Hai trăm năm trước.
Chính xác là năm 2125, một cuộc chiến đã bùng nổ trên hành tinh phồn vinh này.
Cả hai bên tham chiến đều ôm quyết tâm hủy diệt đối phương hoàn toàn, sử dụng gần như mọi phương tiện có thể.
Chiến tranh chỉ kéo dài ba năm.
Nhưng chỉ trong ba năm, tất cả bề mặt Trái Đất đã bị tàn phá.
Mùa đông hạt nhân kéo dài suýt chút nữa đã dập tắt hoàn toàn ngọn lửa văn minh, cả hai phe thành công đưa nhau xuống địa ngục, cũng đồng thời chôn vùi chính mình.
Từ đó, Kỷ nguyên Hoang tàn, còn khắc nghiệt hơn cả Đại suy thoái, chính thức bắt đầu.
Dù cuộc chiến tận thế đã trôi qua hai thế kỷ và mùa đông hạt nhân cũng kết thúc từ hơn một trăm năm trước, nhân loại vẫn chưa trở lại vị trí đứng đầu chuỗi thức ăn.
Vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học, và thậm chí cả vũ khí gen đã khiến hệ sinh thái toàn cầu biến đổi theo những hướng cực đoan.
Những sinh vật đột biến, được gọi là “dị chủng,” trở thành mối đe dọa chính mà các nhóm người sống sót phải đối mặt.
Ví dụ như con chó sói hai đầu mà Chu Quang gặp khi lần đầu đến thế giới này, cũng là một trong số đó.
Nhưng ngay cả dị chủng cũng có mạnh yếu khác nhau.
Những dị chủng như chó hoang hai đầu, vốn là sản phẩm của phóng xạ gamma, thường không quá nguy hiểm, và trừ vài trường hợp may mắn, sức mạnh của chúng thậm chí còn kém cả trước khi đột biến.
Ngược lại, những sinh vật như bọn gặm nhấm, loài bò sát, vốn là sản phẩm của vũ khí sinh học, đã đột biến đến mức không thể truy lại nguồn gốc, mới thực sự là những con quái vật sinh ra để gϊếŧ chóc.
Hệ thần kinh của chúng đã bị nấm đột biến xâm lấn, ban ngày chúng thường ẩn nấp trong các công trình đổ nát, hệ thống cống rãnh, hoặc tàu điện ngầm dưới lòng đất, chỉ khi màn đêm buông xuống mới lên đường săn mồi.
Ở ngoại ô, tình hình có phần dễ chịu hơn so với trong thành phố.
Đặc biệt là ở vùng ngoại thành xa xôi.
Trong năm tháng vừa qua, dị chủng nguy hiểm nhất mà Chu Quang từng gặp cũng chỉ là một con gấu nâu đột biến. Mặc dù có sức mạnh khủng khϊếp, phản ứng của nó lại khá chậm chạp.
Chu Quang đã thận trọng tránh đi trước khi bị nó phát hiện.
Ánh sáng ban mai xuyên qua những bức tường bê tông đổ nát, cùng với bóng của những thanh thép gỉ, chiếu xuống con phố đầy xác xe và đá vụn.
Bây giờ là tám giờ sáng.
Thời gian ở đây và ở thế giới thực có sự chênh lệch khoảng mười hai tiếng so với múi giờ Đông 8.
Nhìn hai con chó hoang đột biến đang lảng vảng trên phố, Chu Quang siết chặt ống nước nhọn trong tay, cẩn thận vòng ra sau tàn tích.
Dù cậu tự tin có thể hạ chúng, nhưng không muốn gây chuyện không cần thiết.
Hơn nữa, mấy con thú này rất tinh ranh, biết dùng đồng loại làm mồi nhử, ai mà biết có bao nhiêu con đang ẩn trong bóng tối bên cạnh.
Men theo con đường nhỏ qua khu phố đổ nát.
Khi thấy tấm bảng của Công viên Trẻ em Phố Bate, Chu Quang mới thở phào nhẹ nhõm.
Phía trước chính là “Phố Bate” – một trong những khu cư trú của những người sống sót ở khu vực lân cận, với hơn trăm gia đình cư trú tại đây.
Trước khi chiến tranh bùng nổ, nơi này từng là một công viên trẻ em, có nhiều khu vui chơi và một bãi cỏ rộng lớn.
Sau chiến tranh, khu vực này được quân đội biến thành điểm trú ẩn tạm thời, tiếp nhận rất nhiều người dân chạy khỏi trung tâm thành phố Thanh Tuyền.
Còn những người tị nạn đó sau này ra sao thì không ai rõ, nhưng hai trăm năm sau, nơi này đã phát triển thành một “thị trấn nhỏ.”
Người ta tận dụng những tấm nhựa, mái hiên bỏ đi, cùng gỗ và khung kim loại để dựng lên những túp lều tạm bợ trên mảnh đất trơ trọi.
Trông chẳng khác gì cảnh tượng trong thời kỳ hỗn loạn.
Bức tường bao quanh công viên là một hàng rào tự nhiên, được tu sửa sơ sài và gia cố bằng dây thép gai cùng những tấm gỗ đóng đinh.
Ở trung tâm công viên là một lâu đài cổ năm tầng, mang phong cách cổ tích.
Nhưng lớp sơn bên ngoài đã bong tróc hoàn toàn, mặt tường hướng về trung tâm thành phố đã đổ sụp một nửa, chỉ còn lại phần phía bắc và một tháp đơn lẻ lung lay.
Cổ tích chăng? Chắc là cổ tích bóng đêm.
Mặc dù tòa nhà này đã đổ nát, nhưng nó vẫn là công trình “xa hoa” nhất trên Phố Bate.
Đồng thời, đây cũng là nơi ở của trưởng thị trấn.
Dù đã sống ở đây năm tháng, Chu Quang vẫn chưa gặp trưởng thị trấn. Ông ta rất bí ẩn, hiếm khi xuất hiện.
“Ồ, về sớm thế.”
Nhìn Chu Quang bước ra từ góc phố, lão Wat cầm điếu thuốc ngậm trên miệng nheo mắt, từ lỗ mũi phả ra một làn khói đυ.c.
Trong tay lão là một khẩu súng săn hai nòng.
Dù khẩu súng trông đã cũ kỹ, nhưng không ai nghi ngờ sức mạnh của nó.
Chu Quang từng tận mắt thấy lão chỉ cần hai phát đạn để hạ gục một con gấu nâu đột biến lao điên cuồng về phía cổng Phố Bate.
Từ lần đó, Chu Quang luôn khao khát có được một khẩu súng như thế.
“Tối qua có chút việc ngoài kia.”
“Bên ngoài?”
Lão Wat liếc nhìn thanh ống nước nhọn sau lưng Chu Quang, nhướng mày ngạc nhiên.
Không ai hiểu rõ độ nguy hiểm của ban đêm hơn lão.
Mỗi lần trực đêm, ngón tay lão không bao giờ rời cò súng, chỉ cần một chút động tĩnh cũng đủ khiến toàn thân căng thẳng.
Dù dị chủng ở vùng ngoại thành không nguy hiểm như trong trung tâm, nhưng vẫn có quá nhiều kẻ cướp dòm ngó nơi này.
Nếu lọt vào tay chúng, kết cục cũng chẳng tốt đẹp gì hơn là bị dị chủng ăn thịt.
Lão Wat không tin nổi chỉ với một thanh sắt, cậu chàng này lại sống sót qua một đêm trên vùng đất hoang tàn.
“Gặp chút trục trặc thôi.”
Chu Quang không giải thích nhiều, chỉ trao cho lão một ánh mắt mệt mỏi để lão tự suy diễn, rồi đi thẳng qua cổng khu cư trú.
Phố Bate chỉ có một tiệm thu mua phế liệu, rất dễ tìm, ngay cạnh cổng chính khu cư trú.
Dưới cửa cuốn đặt một chiếc cân điện tử cũ kỹ luôn sai số, bên cạnh dựng tấm biển “giá cả phải chăng, không gian lận.”
Tiệm này là tài sản của trưởng thị trấn, và cũng là nơi duy nhất ở Phố Bate mua lại phụ tùng cũ và da chuột chũi đột biến.
Để độc chiếm việc mua bán phế liệu, vị lãnh chúa độc tài này thậm chí đã ban hành một bộ luật.
Đó là: tất cả mọi người không được phép tự ý bán đồ săn bắt được hay phế liệu nhặt được cho các đoàn thương nhân đi qua.
Lý do được đưa ra là nhằm đảm bảo hàng hóa ở Phố Bate có thể bán ra với giá hợp lý, không bị các “thương nhân xảo trá” ép giá.
Luật lệ ngang ngược này có thể được chấp nhận phần nào vì những người sống sót ở đây còn khá mù mờ.
Mà các đoàn thương nhân cũng không mạo hiểm chọc giận vị lãnh chúa này chỉ để mua vài món phế liệu nhỏ từ các kẻ nhặt rác.
Họ chỉ buôn bán những thứ lớn.
Và chỉ buôn bán với những người đáng tin.
“Bán hay mua?”
Người chủ tiệm là một ông lão khoảng 50 tuổi, tên là Charlie.
Nghe nói trước kia ông là cư dân của một khu trú ẩn ở tỉnh ngoài, sau đó bị bắt làm nô ɭệ, cho đến khi được thị trưởng mua lại từ tay một chủ nô. Công việc giao dịch với những kẻ nhặt rác được giao cho ông.
Hầu hết cư dân ở đây là “người hoang tàn” bản xứ, không hề có chút giáo dục, toán học cũng rất kém, đến mức phép cộng trừ dưới 100 cũng có thể tính sai.
Nhưng Charlie thì khác.
Ông từng sống trong khu trú ẩn.
Dù các khu trú ẩn trên vùng đất hoang này không hề giống nhau hoàn toàn, nhưng chúng có một điểm chung.
Những người sống ở đó đều là những tinh hoa của xã hội trước chiến tranh, và con cái của họ không chỉ thừa hưởng trí tuệ của cha mẹ, mà còn được tiếp thu nền giáo dục tốt từ nhỏ.
Nếu thế giới này không rơi vào cảnh tồi tệ như vậy, hẳn ông cũng sẽ trở thành một kỹ sư, bác sĩ, hoặc học giả như cha mình.
Chứ không phải ngồi đây ghi sổ sách.
“Bán.”
Không nói thêm lời nào, Chu Quang lấy ra 6 cục pin cũ và 5 ống keo dính từ ba lô, đặt lên bàn cân điện tử.
Đây là đồ cậu nhặt được từ đống tàn tích của các tòa nhà lân cận trước khi tìm thấy khu trú ẩn số 404.
Lão Charlie nhặt lên vài cục pin trên bàn, kiểm tra qua loa xem chúng có bị phồng hoặc hư hỏng không, rồi ném chúng lên cân.
Mấy thứ này hẳn là đã hỏng, nhưng vẫn có thể tái chế nguyên liệu bên trong.
“Chất lượng tạm được đấy. Khu này phế liệu chắc cũng nhặt sạch rồi, làm sao mà cậu tìm được mấy món tốt này?”
Mấy thứ này mà cũng gọi là “tốt” sao?
“Gặp may thôi.”
“Haha, tôi chỉ hỏi vậy thôi. Ừm, pin ổn đấy, nhưng keo dính thì chất lượng bình thường. Niêm phong đã bị mở, có lẽ bên trong cũng hỏng hết rồi. Tôi chỉ tính cho cậu 50% giá thôi… Tất cả được 3 điểm.”
Chu Quang nhận 3 đồng nhựa trắng từ tay ông mà không mặc cả.
Những đồng nhựa này là “tiền tệ” do Thạch Thành, khu cư trú lớn nhất của những người sống sót ở thành phố Thanh Tuyền, phát hành.
Chúng có thể đổi lấy thức ăn và nhu yếu phẩm ở hầu hết các khu cư trú quanh thành phố.
Mặt trước đồng nhựa in giá trị, mặt sau có mã chống giả và hình in đặc biệt, dưới ánh nắng sẽ hiện ra ánh sáng đặc biệt.
Loại nhựa này chịu nhiệt tốt, dễ bảo quản, độ nhận diện cao và đặc biệt là với công nghệ sau chiến tranh thì khó mà làm giả.
Ở những khu cư trú nhỏ như Phố Bate, không có khả năng công nghiệp, chủ yếu giao thương với các đoàn buôn của Thạch Thành, trao đổi nông sản, thịt thú săn được, và phế liệu để lấy nhu yếu phẩm, thậm chí cả vũ khí.
Tự nhiên, loại tiền này cũng được lưu hành trong Phố Bate.
Tất nhiên, không phải lúc nào nó cũng dùng được. Nếu tháng nào không có đoàn buôn đến, cả khu cư trú sẽ loạn giá.
Thị trưởng từng thử phát hành tiền riêng của Phố Bate – một dạng phiếu ghi nợ, nhưng chẳng ai thèm công nhận.
Người dân Phố Bate đều hiểu rằng loại giấy ấy còn không dùng nổi để lau, không khác gì giấy vụn.
“Muốn mua gì không? Tiệm tôi vừa nhập đợt hàng mới từ Thạch Thành.”
Chu Quang định rời đi, nghe vậy liền quay lại hỏi.
“Có súng không?”
“Không có đâu, có thì cậu cũng không mua nổi.”
Lão Charlie cười nhếch mép, nhìn Chu Quang đang định rời đi và nói thêm.
“Nhưng đồ ăn và nhiên liệu thì có đấy. Nếu là tôi, tôi sẽ tranh thủ mua trước khi tăng giá.”
Những thứ như súng, dù loại rẻ nhất, cũng rất khó tìm ở Phố Bate.
Vì nếu có đoàn buôn bán vũ khí ghé qua, vũ khí sẽ được đưa thẳng vào kho của thị trưởng, không bao giờ bày ra để ai cũng mua được.
Hơn nữa, như lão Charlie đã nói, dù có thứ đó thật, những kẻ nhặt rác như họ cũng không mua nổi.
Chu Quang hiểu vì sao lão nói thế.
Là người từng được giáo dục đàng hoàng trong khu trú ẩn, Charlie hẳn đã nhận ra tất cả người sống ở Phố Bate, dù là nhặt rác hay săn bắn, đều bị gia đình thị trưởng vắt kiệt giá trị thặng dư.
Dù thị trưởng chưa bao giờ trực tiếp lấy đi của họ một xu nào.
“Giá đồ ăn và nhiên liệu sẽ tăng sao?”
Charlie nhìn Chu Quang, người có vẻ ngạc nhiên, khẽ cười đáp.
“Cậu không nhận thấy sao? Dạo này trời đang lạnh dần, còn lũ dị chủng bên ngoài bắt đầu hoạt động mạnh hơn.”
Chu Quang nhíu mày suy nghĩ một lúc, rồi chợt hiểu ra điều gì đó, lên tiếng:
“Mùa đông sắp đến rồi?”
“Tôi nhớ cậu mới đến đây được năm tháng, nên chưa trải qua. Thường thì lúc này thời tiết sẽ dần lạnh đi. Năm nay… có lẽ mùa đông sẽ đến sớm, không chừng tháng 10 có tuyết rơi rồi.”
Nói đến đây, Charlie ngừng lại, đầy hàm ý.
“Đông sắp đến rồi.”
“Cả con người lẫn dị chủng đều phải chuẩn bị trước.”
Lúc mới đến Phố Bate, Chu Quang mặc một chiếc áo khoác xanh, Charlie vô thức coi cậu là người từ khu trú ẩn nên cũng chiếu cố cậu.
Dù sự chiếu cố này chưa bao giờ thể hiện qua giá cả giao dịch, nhưng lão thật sự giúp Chu Quang ít nhiều kinh nghiệm.
Nếu không, chắc cậu cũng không thể nhanh chóng thích nghi với cuộc sống trên vùng đất hoang.
Chu Quang gật đầu nghiêm túc.
“Tôi hiểu rồi, cảm ơn ông.”
“Không có gì,” Charlie khẽ cười, “đừng chết đấy.”
Bây giờ đã là đầu tháng Chín, nếu tháng Mười mà tuyết rơi thì thời gian chuẩn bị của Chu Quang chỉ còn hơn một tháng.
Đối với những người sống sót trong khu vực này, tuyết rơi tuyệt đối không phải chuyện vui. Điều đó có nghĩa là ngoài đồ ăn, họ còn phải mua thêm nhiên liệu.
Đa số người ở đây sống nhờ nhặt rác và săn bắt, nông trại gần đó chỉ cần người vào mùa vụ.
Vào mùa đông, nhặt rác sẽ khó khăn gấp bội, không ai đoán trước được thứ chôn dưới tuyết là bộ phận có thể tái sử dụng hay là nanh của chuột đột biến.
Còn những loài cung cấp thịt như hươu và thỏ sẽ giảm bớt thời gian hoạt động, thậm chí ở yên trong hang tránh rét.
Điều đáng ngại nhất là, khi vào đông, các đoàn buôn sẽ không đến đây nữa. Dù có nhặt được đồ tốt cũng chỉ có thể chất đống ở nhà, đợi đến mùa xuân năm sau mới bán được.
Hoặc là liều mình đi 10 km đến Thạch Thành.
Đó là khu cư trú lớn nhất ở thành phố Thanh Tuyền, dù là mùa đông thì chợ vẫn mở cửa.
Nhưng vị trí của nó lại nằm trên đường vành đai 3 của thành phố Thanh Tuyền, sát khu Bắc, một chặng đường đầy rẫy nguy hiểm.
Với người bình thường, đi bộ đến đó, nhất là trong mùa đông lạnh đến âm 10 độ, chẳng khác nào tự sát!
Rời khỏi tiệm thu mua, Chu Quang quay về nơi ở.
Nói là nơi ở thì không bằng gọi là một túp lều tạm, chẳng có cửa sổ hay cửa ra vào cho đàng hoàng.
Mãi đến hôm qua, cậu vẫn còn nghĩ sẽ gom ít xi măng, tấm nhựa PVC và các vật liệu khác, tranh thủ xây lại bức tường hở trước khi mùa đông đến.
Nhưng bây giờ có lẽ đã không còn cần thiết nữa.
Cậu lục tìm trong chiếc túi ngủ mốc meo, lấy ra một hộp thiếc rỉ sét, khó khăn cạy nó ra và đổ đám đồng nhựa ra chiếc bàn gỗ chân què.
Tổng cộng 47 đồng trắng mệnh giá 1 điểm.
Tính cả 3 đồng vừa kiếm được, đúng 50 điểm!
Số tiền này là cậu chắt chiu, từng chút tích lũy, để một ngày nào đó có thể rời khỏi nơi tồi tệ này, chuyển đến Thạch Thành, nơi có điều kiện tốt hơn.
Nhưng bây giờ thì…
Cậu đã có một kế hoạch mới cho “tài sản” này.
Có thể tự lập, hà cớ gì phải dựa vào người khác?
"Tàn tích của viện điều dưỡng trên khu trú ẩn có thể tận dụng được, tường bao quanh cũng là cấu trúc bê tông... nếu có người chơi giúp sức, việc tìm kiếm vật liệu xung quanh và sửa chữa chắc cũng không quá khó."
"Khu vực gần viện điều dưỡng là công viên đất ngập nước, việc thu thập phế liệu kim loại hơi bất tiện, nhưng thảm thực vật xung quanh khá phong phú, nên chắc không thiếu nhiên liệu để sưởi ấm. Ngoài ra, gỗ còn có thể dùng để sửa chữa và làm đồ nội thất… Đúng rồi, phải mua bốn cái rìu nữa."
Luyện cấp đánh quái?
Không hề có!
Đây là trò chơi sinh tồn thực tế 100%, đã là trò chơi sống còn thì phải bắt đầu từ những việc cơ bản nhất!
"Cả xẻng và cưa cũng cần phải có!" Người chơi còn chưa vào game, nhưng Chu Quang đã sắp xếp sẵn công việc cho họ rồi.
Tất nhiên, ngoài dụng cụ lao động, thì còn một thứ quan trọng nhất: thức ăn.
Khi buồng nuôi dưỡng được kích hoạt, nó sẽ tiêu hao vật chất hoạt tính dự trữ bên trong để tạo ra cơ thể nhân bản cho người chơi.
Và những cơ thể nhân bản này cũng cần ăn uống!
Dù khi người chơi không online, cơ thể nhân bản có thể nằm trong buồng nuôi dưỡng để nghỉ ngơi với mức trao đổi chất thấp, nhưng không thể nằm đó mãi.
Người sống là phải ăn, đó là quy luật muôn thuở!
"Ít nhất phải dự trữ đủ lương thực cho năm người lớn trong một tuần… nếu tính mỗi ngày hai bữa, mỗi bữa một bánh mạch, thì cần 70 cái bánh."
Bánh mạch là thực phẩm phổ biến nhất ở Phố Bate, chỉ cần 1 điểm là mua được một cái.
Loại bánh này to cỡ bàn tay, có thể trộn thêm vỏ cây hoặc sợi thực vật khác, ăn vào cảm giác rất cứng và thô ráp, như thể có lẫn cát, nhưng có thể no bụng và bổ sung chút muối.
Cho vào nồi nấu thành cháo cũng được.
70 cái bánh, nếu mua thì cần 70 điểm, dù mặc cả cũng phải tốn ít nhất 60 điểm. Vậy là cậu đã vượt ngân sách.
Chu Quang chau mày, nhưng nhanh chóng thư giãn.
Hình như cậu đang nghĩ quá phức tạp.
Thật ra không cần cho người chơi ăn ngon.
Nếu đổi bánh mạch thành nguyên liệu thô - lúa xanh từ nông trại gần đây - thì chỉ cần 3 điểm là mua được hẳn 1kg!
Tích trữ 5kg là đủ cho vài ngày!
Nếu thiếu, có thể học người sống sót ở Phố Bate mà trộn thêm vỏ cây hoặc rễ cây vào.
Còn những thứ khác, đến lúc đó tính tiếp.
“Vậy tạm thời cứ chuẩn bị những thứ này là được…”
Sau khi thu dọn số điểm đã phân chia, Chu Quang bỏ vào ba lô, rồi đeo ba lô lên vai.
Dù cả đêm không ngủ, nhưng lúc này tinh thần cậu lại phấn chấn, như thể đã tìm lại được ý nghĩa của cuộc đời, chẳng cảm thấy buồn ngủ chút nào.
Khi bước ra ngoài, cậu thấy cô bé hàng xóm đang đứng trước cửa nhà kế bên, tò mò nhìn về phía mình.
Chu Quang nhớ cô bé tên là Dư Tiểu Ngư, con gái út của nhà họ Dư.
Phần lớn những người sống sót trên vùng đất hoang đều có dáng vẻ gầy gò, Dư Tiểu Ngư cũng không ngoại lệ, tay chân mỏng như que củi, khó tin là cô bé đã đến tuổi gả chồng.
Thấy Chu Quang chú ý, cô bé không ngại ngần bước ra từ căn nhà.
“Em nghe thấy nhà anh có động tĩnh nên đến xem.”
Mỗi khi trời sáng, đàn ông ở Phố Bate đều ra ngoài nhặt rác hoặc săn bắt, người già và phụ nữ thường ở nhà trông nhà hoặc làm việc kiếm tiền.
Dù ai cũng nghèo rớt, bữa đói bữa no, chẳng có của cải gì, nhưng không ai muốn bị người khác lợi dụng khi vắng nhà.
Chu Quang là người mới đến, ít giao lưu với hàng xóm, sáng đi tối về.
Cô không biết nhiều về anh, chỉ cảm thấy anh trông có vẻ không hợp với cuộc sống vất vả này.
Lúc đầu, mọi người đều đề phòng anh, mẹ cô cũng bảo cô để ý kẻ ngoại lai này.
Nhưng Tiểu Ngư không thấy anh là người xấu, bởi có lần anh nấu canh trước cửa và chia cho cô một bát.
“Cảm ơn.”
“Không có gì, khi anh ra ngoài em có thể trông nhà giúp.” Cô bé cười tinh nghịch, nháy mắt, “Dù sao cũng rảnh mà.”
Đứa trẻ đáng thương.
Nếu ở thế giới khác, độ tuổi của cô bé bây giờ hẳn vẫn còn đi học.
Không muốn để lộ sự thương cảm, Chu Quang giữ nét mặt bình thản, rút một cây kẹo mυ'ŧ từ túi và nhét vào tay cô.
“Cầm ăn đi.”
“Đừng nói với ai là anh cho.”
“Bằng không, sau này sẽ không có nữa.”
Cô bé chưa bao giờ thấy loại thức ăn này.
Dư Tiểu Ngư cắn thử lớp giấy gói, thấy không cắn được, mới nhận ra lớp vỏ ngoài phải bóc ra.
Đôi mắt đen tròn của cô chăm chú nhìn viên kẹo đỏ gắn trên que nhựa, cô rụt rè thè lưỡi nếm thử.
“Đây… đây là vị gì vậy?!”
Ngọt quá!
Mắt cô bé ánh lên như có những ngôi sao nhỏ, hạnh phúc ngẩng đầu lên định nói lời cảm ơn.
Nhưng người đã cho cô viên kẹo, giờ đã đi xa.