Chương 15
Theo học trường kinh doanh là một cuộc phiêu lưu mới rất thú vị đối với Kate. Khi đi đến trường Cheltenham, nàng cho đó là một việc làm lặt vặt, một điều xấu xa, nhưng cần thiết. Lần này thì khác hẳn. Mỗi buổi học đều dạy cho nàng một điều gì đó thiết thực, có thể giúp cho nàng điều khiển công ty. Chương trình học gồm có các môn: Kế toán, Quản lý, Giao thương quốc tế, Hành chánh kinh doanh. Mỗi tuần lễ một lần, David điện thoại cho nàng, hỏi về sự tiến bộ của nàng trong việc học.“Tôi rất thích” Kate nói với David “Thật là thú vị, David ạ.”
Một ngày kia, David sẽ cùng với nàng ngồi làm việc sát cánh nhau vào lúc đêm khuya, và lúc đó, chỉ có hai người mà thôi. Rồi một đêm nào đó, David sẽ quay về phía nàng và nói: “Em Kate yêu quý, anh có mắt mà cũng như mù, em có bằng lòng lấy anh không?” Thế rồi, chỉ một lát sau, nàng đã nằm trong hai cánh tay của chàng...
Nhưng chuyện ấy chưa đến đâu. Trong khi chờ đợi, nàng phải học tập. Với một vẻ cương quyết, nàng quay lại các bài tập ở trường.
Lớp kinh doanh kéo dài hai năm. Kate trở lại Klipdrift vào đúng dịp nàng ăn mừng sinh nhật thứ hai mươi của nàng. David đón nàng ở nhà ga.
Trông thấy David, đột nhiên nàng giang hai cánh tay ra ôm choàng lấy anh và nói: “Trời! Anh David, gặp anh tôi mừng quá!”
Anh lùi lại, nói một cách vụng về: “Rất mừng được gặp cô, Kate ạ.” Trong cử chỉ của anh có một vẻ lóng ngóng, không được thoải mái lắm.
“Có chuyện gì vậy?”
“Không... Chỉ có điều là... là... các thiếu nữ không ôm hôn đàn ông ở nơi công cộng”.
Nàng nhìn David một lát rồi nói: “À ra thế. Tôi hứa lần sau sẽ không làm anh bối rối nữa”.
Trong khi đi xe về nhà, David kín đáo quan sát Kate. Nàng là một cô gái xinh đẹp mê hồn, ngây thơ và có vẻ dễ bị xúc phạm nên David quyết tâm sẽ không bao giờ lợi dụng điều ấy.
Sáng hôm thứ hai, Kate di chuyển đến văn phòng mới của nàng ở công ty Hữu hạn Kruger - Brent. Thật là, giống như nàng bị chìm vào trong một thế giới xa lạ, kì dị với những phong tục và ngôn ngữ riêng của nó. Đó là một tổ chức rối rắm gồm các ngành, các cơ sở phụ, các phân cục địa phương, các công ty đặc quyền và chi nhánh nước ngoài. Các sản phẩm mà công ty nàng chế tạo hay làm chủ dường như là vô tận. Có những nhà máy cán thép, những trại nuôi gia súc, một đường xe hoả, một công ty chuyên chở đường bể, và cố nhiên, cơ sở của tài sản gia đình: kim cương, vàng, kẽm, bạch kim, magnesium được đào lên suốt ngày đêm, rồi tuôn vào các két sắt của công ty.
Quyền lực.
Hầu như có quá nhiều thứ cần phải nắm vững. Kate ngồi trong văn phòng của David, lắng nghe anh đưa ra những quyết định có thể ảnh hưởng đến hàng nghìn người trên khắp thế giới. Các tổng giám đốc các phân cục đưa ra nhiều đề nghi, nhưng nhiều khi David bác bỏ các đề nghị ấy.
“Tại sao anh làm như vậy? Họ không biết việc làm của họ hay sao?” Kate hỏi.
“Dĩ nhiên là họ biết. Nhưng vấn đề không phải là ở chỗ ấy” David giải thích “Mỗi giám đốc chỉ nhìn thấy phân cục của mình và xem nó như là trung tâm điểm của thế giới. Điều ấy cũng là phải thôi. Thế nhưng cần phải có một người nào đó có cái nhìn tổng quát và quyết định cái gì tốt nhất cho toàn thể công ty. Thôi nào, chúng ta còn phải ăn cơm trưa với một người mà tôi muốn giới thiệu với cô”
David đưa Kate đến một phòng ăn riêng rộng rải, kế cận văn phòng của Kate. Một người đàn ông trẻ tuổi, gầy giơ xương, với một khuôn mặt ốm và đôi mắt nâu tò mò, đang chờ đợi hai người.
“Đây là Brad Rogers” David nói “Brad, tôi giới thiệu với anh đây là nữ chủ nhân mới của anh, cô Kate McGregor”
Brad Rogers đưa tay ra bắt “Tôi rất hân hạnh được gặp cô, thưa cô McGregor”
“Brad là một vũ khí bí mật của chúng ta” David nói “Anh ấy hiểu biết về công ty Kruger-Brent chẳng kém gì tôi. Ví thử như tôi có rời công ty này, cô cũng chẳng có gì phải lo cả. Brad sẽ có mặt ở đây”
“Ví thử như tôi có rời công ty” Riêng ý nghĩ này cũng làm cho nỗi hoảng sợ tuôn ra như một làn sóng truyền qua khắp thân thể của Kate. Cố nhiên, David sẽ không bao giờ rời công ty. Kate không nghĩ đến chuyện gì khác nữa trong suốt bữa ăn trưa ấy. Và khi bữa ăn chấm dứt, nàng cũng chẳng biết nàng đã ăn những thứ gì.
Sau bữa ăn, họ bàn với nhau về Nam Phi.
“Chúng ta sắp sửa gặp rắc rối” David nói “Chính phủ vừa đặt ra thuế thân”
“Thế là nghĩa làm sao?” Kate hỏi.
“Nó có nghĩa là những người da đen, da màu và người Ấn Độ phải trả hai bảng Anh cho mỗi người trong gia đình. Như vậy là lớn hơn số lương của họ trong một tháng”.
Kate nghĩ đến Banda và cảm thấy nỗi lo sợ tràn ngập trong lòng. Cuộc thảo luận chuyển sang các vấn đề khác.
Kate yêu thích cuộc sống mới vô cùng. Mỗi quyết định lôi kéo theo trò chơi hàng triệu đô la. Việc kinh doanh lớn là một cuộc đọ sức trí tuệ, là lòng can đảm dám đương đầu với may rủi và bản năng biết được khi nào nên dấn tới, khi nào cần rút lui.
“Kinh doanh là một cuộc đánh bạc” David nói với Kate “Với tiền cược lớn kinh khủng và mình phải cạnh tranh với các chuyên gia. Nếu muốn thắng, mình phải học để làm chủ cuộc chơi”
Đó chính là điều mà Kate quyết định sẽ làm. Nàng phải học.
Kate sống một mình trong ngôi nhà lớn, ngoài các gia nhân, nàng và David vẫn tiếp tục có những buổi ăn chung theo nghi thức vào tối thứ sáu. Nhưng khi Kate mời anh đến ăn vào những buổi khác, David lúc nào cũng kiếm cớ từ chối. Trong những giờ làm việc, hai người vẫn họp chung với nhau thường xuyên. Nhưng ngay cả lúc ấy, David dường như đã dựng lên một bức tường giữa hai người, một bức tường mà Kate không thể nào vượt qua được.
Vào ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của Kate, tất cả các cổ phần trong công ty Kruger-Brent đã chuyển sang cho Kate. Bây giờ nàng đã chính thức kiểm soát công ty “Chúng ta hãy ăn cơm tối hôm nay để ăn mừng” Kate đề nghị với David.
“Xin lỗi cô Kate, tôi có nhiều công việc phải làm cho kịp”
Kate ăn cơm một mình tối hôm ấy, trong lòng băn khoăn không hiểu tại sao. Vì nàng hay vì David. Phải chăng David đã bị điếc, câm, mù nên không hiểu được tình cảm của nàng đối với anh? Nàng sẽ phải ra tay hành động bằng cách nào đó.
Công ty lúc đó đang điều đình về việc mở một đường hàng hải ở Mỹ.
“Tại sao cô và Brad không đi New York để kết thúc cuộc điều đình này?” David gợi ý với Kate “Đó sẽ là một kinh nghiệm rất hay cho cô”
Kate muốn rằng David sẽ đi với nàng, nhưng vì tự ái, nàng không nói ra. Nàng sẽ giải quyết vụ này mà không cần đến David. Ngoài ra, nàng chưa hề bao giờ sang Mỹ nên nàng mong đợi có được thêm kinh nghiệm này.
Việc kết thúc cuộc điều đình về đường hàng hải tiến hành một cách trôi chảy. David đã nói với nàng trước khi nàng lên đường “Trong thời gian ở Mỹ, cô nên thăm viếng một vài nơi cho biết”
Kate và Brad đi thăm các chi nhánh công ty ở Detroit, Chicago, Pittsburg và New York. Nàng rất ngạc nhiên về sự lớn lao và năng lực của nước Mỹ. Điểm nổi bật nhất trong cuộc hành trình này là cuộc viếng thăm Dark Harbor ở Maine, trên một hòn đảo nhỏ có tên là Isleboro, trong vịnh Penobscot. Nàng được mời dự tiệc tại nhà Charles Dana Gibson, một nghệ sĩ. Có mười hai người đến dự tiệc hôm ấy, và ngoại trừ Kate, tất cả đều có nhà trên hòn đảo ấy.
“Nơi này có một lịch sử rất thú vị” Gibson nói với Kate “Cách đây nhiều năm, những người sống ở đây thường đi đến đây bằng tàu thuỷ từ Boston. Khi tàu cập bến, có xe độc mã đến đón họ và đưa về nhà”
“Có bao nhiêu người sống trên hòn đảo này?” Kate hỏi.
“Chừng năm mươi gia đình. Khi chiếc tàu cập bến, cô có thấy ngọn hải đăng ở đấy không?”
“Có”
“Ngọn hải đăng ấy do một người gác và một con chó điều khiển. Khi một chiếc tàu đi ngang qua, con chó chạy ra rung chuông”
Kate cười “Ông nói đùa ấy chứ”.
“Không đâu, thưa cô. Điều buồn cười là con chó ấy bị điếc đặc. Nó đặt tai vào cái chuông để xem nó có rung lên không”.
“Nghe ông nói có vẻ như hòn đảo này hấp dẫn lắm nhỉ?”
“Nếu cô ở lại đây chơi và thăm viếng hòn đảo này vào sáng mai thì chắc cô sẽ không thấy là vô ích đâu”.
Kate bật miệng: “Tại sao lại không?”
Nàng ở lại đêm trong khách sạn duy nhất trên đảo, tên nó là Quán trọ Islesboro. Đến buổi sáng, nàng thuê một chiếc xe ngựa, do một người dân trên đảo điều khiển, rời trung tâm của Dark Harbor, nơi có một cửa hàng bách hóa, một cửa hàng bán đồ sắt, một hiệu ăn và ít phút sau, nàng đi ngang một khu rừng cây rất đẹp. Kate nhận ra rằng các đường nhỏ quanh co đều không có tên. Cả trên các hộp thư cũng không có tên người.
“Không có các dấu hiệu như thế mà người dân ở đây không bị lạc sao?”
“Không. Người dân trên đảo này đều biết nơi nào, có cái gì”.
Kate liếc mắt nhìn ông ta một cái rồi nói: “À ra thế”
Ở phía dưới hòn đảo, họ đi ngang qua một nghĩa địa.
“Bác cho dừng xe lại được không?”, Kate yêu cầu.
Nàng bước ra khỏi chiếc xe ngựa, đi bộ đến khu nghĩa địa cổ, loanh quanh, nhìn vào các bia mộ.
Bob Pendleton, mất ngày 25 tháng giêng năm 1794, 47 tuổi.
Trên văn bia ghi mấy dòng chữ: “Dưới viên đá này, tôi nằm yên nghỉ trong giấc ngủ êm đềm. Chúa ban phước lành cho chiếc giường nằm của tôi”
Jan, vợ của Thomas Pendleton, mất ngày 25 tháng hai năm 1802, 47 tuổi.
Ở đó còn những linh hồn từ một thế kỷ khác, thuộc về thời đại đã qua lâu rồi. Đại úy William Hatch, chết chìm ở đáy biển Long Island, tháng 10 năm 1866, 30 tuổi. Văn bia ghi: “Đã từng trải qua nhiều bão tố, và vượt qua nhiều sóng cả của cuộc đời”
Kate đứng ở đó một hồi lâu, yêu thích trước cảnh yên lặng, thanh bình.
“Mùa đông ở đây như thế nào?” Kate hỏi.
“Lạnh. Vịnh này thường bị đóng băng nên người ta vẫn đi từ đất liền đến đây bắng xe trượt tuyết. Bây giờ, tất nhiên, chúng tôi đã có phà rồi”.
Họ đi vòng một khúc quanh. Ở nơi kia, bên cạnh bờ nước, là một ngôi nhà hai tầng lợp bằng ván trắng. Xung quanh có trồng các loại cây phi yến, hồng dại và cây thuốc phiện. Các cánh cửa trên tám chiếc cửa sổ đều sơn màu xanh. Bên cạnh các cánh cửa đôi là những chiếc ghế dài và sáu chậu hoa phong lữ. Nó giống như một ngôi nhà trong câu chuyện thần tiên.
“Ai là chủ ngôi nhà ấy?”
“Đó là ngôi nhà xưa kia của gia đình Dreben. Bà Dreben mất cách đây ít tháng”
“Bây giờ ai sống ở đó?”
“Theo tôi biết thì ở đó không có ai cả”
“Ngôi nhà ấy có bán không?”
Người hướng dẫn nhìn Kate và nói: “Nếu có bán thì có lẽ người con trai của một trong các gia đình ở đây sẽ mua nó. Người dân đảo này không dễ dàng bán cho những người lạ mặt”
Nói như vậy với Kate thật là một điều sai lầm.
Một giờ sau, nàng nói chuyện với một luật sư về bất động sản này: “Tôi muốn bàn về ngôi nhà của họ Dreben. Không biết người ta có bán không?” Kate nói.
Viên luật sư bĩu môi: “Có thể có, mà cũng có thể không”.
“Như thế nghĩa là thế nào?”
“Người ta sẵn sàng bán. Nhưng cũng có một số người cũng muốn mua ngôi nhà ấy”.
Lại những gia đình xưa cổ trên hòn đảo này, Kate thầm nghĩ. “Họ đã trả giá chưa?”
“Chưa, nhưng...”
“Tôi sẵn lòng trả giá”. Kate nói.
Viên luật sư nói một cách nhã nhặn “Nhưng ngôi nhà ấy đắt tiền lắm”
“Ông cứ cho giá đi”
“Năm mươi nghìn đô la”.
“Chúng ta lại xem ngôi nhà ấy đi”
Bên trong ngôi nhà còn hấp dẫn hơn là Kate đã tiên đoán. Gian phòng phía trước rộng và rất đẹp, nhìn ra bể qua một bức tường bằng gương. Ở một bên đại sảnh ấy là phòng khiêu vũ lớn, và phía bên kia là một phòng khách lót ván gỗ đã hoen ố vì thời gian. Và kia là một chiếc lò sưởi đồ sộ. Có một cái thư viện, một nhà bếp lớn với một cái lò sắt, một chiếc bàn bằng gỗ thông lớn. Xa hơn chút nữa là phòng để thức ăn của quản gia và một phòng giặt. Ở dưới nhà, có sáu phòng ngủ cho gia nhân và một phòng tắm. Ở tầng trên có một dãy phòng ngủ lớn và bốn phòng ngủ nhỏ. Ngôi nhà ấy lớn hơn là Kate đã mong đợi. Nhưng khi David và mình đã có con, nàng nghĩ thầm, chúng mình sẽ cần tất cả những phòng này. Đất thuộc ngôi nhà chạy dài xuống vịnh, ở đó, có một bến tàu riêng.
Kate quay về phía ông luật sư: “Tôi mua ngôi nhà này”
Nàng quyết định đặt tên nó là Cedar Hill (Ngôi nhà trên đồi thông).
Nàng nóng lòng muốn về Klipdrift cho sớm để báo tin này cho David hay.
Trên đường trở về Nam Phi, Kate cảm thấy một nỗi hân hoan cuồng nhiệt. Ngôi nhà ở Dark Harbor là một dấu hiệu, một biểu tượng cho biết rằng nàng và David sẽ cưới nhau. Nàng biết rằng David sẽ yêu thích ngôi nhà ấy, cũng giống như nàng.
Vào lúc xế trưa, Kate và Brad về đến Klipdrift. Kate vội vả đến văn phòng David. Anh đang ngồi làm việc ở bàn giấy. Vừa trông thấy David, tim nàng đập lên thình thình. Nàng chưa nhận thức được là nàng đã mong nhớ anh đến thế nào.
David đứng dậy: “Kate, mừng cô đã về nhà!”
Rồi trước khi nàng kịp mở lời, anh nói: “Tôi muốn cô là người đầu tiên được biết tin này. Tôi sắp sửa lấy vợ”.