Nghiệp Chướng

Chương 25: Cái Giếng Vàng Đáng Sợ

Thấy tiếng máy bơm đã dừng lại, bà Hoài trong nhà tất nhiên cũng chưa ngủ. Thấy chồng lục xục đi vào tìm kiếm thứ gì đó bà Hoài hỏi chồng :

— Này, đã thấy gì chưa hả mình…? Mà mình đang tìm cái gì đó.?

Ông Hải quay lại đáp :

— Tìm dây thừng, thầy Lã bảo tôi phải trèo xuống dưới đó để lấy vàng. Không biết có vàng không nhưng nhìn xuống giếng thôi cũng đủ sợ chết khiếp rồi. Ai dám xuống….

Bà Hoài khẽ đặt con nằm xuống gối rồi ngồi dậy chui ra khỏi màn nói :

— Cái ông này, làm được đến đây rồi giờ lại kêu sợ. Ông cứ trèo xuống dưới đi, tôi ở trên này canh chừng cho. Chẳng lẽ ông không muốn lấy vàng à..?

Bà Hoài nói y như thầy Lã, nhưng quả thật là người trải qua cái cảm giác đã từng ở dưới giếng nên ông Hải sợ hãi là chuyện bình thường. Hơn nữa nước giếng bây giờ còn đen xì xì. Giếng thì sâu hun hút, tối om nhìn từ trên xuống cứ như là đường đi xuống địa ngục vậy. Cầm cuộn dây thừng khá nặng ông Hải lưỡng lự không muốn đi nhưng bị vợ thúc ép quá cũng chẳng còn cách nào. Bà Hoài sau lần mất con đợt trước thì giờ đây cứ chồng không ở trong nhà thì bà phải canh chừng cậu con trai. Dù muốn ra bên ngoài xem lắm nhưng không dám để con ở lại một mình nên bà Hoài chỉ ngó ngó ra sân sau nhìn. Thấy ông Hải đang buộc đầu sợi thừng vào một cái cây gần giếng. Ông Hải còn hỏi thầy Lã :

— Dưới đó…có vàng thật hả thầy…?

Thầy Lã đáp :

— Nhà anh cứ xuống đi rồi khắc biết, dù cho có thấy thứ gì cũng đừng hoảng sợ.

Cuối cùng thì ông Hải miệng ngậm đèn pin, hai tay đu dây thừng trượt từng chút, từng chút xuống cái giếng tối om. Nước bị hút khiến cho thành giếng trơ ra trơn trượt rất khó để leo xuống. Phần vì sợ hãi dưới giếng có điều gì đó bất thường, may mà khi nãy ở trên cao thả dây thừng xuống có nghe thấy tiếng dây thừng chạm vào mặt nước, có nghĩa là sợi dây đủ dài để ông Hải leo xuống dưới đáy giếng. Phía bên trên thầy Lã vẫn đang theo dõi từng nhất cử nhất động của ông Hải.

“ Bõm…Bõm..”

Chân ông Hải cuối cùng cũng chạm nước, rón rén đưa cả bàn chân xuống thì ông Hải thấy mực nước dưới giếng bây giờ chỉ còn đến phần bụng của mình. Thả cả người xuống nước ông Hải nói vọng lên phía trên :

— Thầy ơi con xuống đến nơi rồi. Bây giờ phải làm gì tiếp theo ạ..?

Thầy Lã từ bên trên nói xuống :

— Cứ ở yên đấy.

Dứt lời ông bước nhanh đến cái miếu, tuy miếu đã xây xong từ buổi sáng, dù đã làm lễ tế nhưng trên bát nhang đặt trong miếu vẫn chưa có cắm một cây nhang nào cả. Thầy Lã châm nến, ông đọc vanh vách gia phả của nhà ông Hải, vừa đọc ông vừa dùng bút lông, mực tàu viết vào trong tờ giấy đỏ những ký tự có lẽ chỉ mình ông biết. Trời đang im lặng, nhưng sau mỗi một câu của thầy Lã gió bắt đầu nổi lên, nhưng dường như không gian chỉ thay đổi trong khuôn viên khu vực nhà ông Hải. Những cái cây trong vườn lay chuyển, dưới giếng ông Hải cũng bắt đầu cảm nhận được sự thay đổi khi mà chẳng hiểu từ đâu những tiếng hú cứ thế vọng ra không xác định được nó bắt nguồn từ đâu. Ông Hải pha đèn lên phía trên nhưng không thấy thầy Lã đâu cả, ông Hải sợ hãi gọi :

— Thầy ơi….thầy đâu rồi…Thầy ơi..

Chẳng ai trả lời bởi thầy Lã còn đang làm việc của mình. Quỳ trước miếu thầy Lã mỗi lúc đọc một nhanh hơn, mà thầy càng đọc nhanh thì gió càng thổi mạnh. Bên dưới giếng ông Hải cũng đang phải chịu những cảm giác ghê rợn, hãi hùng khi mà gió thổi qua miệng giếng tạo thành những âm thanh u ám, nước giếng đang lặng bỗng nhưng lăn tăn chuyển gợn. Gọi thầy Lã không thấy đâu, quá sợ hãi ông Hãi quyết định trèo lên trên, nhưng vừa mới nắm tay vào sợi dây thừng ông Hải đã bị kéo tụt xuống. Đôi chân đang ngâm dưới làn nước đen xì vừa bị rất nhiều cánh tay kéo lại. Ông Hải kinh hoàng muốn kêu lên cầu cứu nhưng như có ai chặn họng, mở mồm nhưng lại không thể phát âm ra thành tiếng. Càng cố bám lấy sợi thừng thì ông Hải càng bị kéo mạnh xuống dưới nước. Cầm chiếc đèn pin khươ đi khươ lại ông Hải nhìn thấy dưới mặt nước đen xì kia đang nổi lên những bàn tay trắng ởn, những bàn tay đó đang từ từ len lên trên bám lấy cơ thể ổng.

Hoảng sợ tột độ ông Hải ú ớ ngẩng đầu lên trên nhìn xem thầy Lã có đang ở đó để cứu ông không nhưng vô vọng, miệng vẫn cố há để mong sao có thể kêu cứu nhưng ông Hải chết ngất đi bởi hai ngón tay gầy guộc, trắng ởn, ướt đẫm nước vừa mới móc vào miệng ông, rồi từ đâu những bàn tay người mọc ra từ khắp thành giếng, chúng ôm chặt lấy người ông Hải dù cho ông Hải lúc này đã bất tỉnh nhân sự, mắt trợn lên vì quá sợ.

Phía bên trên thầy Lã đã viết xong, ông vội vàng gấp tờ giấy lại cho vào một chiếc phong bao màu vàng, thắp ba nén nhang thầy Lã cắm vào bát hương rồi đốt phong bao ban nãy. Phong bao cháy rực, một cơn gió bất ngờ thổi đến, cuốn xoáy phong bao đang cháy đỏ lửa rơi xuống bên dưới giếng. Trời đất trở lại trạng thái im lìm như nó vốn có khi màn đêm buông xuống.

Chạy lại phía giếng nước, thầy Lã soi đèn xuống bên dưới thì thấy ông Hải chỉ còn thò mỗi cái đầu lên khỏi mặt nước. Gọi mấy câu không thấy ông Hải trả lời, thầy Lã cầm sợi thừng quật quật vào mặt nước để tạo tiếng động. Nước bắn vào mặt làm cho ông Hải tỉnh lại sau cơn thất kinh bạt vía. Ngước lên trên thấy thầy Lã ông Hải vội kêu cứu :

— Thầy ơi…cứu…cứu..con với….Cho con lên…đi thầy.

Thầy Lã cười lớn :

— Ha ha ha….Sao lại lên, anh phải ở dưới đó mà lấy thứ mình cần chứ.

Ông Hải nghe thấy giọng cười của thầy Lã lại càng sợ hơn, vàng đâu chẳng thấy chỉ biết ban nãy ông Hải đã sợ đến gần chết, nếu mà cái giếng còn nhiều nước chắc ông Hải cũng ngất chìm dưới nước mà tắc thở chết rồi. Nghĩ lại lúc có rất nhiều những bàn tay người thò ra bám lấy cơ thể mà ông Hải bủn rủn không dám nhúc nhích.

— Nhưng…nhưng….dưới này đáng sợ lắm….Thầy cho con lên đi.

Thầy Lã đáp :

— Đừng sợ, có ta ở đây rồi. Giờ anh thử mò dưới đáy giếng xem có thấy gì không..? Nhanh lên quá nửa đêm rồi đấy.

Ông Hải hít mạnh một hơi rồi định thần lại, nước giếng lúc này cũng đã dâng cao hơn sau khi máy bơm ngừng hoạt động, mặt nước bây giờ đã lên quá bụng ông Hải. Lẩm bẩm khấn vái :

“ Con lạy các ngài, con là người trần mắt thịt không biết gì cả. Các ngài tha cho con…”

Miệng đọc đi đọc lại câu đó, ông Hải cúi xuống vục tay mò mẫm trong làn nước đen xì. Đá cuội, vẫn chỉ là những cục đá cuội giống như lần trước bởi khi ông Hải nhấc lên khỏi mặt nước, dưới ánh đèn pin mà thầy Lã soi xuống chúng vẫn chỉ là những hòn đá vô giá trị.

Thầy Lã bên trên vẫn nói :

— Cứ tìm tiếp đi.

Ông Hải rờ tay tiếp tục mò, nhưng khác với lần trước, lần này ông sờ thấy một thứ gì đó vuông thành, sắc cạnh….Tiếp tục sờ thì ông Hải thấy vật này có hình chữ nhật, nó khác hẳn với những hòn đá cuội ở dưới đáy giếng. Nhưng rất khó để cạy lên, ông Hải gọi với lên phía trên :

— Thầy ơi, con tìm thấy thứ gì lạ lắm. Nhưng không cạy ra được, nó như dính vào đáy giếng thầy ạ.

Thầy Lã cười rạng rỡ :

— Nhà có đồ gì có thể đục hay cạy ra được không..? Để ở đâu để tôi đi lấy…

Ông Hải vội đáp :

— Có có….thầy đi vào trong nhà, trong góc gian buồng của con có cái xà beng, thầy lấy ra đây giùm con.

Thầy Lã đi vội vào trong nhà, bà Hoài vẫn chưa ngủ. Nhìn thấy thầy Lã bà Hoài hỏi ngay :

— Thầy cần gì hả thầy..? Chồng con vẫn đang dưới giếng hả thầy…?

Thầy Lã trả lời :

— Nhà chị có xà beng để đâu đưa cho tôi, anh nhà đang ở dưới giếng tìm thấy thứ gì đó rồi. Nhanh tay lên.

Bà Hoài cuống quýt chạy ngay vào góc buồng lấy cái xà beng đang dựng ở đó rồi đưa cho thầy Lã nhưng vẫn không quên hỏi :

— Có…có phải….tìm…thấy vàng….không thầy.

Thầy Lã chép miệng lắc đầu :

— Không tìm thấy vàng chẳng lẽ chị muốn tìm thấy xác người à.

Bà Hoài mừng rỡ, muốn ra ngoài xem lắm nhưng sợ con đang ngủ không ai trông nên từ lúc ông Hải trèo xuống giếng đến bây giờ bà Hoài vừa lo vừa mừng ấy thế vẫn chỉ dám đứng từ trong nhà nhìn ra ngoài vườn. Buộc cái xà beng vào sợi thừng thầy Lã thả xuống cho ông Hải đang sốt ruột chờ ở bên dưới.

Lúc thầy Lã đi ông Hải cố gắng định hình xem thứ mà ông vừa sờ thấy là cái gì, nhưng không thể nào đoán đươc, đá cuội thì không thể nào vuông cạnh như vạy được. Mà lần trước cũng đã mò kỹ nhưng không hề thấy, làn nước đen khiến cho ông Hải càng khó xác định. Cầm xà beng trong tay, ông Hải mạnh dạn chọn điểm kê rồi ra sức cạy thứ đó lên. Hì hục một lúc cuối cùng vật thể lạ đó cũng được ông Hải đưa lên khỏi mặt nước. Dưới ánh đèn pin, ông Hải đang cầm trên tay một khối hình chữ nhật to đúng bằng viên gạch chỉ, chỉ có điều gạch chỉ có màu đỏ còn thứ này có màu vàng chóe, lóng lánh dưới ánh đèn pin.

Ông Hải vui sướng đến nghẹn lời :

— Thầy ơi….Vàng….vàng thật thầy ơi…

Thầy Lã giục :

— Vận khí vẫn còn, cố tìm tiếp đi…Có thể vẫn có đó.

Quả đúng như lời thầy Lã nói, sau đó ông Hải tiếp tục cạy lên được 2 viên gạch bằng vàng nữa. Lúc viên gạch vàng thứ 3 được cạy lên, nước bỗng sôi ùng ục sau đó từ màu đen chuyển thành trong vắt như màu nước vốn có trước đây. Thầy Lã kêu ông Hải leo lên, trên thành giếng ba viên gạch vàng được xếp ngay ngắn. Thầy Lã làm lễ cũng tế trời đất, cảm tạ thần giữ của xong xuôi, nhìn sang ông Hải thầy Lã khẽ nói :

— Ta đã giúp nhà anh lấy được của, ngày mai ta sẽ rời đi. Sau này cả nhà nhớ tích đức, làm việc thiện….Đừng quên chăm lo mồ mả tiên tổ cũng như những vị trí quan trọng trên mảnh đất này.

Ông Hải quỳ mọp xuống lạy :

— Con đội ơn thầy, chúng con biết ơn thầy nhiều lắm.

Thầy Lã gật đầu, bà Hoài lúc này từ trong nhà thấy ba viên gạch vàng xếp trên thành giếng, quá sung sướng bà bế cả cậu con trai đang ngủ ngon lành chạy ra. Thầy Lã đưa tay lấy một viên gạch vàng rồi khẽ nói :

— Như đã thỏa thuận từ trước, ta sẽ lấy một nửa số của tìm được. Nay ta lấy một viên gạch vàng, nửa viên còn lại ta gửi cho vợ chồng anh giúp ta cứu tế dân nghèo, người ăn xin, người bệnh tật trong làng này. Khi gà gáy ta sẽ lên đường, mọi sự ta đã dặn dò anh chị rồi, cứ thế mà làm….Càng tích đức thì càng có lợi về sau.

Nói xong thầy Lã cầm viên gạch vàng đi vào trong nhà sửa soạn đồ đạc. Bà Hoài sau khi thầy đi khuất thì cầm cả hai viên gạch suýt xoa :

— Mình ơi…..Nhiều vàng quá….Nhà mình giàu thật rồi.

Ông Hải nhìn theo lưng thầy Lã mà cảm kích vô cùng, ông nhắm mắt chắp tay :

— Cảm ơn thầy……