ngọc, khi đứng trước Mục An Chi, cũng không khỏi bị sự tin cậy trong ánh mắt chàng làm cho cảm động.

Họ đã quen biết nhau mười hai năm, cùng nhau trải qua mười hai năm. Khi Bùi Như Ngọc đỗ đầu thi hội, thi đình và trở thành trạng nguyên, Mục An Chi còn vui mừng hơn cả chính y.

Mười hai năm đồng hành ấy, không chỉ là Bùi Như Ngọc theo Mục An Chi học hành, mà Mục An Chi cũng đã ở bên cạnh y. Tình bằng hữu này không chỉ là bốn chữ "bổn phận quân thần" lạnh lẽo, mà là sự đồng hành đẹp đẽ nhất của tuổi trẻ.

Mục An Chi trong cung vốn đã có thân phận vô cùng khó xử, suốt nhiều năm Mục Tuyên Đế vẫn luôn làm như không nhìn thấy chàng, dường như hoàn toàn không biết mình có một đứa con tên là Mục An Chi. Đôi khi, Bùi Như Ngọc thật muốn nói với Mục An Chi rằng: Có người vốn dĩ không xứng đáng để ngươi gọi một tiếng “phụ hoàng”!

Nhưng có lẽ vì chưa từng có được, Mục An Chi mới dốc hết sức mình mong cầu sự thừa nhận từ phụ hoàng.

Ngươi có biết cảm giác ấy chăng? Có người dâng hiến trái tim nóng hổi của mình, nhưng thứ nhận lại chỉ là một bát nước lạnh đến thấu xương. Rồi đến sau này, ngay cả nước lạnh cũng không còn, chỉ còn lại sự thờ ơ, khinh miệt. Cái thái độ lạnh nhạt, khiến cho ngươi cảm thấy rằng trong mắt người ấy, ngươi như không hề tồn tại, thật khiến Bùi Như Ngọc phẫn nộ! Bao nhiêu năm nay, Mục An Chi đã mang trong lòng nỗi đau đớn đến mức nào?

Hôm nay, Mục Tuyên Đế vì Đại hoàng tử là đích trưởng tử mà hạ chỉ lập làm Thái tử, đối với Mục An Chi mà nói, đây là sự sỉ nhục và tuyệt vọng đến nhường nào!

“Như Ngọc, ta ổn, ngươi cũng phải hứa với ta, giữ gìn bản thân. Cho dù chúng ta không thể lúc nào cũng ở bên nhau, nhưng hãy để ta biết rằng, ngươi vẫn luôn bình an.”

Mục An Chi không có sự điên cuồng, tuyệt vọng như Bùi Như Ngọc lo lắng, cũng không dựng lên những gai nhọn để phòng vệ trước những người đến gần.

Chàng nói, chàng muốn đến một địa phương nho nhỏ, muốn rời kinh đi trấn thủ.

Kỳ thực, rời đi cũng tốt.

“Nếu điện hạ muốn đi trấn thủ ở đất phong, thần xin nguyện theo làm quan lại của phong quốc.”

“Ta hiểu.”

Nếu có thể trở thành vương gia, ta nhất định sẽ chọn ngươi làm trưởng sử.

Mục An Chi muốn ở lại bên cạnh bầu bạn với bằng hữu lâu hơn, chỉ là lo ngại sự hiện diện của mình sẽ làm Bùi Như Ngọc thêm bận tâm, nên chàng khuyên y đừng có tự mình lao vào hiểm nguy vì tranh đoạt ngôi vị thái tử.

Sau đó, Mục An Chi bảo Bùi Như Ngọc nghỉ ngơi, rồi dẫn Tiểu Dịch rời khỏi.

Rời khỏi Phủ gia, Mục An Chi không lập tức hồi cung, mà đi đến Thiên Kỳ tự, nơi chàng từng sống một khoảng thời gian khi còn nhỏ.

Một vài vị trưởng lão ở chùa vẫn còn nhận ra chàng, cung kính mời chàng vào đại điện. Mục An Chi đứng trước tượng Phật từ bi với cành hoa sen trên tay, trong lòng cầu nguyện: "Nếu tất cả những điều này là sự thật, xin hãy phù hộ cho bằng hữu của ta được bình an và mạnh khỏe."

Sau đó, Mục An Chi dâng hương và quay đầu nhìn về phía Tiểu Dịch, nói: “Tiểu Dịch, ngươi cũng dâng một nén hương để cầu bình an đi.”

Tiểu Dịch cũng vâng lời, dâng một nén hương.

Chủ tớ hai người men theo bậc đá xanh mà đi xuống, trong làn gió nhẹ thổi qua, tiếng xào xạc của lá cây ngân hạnh trong chùa vang lên. Tiểu Dịch nhỏ nhẹ an ủi Mục An Chi: "Điện hạ đừng lo lắng, nô tài thấy Bùi đại nhân chỉ bị thương ngoài, cần tĩnh dưỡng ít ngày là sẽ hồi phục."

Mục An Chi khẽ gật đầu. Chàng không có nhiều nơi để ra ngoài cung, thêm vào đó Bùi Như Ngọc lại bị thương, tâm trạng chàng như trở về mười mấy năm trước, trong lòng dâng lên từng đợt sóng lớn dồn dập, xen lẫn với một sự mệt mỏi sâu sắc. Do đó, chàng quyết định quay về cung nghỉ ngơi.

Sau khi về cung, Mục An Chi dùng bữa rồi đi ngủ sớm.

Sáng hôm sau, dù dậy sớm nhưng chàng vẫn không đi dự tiết học buổi sáng, mà sai cung nhân thu xếp hành lý.

Những năm tháng bệnh tật khiến chàng bị lạnh nhạt, ngay cả trong cung cũng không được ăn mặc đầy đủ, chàng không biết liệu mình đã trải qua một giấc mộng Nam Kha, hay là đã có cơ hội sống lại.

Nhưng dù thế nào đi nữa, Mục An Chi quyết tâm phải sống tốt. Chàng không còn mơ tưởng đến những thứ vốn dĩ không thuộc về mình, nhưng cũng phải chuẩn bị cho tương lai.

Những vật dụng trong cung đều là những thứ được ban tặng cho chàng qua nhiều năm, chàng quyết định mang theo hết. Những vật trang trí bằng vàng ngọc có thể đổi lấy tiền bạc, còn bàn ghế, giường tủ cũng mang theo để không phải tốn kém mua mới.

Vừa thu xếp, chàng vừa ghi chép lại. Đến gần trưa, Lam Thái hậu lại triệu chàng qua dùng bữa.

Mục An Chi vốn không muốn đi, nhưng Chu Thiệu nói rằng hoàng thượng cũng đang trò chuyện với Thái hậu ở đó, khiến chàng càng không muốn đến. Chàng tiếp tục ngồi viết, thu dọn đồ đạc trong cung.

“Ta có chút mệt mỏi, hôm nay không đi được, phiền Chu tổng quản chuyển lời tới Hoàng tổ mẫu giúp ta.”

Chu Thiệu cảm thấy kỳ lạ, trước đây Tam hoàng tử luôn thích xuất hiện trước mặt hoàng thượng, cũng thường xuyên đến thăm Thái hậu tại Cung Từ n, sáng chiều đều qua thỉnh an.

Vậy mà hôm nay, khi đích thân đến mời, chàng lại không chịu đi. Nghĩ đến việc Đại hoàng tử vừa được lập làm Thái tử, Chu Thiệu đoán rằng Tam hoàng tử vẫn đang giận dỗi.

Ông khẽ nhắc nhở: “Nô tài có nghe loáng thoáng, hoàng thượng hình như có đề cập tới việc hôm nay điện hạ không đi học. Nếu có Thái hậu làm chứng, điện hạ giải thích đôi lời thì có thể tránh được sự phật ý của hoàng thượng.”

“Ồ, việc đó ư? Ta đã bảo Tiểu Dịch nói với Đường học sĩ rồi, giờ ta đã tưởng thành, không đi học nữa. Nếu phụ hoàng chưa biết, vậy nhờ ngươi bẩm lại với người giúp ta.”

“Ôi chao, điện hạ ơi, nô tài nào dám thay ngài nói với hoàng thượng chứ! Điện hạ, ngài nên đi một chuyến thôi. Thái hậu đã dặn dò nô tài mời ngài qua dùng bữa trưa. Các món ngài thích như bánh bao nhân cua, hoàng tước tú cầu, hay mì sợi tráng dầu gà, đều đã được ngự thiện phòng chuẩn bị từ sớm.” Chu Thiệu khẩn khoản nài nỉ, chỉ hận không thể cõng Mục An Chi đi qua đó.

Cuối cùng, chàng cũng đành gác bút, đi cùng với ông.

Kỳ thực, có việc gì quan trọng đâu, chẳng qua là Hoàng tổ mẫu lại lên tiếng bênh vực chàng vài câu, để chàng càng thêm oán hận sự bất công của hoàng thượng.

Hoàng tổ mẫu làm vậy cũng không phải vì thật lòng bất bình thay chàng, mà chẳng qua muốn giữ lại một người có thể đối trọng với phe của Lục Hoàng hậu và Đại hoàng tử.

Dù gì thì Thái hậu cũng đang nuôi dưỡng Thất hoàng tử, con của Lam Quý phi, mới bốn tuổi mà thôi.