Ngụy Báo hay tin Hạng vương kéo quân đến, vội vàng hói chư hầu và chư tướng thương nghị, rồi chia quân ra làm năm đạo: Ðạo thứ nhất: Ân vương Tư Mã Ngang. Ðạo thứ nhì: Lạc Dương vương Thần Dương. Ðạo thứ ba: Thường Sơn vương Trương Nhĩ. Ðạo thứ tư: Hán vương và chư tướng. Ðạo thứ năm: Ngụy Báo tự lãnh Nguyên nhung đi áp hậu.
Cắt đặt xong, Ngụy Báo sai Tư Mã Hân, Ðổng Ể và Lưu Trạch giữ Bành Thành, làm quân ứng tiếp.
Ngày hôm sau, Ngụy Báo nai nịt gọn gàng, lên ngựa ra khỏi thành năm dặm, bày sẵn trận thế rồi đem năm đạo nhân mã tiến phát.
Bỗng thấy trong đám cờ Long phượng nhật nguyệt, Hạng vương cỡi ngựa Ô truy, cầm trường thương xông đến hét lớn?
- Lưu Bang, hãy ra đây chịu trói.
Ðạo quân thứ nhất của Hán là Tư Mã Ngang ra tiếp chiến. Hạng vương nổi giận mắng:
- Thằng nghịch tử! Ta không phụ ngươi, sao người lại nỡ phản ta?
Tư Mã Ngang nói:
- Ðại vương gϊếŧ vua Nghĩa Ðế, hành động ấy tôi không phục, nên bỏ về Hán.
Hạng vương hét lên như sấm, làm cho Tư Mã Ngang thất kinh ngã nhào xuống ngựa. Hạng vương bước tới đâm một thương, Tư Mã Ngang định đưa thương ra đở nhưng con ngựa của Hạng vương lướt tới mau. Tư Mã Ngang đỡ không kịp, bị một thương chết tốt.
Hạng vương thúc quân truy sát ngót một dặm, thì gặp đạo quân thứ hai của bên Hán là Thân Dương kéo đến.
Hạng vương mắng:
- Phản tặc? Ngươi dám phụ ta, bỏ Sở đầu Hán sao?
Thân Dương nói:
- Hán vương có đức, thiên hạ quy phục. Ðến như Ðại vương cũng nên đầu hàng mới phải.
Hạng vương nổi giận, vung trường thương đâm tới.
Thân Dương ban đầu còn lui tránh,. sau bị Hạng vương đánh riết quá không tránh đỡ được nữa.
May thay, giữa lúc đó đạo quân thứ ba của Hán do Thương Nhĩ cầm đầu, kéo đến kịp, phụ lực.
Hai tướng hợp sức đánh với Hạng vương được mươi hiệp, nhưng rồi cũng đuối sức, không làm sao chịu nổi cây thương quả nặng của Hạng vương.
Thân Dương bấn loạn, bị Hạng vương chém chết, Thương Nhĩ không dám đánh nữa, lui quân bỏ chạy. Quân Sở ồ ạt đuổi theo, được một lúc, gặp Hán vương và chư tướng dẫn đạo binh thứ tư kéo đến.
Hạng vương sai quân gọi Hán vương ra nói chuyện.
Trong đám cờ tán rợp trời, trống chiêng dậy đất,
Hán vương cưởi ngựa bạch long xông ra, Hạng vương nhìn mặt nghiến răng nói:
- Lưu Bang, mi là một tên Ðình trưởng trên sông Tứ, được phong làm Hán vương, còn chưa biết phận, dám manh tâm gây loạn. Ta bảo ngươi, nếu đám đánh với ta ba hiệp, ta giao cả sơn hà cho, bằng không, hãy gục mặt dưới chân ngựa ta mà chết đi cho rồi!
Hán vương nói:
- Ngươi là đứa bạo nghịch, chớ cậy sức khỏe nói càn. Ta không đánh ngươi bằng sức mạnh, ta chỉ đánh ngươi bằng lòng nhân, ngươi cũng đủ chết rồi?
Hạng vương cầm thương xốc đến. Bọn Phàn Khoái, Chu Bột, Sài Vũ, Lư Quán và Ngân Cường, vội thúc ngựa ra đấu chiến.
Hạng vương đánh luôn năm tướng một lượt, cát bụi bụi mù mịt, tiếng gươm giáo chan chát.
Ðược một lúc, bên Sở, bọn Hạng Trang, Hoàn Sở, Quí Bố và Ngu Từ Kỳ kéo binh đến trợ chiến.
Tướng Hán cự không lại bỏ chạy, ba quân rối loạn, đạp nhau chết rất nhiều. Hạng vương thúc quân đuổi theo. Bỗng thấy một đội quân từ sau trận kéo đến, cản binh Sở lại.
Thì ra, đạo binh đó là đạo binh của Hán Nguyện Soái Ngụy Báo. Hán vương bấy giờ mới hoàn hồn.
Ngụy Báo vỗ ngựa, chận Hạng vương lại.
Hạng vương trông thấy Ngụy Báo hét lớn:
- Nhà ngưoi cũng phản Sở sao?
Ngụy Báo nói:
- Ðại vương cậy mạnh, bạc đãi chư hầu, gϊếŧ vua Nhĩa Ðế, thiên hạ đều ly loạn, Tôi không dám trái mệnh trời, nên phải về giúp Hán. Ðại vương nên lui binh thủ phận, nếu đối địch với Hán, tôi e mất cả uy danh.
Hạng vương nổi giận, xốc ngựa tới đâm một thương, Ngụy Báo rước đánh.
Ngụy Báo dầu có sức mạnh, nhưng không tài nào địch nổi Hạng Bá, vừa đánh được ba hiệp, tay chân bủn rủn, quay ngựa bõ chạy.
Hạng vương xua binh đuổi theo truy sát, quân Hán thây nằm chật đất, máu chảy dầm đường.
Trong lúc rối loạn, bỗng có quân đến báo:
- Tư Mã Hân và Ðổng Ê đã mở cửa thành Bành Thành, đón quân của Sở vào rồi.
Hán vương thất kinh, tay chân run rẩy, ngứa mặt lên trời than:
- Ðại binh đã tan rã, Bành Thành mất tất Thái công bị gϊếŧ rồi. Việc này do ta gây nên cả, nếu nghe lời Trương Lương, Hàn Tín thì đâu đến thảm bại!
Than chưa dứt tiếng đã thấy bốn tướng Sở xua quân đến phủ vây đông nghịt. Hán vương trông trước nhìn sau, tướng tá mình đâu mất hết, chỉ còn có mấy trăm quân kỵ theo hầu.
Trời đã tối, Hán vương. tưởng mình không thể nào tránh khỏi tử thần được, mạng sống chỉ còn là sợi chỉ treo chuông.
Bỗng một luồng gió Ðông thổi tới bốn phương trời cát bụi mịt mù. Quân của Hạng vương đang vây phủ thấy vậy hoảng sợ, chạy tứ tán.
Trời tối như mực, không thấy bóng người, Hán vương thấy phía trước có đốm lửa sáng liền cho ngựa lần tới. Chẳng bao lâu ra khỏi vòng vây, xa tiếng quân reo.
Hán vương chạy ước hai mươi dặm, dông gió mới tạnh, và trời cũng bắt đầu rừng sáng.
Hạng vương kiểm điểm quân mã, không tìm thấy Hán vương đâu, lòng căm tức vô cùng.
Phạm Tăng thở dài nói:
- Thôi! Lưu Bang lại trốn thoát rồi. Lần này không bắt Lưu Bang thì còn đợi lúc nào nữa.
Hạng vương liền sai Ðinh Công và Ung Sĩ đem ba ngàn quân truy nã.
Hai tướng được lệnh, cứ hướng Ðông Nam đuổi theo.
Bấy giờ, Hán vương một người một ngựa đang đào tẩu, bỗng thấy phía sau, cát bụi mịt mù, tiếng quân reo hò tở mở.
Tướng Sở là Ðinh Công trông thấy Hán vương vội thúc ngựa đến, Hán vương không kịp tránh, không biết làm sao, bèn vái Ðinh Công, nói:
- Bang tôi đến nước này, thực không còn đường trốn thoát. Nếu ông tha tôi, ngày sau tôi chẳng dám quên ơn!
Còn nếu như không thương kẻ cô cùng này, tôi đành chịu trói vậy
Ðinh Công nói:
- Việc tôi đuổi theo ngài là lệnh vua, tôi không dám trái mệnh. Thực lòng tôi không hề muốn hại ngài. Thôi thì ngài cứ rẽ cương sang hướng Ðông mà chạy, tôi giả vờ bắn theo mấy phát tên để cho quân sĩ khỏi nghi ngờ.
Hán vương tạ ơn, rẽ cương chạy về phía Ðông, Ðinh Công rút tên bắn theo ba phát, làm ra cách cố đuổi bắt. Ðoạn, quảy ngựa trở về, gặp Ung Sĩ đang thúc quân tiến tới.
Ung Sĩ nói:
- Túc hạ đã rượt kịp Hán vương sao còn trở lại.
Ðinh Công đáp:
- Tôi đuổi theo gần kịp, nhưng con bạch mã của Hán vương chạy quá mau, tôi bắn theo ba phát tên nhưng không trúng. Hán vương chạy thoát về phía rừng rậm, tôi sợ phục binh, không dám mạo hiểm vào một mình.
Ung Sĩ nói:
- Sao túc hạ bất tài thế! Ðã theo kịp còn để cho Hán vương trốn thoát thì còn gì là thể diện. Tôi đoán Hán vương còn quanh quẩn trong rừng, chưa chạy đâu xa, vậy chứng ta khá hiệp sức tiến binh truy nã.
Nói rồi cùng Ðinh Công băng rừng đuổi theo.
Hán vương chạy suốt một ngày đêm, người mỏi ngựa mệt, lúc đó trời đã gần tối, đàng sau quân Sở reo ó vang lừng, lòng Hán vương rối loạn, không biết nên chạy về hướng nào thoát nạn, chợt thấy bên đường có cái giếng cạn, Hán vương liền bỏ ngựa, nhảy xuống giếng núp.
Ung Sĩ đi qua, không để ý, trời lại tối, nên cứ thẳng đường đi tới.
Quân Ung Sĩ qua rồi, Hán vương mới hoàn hồn, lấy gươm khoét đất làm bậc leo lên. Cũng may, giếng cạn và không có nước.
Khi lên được mặt đất, Hán vương đi tìm ngựa, thì thì con bạch mã cách đó năm mươi thước, đang núp mình trong bụi rậm.
Ôi! May thay? Hán vương thoát chết, lên ngựa rẽ cương quay về hướng khác.
Bóng tối chập chùng, xa xa có tiếng gà gáy, chó sủa trong quãng rừng sâu, lại thấy một đốm lửa leo lét cách đó vài dặm.
Hán vương bụng đói như cào, đoán chắc nơi ấy có nhà ở, liền dong ngựa lần đến.
Quả nhiên, đi bộ vài dặm thì gặp một tòa trang viện rất lớn, xung quanh tòng, bá bao vây. Chính giữa có một cánh cửa đóng kín.
Hán vương gọi cửa, có một ông lão bước ra mở và hỏi:
- Khách ở xứ nào, có việc gì qua đây trong canh vắng?
Hán vương nói:
- Tôi là Hán vương, vua xứ Bao Trung, nhân đi đánh Sở bị bại binh đến đây, xin lão trượng cho trọ nhờ một đêm.
Ông lão ngước nhìn thấy Hán vương giáp vàng, áo đỏ lật đật sụp lạy và nói:
- Lão phu vốn nghe tiếng Ðại vương là bậc nhân dực trong thiên hạ, ngày nay quá bước đến tệ ấp, lão phu không biết, xin Ðại vương tha tội chết.
Hán vương đỡ ông lão dậy, hỏi họ tên.
Ông lão nói:
- Lão họ Thích, có trang trại ở đây đã năm đời, nên người ta thường gọi là Thích gia trang.
Hán vương hỏi:
- Sống trong rùng núi thế này chẳng hay lão trượng có con cái chi chăng?
Ông lão tâu:
- Tâu Ðại vương, lão phu hiếm hoi, không có con trai, chỉ có một gái năm nay mười tám tuổi. Trước đây, vị thầy tướng tên Hứa Phụ có nói con của lão phu sau này hưởng đại quý. Nay vạn hạnh gặp Ðại vương đây, lão phu muốn đem tiện nữ hầu dưới trướng, chẳng biết thánh ý có rộng lượng cho chăng?
Hán vương nói:
- Ta trốn nạn đến đây, được lão trượng trọng đãi, đó là may lắm rồi, còn dám đâu nghĩ đến chuyện đó.
Thích ông liền gọi con gái mình là Thích Cơ ra lạy chào.
Dưới đèn, bóng hoa muôn vẻ, Hán vương lòng thấy bồi hồi, liền cởi chiếc đai ngọc trao cho Thích ông làm lễ sính.
Thích ông mừng rỡ thu nhận, và ngay đêm ấy sửa soạn đuốc hoa.
Hán vương ở đấy vài hôm, rồi nói với Thích ông:
- Quân Hán vừa đại bại, tướng lãnh thất lạc, tôi đâu dám quyến luyến mãi nơi đây. Vậy tôi xin tạm biệt, lo việc thu góp tàn quân, lúc nào thư thả sẽ xin đón lệnh ái.
Thích ông không dám cố lưu, làm lễ tiễn đưa ra khỏi gia trang, theo con đường lớn đi thẳng về hướng Nam.
Vừa được mươi dặm, bỗng thấy một toán quân mã từ xa kéo đến, cát bụi mịt mù. Hán vượng vội vã lẩn trốn vào rừng.
Chẳng ngờ toán quân đó là toán quân của Hạ Hầu Anh đi tìm Hán vương.
Hán vương trông thấy mừng rỡ chạy ra hỏi:
- Ngươi làm thế nào mà ra khỏi được Bành Thành?
Hạ Hầu Anh nói:
- Nhân khi Tư Mã Hân và Ðổng Ể hàng Sở, Thái công và nương nương đều bị hãm, tôi ráng sức công phá để mở đường đưa hoàng tộc ra,. nhưng vì thế cô không làm nổi, phải trốn ra cửa Tây. Cũng may, vừa lúc đó quân Sở đang bắt hai vị điện hạ để ngồi trên ngựa định đưa về dinh, tôi vội vàng đánh lui quân Sở, giải cứu được. Ra khỏi thành, tôi tập hợp được vài nghìn sĩ tốt đi tìm Ðại vương đây.
Hán vương khóc lớn, nói:
- Tính mệnh Thái công không biết ra sao? Còn hai đứa con nít này đáng gì mà phải bận lòng tướng quân?
Hạ Hầu Anh nói:
- Thái tử là gốc của thiên hạ, Ðại vương nếu được thiên hạ mà không có thái tử thì sao yên được lòng dân?
Hán vương gọi hai đứa con đến nói:
- Hầu tướng quân liều chết trong đám muôn quân mà cứu anh em mày, chúng mày phải ghi nhớ, ngày sau đừng phụ ơn. Hai người con quay lại, phục lạy Hạ Hầu Anh, tỏ sự tri ân. Hạ Hầu Anh vội đỡ dậy, rồi quỳ xuống đất nói:
- Ðó là nhờ hồng phúc của Chúa thượng, chứ sức tôi làm gì nổi chuyện đó.
Ngày hôm ấy, quân Hán đóng trên bờ sông Biện, vua tôi, cha con đang ăn uống, bỗng có quân vào báo:
- Nơi ven sông có một toán quân mã kéo đến, cát bụi mịt mờ.
Hán vương nói:
- Ðó là quân của ta đến cứu chứ không phải địch quân đâu.
Hán vương nói vừa dứt lời quả nhiên thấy tinh kỳ đỏ ối kiếm kích chói lòa, một lá cờ đề mấy chữ lớn: "Hưng Lưu phá Sở Ðại Nguyên soái Hàn Tín". Và một lá cờ đề "Tư Ðồ Trương Lương".
Nguyên là Trương Lương và Trần Bình chiêu tập được ba vạn tàn quân chạy thất lạc, dùng thêm cờ hiệu của Hàn Tín đi tìm Hán vương.
Hán vương trông thấy mừng rỡ nói:
- Hai người can ta không nên xuất quân vội. Bởi vì ta không nghe nên chịu thảm bại. Giờ đây hai người lại chịu khó tìm đến cứu ta, thật là may mắn. Ta khổ vì Ngụy Báo không biết đùng quân khiến cho năm mươi sáu vạn quân mang lấy tai ương thảm khốc.
Trương Lương nói:
- Việc đã qua, xin Ðại vương chớ nên lấy đó làm ân hận. Chỗ này trống trải, không phải là chỗ đóng quân.
Ðại vương nên lui về Huỳnh Thành, dưỡng uy sức nhuệ chỉnh đốn ba quân, rồi dùng Hàn Tín làm Nguyên soái
mới có thể trả thù cho Ðại vương được.
Hán vương theo lời, truyền thu quân đến Huỳnh Dương.
Quan Thái thú Huỳnh Dương là Hán Quất Hưu nghe quân Hán tới, vội mở cửa thành nghênh tiếp.
Hán vương cùng Trương Lương, Trần Bình, Hạ Hầu Anh và quân sĩ kéo thẳng vào trong thành.
Phàn Khoái, Chu Bột, và Vương Lăng được tin cùng lục đυ.c kéo đến.
Còn Ngụy Báo vì xấu hổ, không dám đến Huỳnh Dương, tự lui về Bình Dương.
Nhắc lại Ðinh Công và Ung Sĩ đuổi theo Hán vương suốt đêm mà không tìm được, sáng hôm sau trở về báo lại với Hạng vương:
- Lưu Bang chạy đã xa, chúng tôi không theo kịp.
Phạm Tăng nói:
- Lưu Bang bị thua vì Ngụy Báo cầm quân. Nếu là Hàn Tín thì chưa chắc quân ta đã địch nổi.
Hạng vương cười lên nói:
- Hàn Tín ta đã biết tài rồi, quân sư bất tất phải tâng bốc. Nếu Hàn Tín thật có tài sao không theo Hán vương đến đánh Bành Thành, để cho Hán vương phải thua trận Truy Thủy vừa rồi?
Phạm Tăng cúi đầu không đáp. Giữa lúc đó có quân báo:
- Tư Mã Hân và Ðổng Ể bắt Thái Công và Lã Hậu đem nạp.
Hạng vương cho gọi vào quát mắng:
- Ta phong cho hai người ở Trung Tần là nơi trọng yếu thế mà lúc Chương Hàm thua, các ngươi không tiếp cứu, đợi cho quân Hán đến dâng thành đầu hàng. Nay thấy Lưu Bang thua lại bỏ Hán về Sở, các người thật là những đứa tiểu nhân phản phúc.
Nói xong, sai võ sĩ dẫn Ðổng Ể và Tư Mã Hân ra pháp trường xử trảm.
Ðoạn gọi Thái Công đến dưới trướng mắng:
- Con của nhà người là Lưu Bang ta đã phong cho đất Hán trung, lẽ ra phải biết ơn ta, lại sanh lòng phản phúc, đem quân cướp Quan Trung phạm đến Bành Thành. Một người làm phản, ba họ bị tru di. Nay ta bắt được nhà ngươi, nhà ngươi khó lòng thoát chết được.
Nói xong, toan gọi vũ sĩ đem Thái Công ra chém, Phạm Tăng vội vàng can:
- Lưu Bang tuy bị thua, song Hàn Tín ở Quan Trung đang sắp sửa phục hận. Ta nên giữ Thái Công lại làm con tin, khiến cho Lưu Bang phải hệ niệm, không dám phạm đến ta. Còn gϊếŧ đi chỉ gây thêm lòng căm phẫn, chẳng ích gì?
Hạng vương theo lời, giao Thái công và Lã Hậu cho Ngu Tử Kỳ quản thủ, đoạn đem binh sang đánh Tề.
Vua Tề là Duyên Hoàng, bị Sở vây khổ lâu ngày, lại thấy Hạng vương vừa thắng được quân Hán, sợ hãi mở cửa thành ra đầu hàng.
Thế rồi nước Tề lại thuộc về nước Sở.
Hạng vương kéo binh về Bành Thành, chỉnh đốn nhân mã, có ý dùng vào việc phá Hán sau này.
Tướng giữ Bành Thành là Bành Việt, từ khi hàng Hán, thấy Hán vương thua trận vội vã đem quân bản bộ chạy vào Ðại Lương, hợp binh với Hán để giữ đất Lương.
Còn Anh Bố lúc bấy giờ cũng bất mãn với Hạng vương về việc phụng mạng đi bắt Thái Công bị Vương Lăng đánh thua chạy về lại bị Hạng vương sỉ nhục, nên buồn lòng đem quân bản bộ lui về giữ Cửu Giang.
Thời gian đó, Hán vương đồn binh ở Huỳnh Dương, chiêu tập nhân mã, quân thế dần dần hùng mạnh, lòng dân đã bình ổn nhu xưa.
Một hôm, Hán Vương bàn với Trương Lương:
- Nay quân ta đã chấn chỉnh xong; song vị Ðại tướng chưa đủ tài điều khiển, nếu lựa kẻ bất tài e khó điều dụng. Hàn Tín từ khi giao trả ấn tượng không thấy tin tức, nghe tin thua cũng không đem quân đến cứu. Nếu bây giờ Tiên sinh có kế chi khiến cho Hàn Tín phải tự đến, ta nhân dịp đó mà trao trả ấn tướng mới vẹn toàn.
Trương Lương nói:
- Việc đó không khó gì Tôi chỉ đến nói với Hàn Tín và Hàn Tín tức khắc đến đây. Tuy nhiên, được Hàn Tín chỉ mới lợi một thôi, phải có Bành Việt và Anh Bố giúp sức thì mới phá Sở được.
Hán vương nói:.
- Bành Việt hiện đã về với ta, còn Anh Bố đang làm tôi nước Sở, làm thế nào mà dùng được.
Trương Lương nói:
- Anh Bố tuy làm tôi nước Sở, nhưng vừa rồi bất mãn với Hạng vương. Nếu được một người thuyết khách giỏi đến Cửu Giang phân trần, tất Anh Bố sẽ bỏ Sở về Hán.
Hán vương phán hỏi quần thần:
- Có ai vì ta mà đi sứ Cửu Giang chăng?
Quan Ðại phu Tùy Hà bước ra tâu:
- Tôi tuy bất tài, nhưng xin Ðại vương cứ giao việc ấy cho tôi.
Hán vương mừng rỡ, viết thư chiếu sai Tùy Hà đi.
Tùy Hà đến Cửu Giang, Anh Bố hay tin, gọi mưu sĩ Phi Hách đến bảo:
- Người này đến đây, tất Hán vương vì mới bại binh, không địch nổi Sở, muốn lợi dụng ta việc gì đây chăng?
Phi Hách nói:
- Có lẽ Hán vương muốn dụ ta bỏ Sở về Hán. Ðại vương nên tìm cách thoái thác.
Anh Bố nói:
- Sở bạc đãi ta, ta không muốn phò Sở. Tuy nhiên, về Hán chưa chắc Hán đây trọng dụng.
Phi Hách nói:
- Thế thì Ðại vương nên giả bệnh từ chối để dò xem Hán vương có tha thiết dùng mình không, rồi sẽ liệu.
Anh Bố liền sai môn lại ra nói với Tùy Hà:
- Sứ Hán hãy lưu lại ngoài thành, đợi Ðại vương tôi khỏi bệnh sẽ tiếp đón.
Tùy Hà đoán biết mưu của Phi Hách, liền tìm đến yết kiến riêng Phi Hách.
Phi Hách đón vào, hỏi:
- Quan Ðại phu đến đây có việc gì?
Tùy Hà nói:
- Hán vương vừa bại trận, đóng quân nơi Huỳnh Thành, các tướng đều nhân dịp về thăm quê nhà. Tôi, quê ở Lục An, đi theo Hán vương đã lâu, nay được phép về tảo mộ, qua đây mến tiếng Ðại vương nên ghé vào yết kiến, không ngờ ngài lại nghi tôi là thuyết khách nên không tiếp. Lẽ ra tôi đi ngay, nhưng lại nghĩ rằng đi như thế, làm cho ngài nghi mãi, không lợi cho ngài. Vả Ðại vương trấn giữ nơi Cửu Giang này chính nên nhún mình để tiếp người hiền mới phải. Ðại phu phụ tá Anh vương cũng nên khuyên vua trọng sĩ. Nếu những kẻ mộ danh tìm đến thì cự tuyệt thì còn ai đến với mình.
Tùy Hà nói mấy câu, gieo vào lòng Phi Hách một niềm cảm phục vô biên, Phi Hách lưu Tùy Hà lại nơi tư dinh, đặt rượu khoản đãi và nói:
- Xin quan Ðại phu tạm nghỉ nơi đây một đêm, sáng mai tôi sẽ đưa ngài vào yết kiến Anh vương.
Tùy Hà cáo từ, lui ra trú nơi quán trọ.
Hôm sau, Phi Hách vào triều thuật lại những lời nói của Tùy Hà, Anh Bố truyền mời Tùy Hà vào tương kiến.
Tùy Hà chỉnh đốn mũ áo, ung dung đến nơi. Anh Bố cầm tay dắt lên thềm thi lễ, mời ngồi và nói:
- Tiên sinh theo Hán vương đã lâu, chắc rõ nội tình. Tại sao trận Truy Thủy vừa rồi Hán vương không dùng Hàn Tín? Và hiện nay đóng quân ở Huỳnh Thành ý muốn làm gì?
Tùy Hà nói:
- Hán vương phát thủ thư bá cáo chư hầu đi đánh Hạng vương hỏi tội gϊếŧ vua Nghĩa Ðế. Chư hầu đều tình nguyện giúp Hán, vì thế Hán vương cậy có nhiều người giúp mới lưu Hàn Tín trấn thủ ở Quan Trung là nơi căn bản. Chẳng ngờ Hạng vương đã mật sai người đưa thư khắp thiên hạ bảo rằng gϊếŧ vua Nghĩa Ðế là chính tay Cửu Giang vương chứ không phải Sở vương, các chư hầu lại cho Sở vương bị mắc hàm oan, không hợp sức với Hán nữa. Do đó, Hán bị cô lập và bị thua. Hiện nay các nước như Tề, Lương, Yên, Triệu đều công nhận Ðại vương là kẽ thí nghịch đang muốn khởi binh vấn tội. Bất nhật, các nước ấy sẽ kéo đến đây. Chỉ có Hán vương vì mới bị thua nên không sự binh vào việc này. Thế mà Ðại vương vẫn điềm nhiên, nay mai nghĩa binh kéo đến, đại vương sẽ thành một người đại ác trong thiên hạ, tội nhân của muôn đời vậy.
Anh Bố nghe nói hầm hầm nổi giận, đứng phắt dậy, chỉ về phía Bắc cả tiếng mắng:
- Gϊếŧ vua Nghĩa Ðế nơi sông Hằng là do Hạng Vũ chủ mưu, ta đây chẳng qua ai sai gì làm nấy, nay lại đổ tiếng đại ác cho ta, sao ta lại chịu để muôn đời nguyền rủa?
Tùy Hà giả cách vội vàng can:
- Xin Ðại vương bớt nóng, Ðại vương hiện đang là Phiên thần của Sở, lỡ ra lời của Ðại vương đến tai Hạng Vũ thì nguy cho Hạng vương lắm?
Anh Bố càng thêm tức giận, hét:
- Ta nghĩ việc gϊếŧ Tử Anh, đào mả Thủy Hoàng và gϊếŧ vua Nghĩa Ðế, đều là Hạng Vũ sai khiến. Ta vẫn lấy làm hối hận, sợ thiên hạ chê cười. Nay Hạng Vũ lại đổ tội cho ta thật là đứa đê hèn vô liêm sỉ.
Tùy Hà nói:
- Ðại vương nay cần phải giải bày tội lỗi của Hạng Vũ cho thiên hạ biết, mới mong minh oan được, chứ nóng giận mà ích gì. Theo ý tôi, hiện nay Hán đang thù Sở, thế nào cũng đánh Sở để trả thù. Ðại vương nên thuộc ý với Hán, họp với Hán vương rửa được tiếng tai ác sau này.
Anh Bố nghe Tùy Hà nói, lòng phơi phới, ghé tai nói:
- Ta vẫn có ít nhiều bất mãn với Sở, ý muốn phò Hán, nếu ngài giúp cho được việc ấy, ta sẽ không quên ơn.
Tùy Hà nói:
- Tôi cảm ơn đức Ðại vương đã lâu, việc ấy dẫu có khó khăn tôi cũng quyết tán thành.
Anh Bố nói:
- Thế thì Tiên sinh lưu lại đây vài hôm, ta sắp xếp xong sẽ tính việc đầu Hán.
Anh Bố nói vừa dứt lợi bỗng có sứ Sở mang chiếu thư đến, xin vào yết kiến.
Anh Bố vội vàng tiếp chiếu, mở ra đọc:
Chiếu rằng:
" Cứ phép xưa nay, nhà vua động binh, chư hầu trợ giúp Ðó là nghĩa vụ của bề tôi.
Cửu Giang vương trấn thủ Giang Hoài, cầu an ẩn dật, nghe quân đánh Tề cáo bệnh không giúp đến, trận Truy Thủy cũng ngồi xem thắng phụ mà thôi.
Lâu nay trẫm vì bận việc quân không xuống chiếu trách cứ. Vậy Cửu Giang vương nên biết tội xét mình, từ này hễ thấy hội binh phải đến hội ngay chớ nên chậm ".
Anh Bố đọc xong, cúi đầu suy nghĩ.
Tùy Hà sợ Anh Bố đổi ý, vội chạy đến nói:
- Cửu Giang vương đã có ý định về với Hán, còn tiếp chiếu Sở làm chi?
Anh Bố thất kinh chưa kịp nói, thì sứ Sở đã hỏi:
- Ngươi là ai mà dám nói càn như vậy?
Tùy Hà nói:
- Ta là sứ Hán, đến ước với Anh vương, họp sức đánh Sở, hỏi tội đứa thí quân, sao mày không biết?
Sứ Sở nghe Tùy Hà nói, lại thấy Anh Bố ngồi yên, biết việc mình đã hỏng, sợ lụy đến thân, nên nhảy vội xuống thềm chạy trốn.
Tùy Hà nói với Anh Bố:
- Cứ xem lời chiếu, đủ biết Hạng Vũ muốn gϊếŧ Ðại vương để bịt miệng chư hầu. Sao Ðại vương không gϊếŧ đứt sứ Sở đi đế ra mặt giúp Hán.
Anh Bố bị khích lệ của Tùy Hà, hầm hầm giận dữ, rút gươm đuổi theo chém sứ Sở chết ngay, rồi xé nát chiếu chỉ, điểm quân cùng với Tùy Hà kéo đến Huỳnh Dương đầu Hán.