Chương 21
Khi Adam tỉnh giấc mặt trời đã chiếu qua ô cửa sổ nhỏ của căn phòng ngủ. Thoạt tiên mọi thứ xung quanh làm anh chói mắt, anh chớp mắt và cố nhớ lại những gì đã xảy ra đêm qua. Thế rồi anh nhớ lại tất cả và rùng mình vì những kí ức đó. Adam ngồi sát ra mép giường và cố đứng lên nhưng cảm thấy vô cùng chóng mặt và yếu ớt nên lại ngồi xuống. Ít ra thì anh cũng đã trốn thoát. Anh nhìn quanh phòng nhưng không thấy hoặc không nghe tiếng cô gái đâu. Bỗng anh nhớ đến cái ví.Anh ngồi bật dậy. Phải mất mấy giây anh mới thu hết sức lực để đứng dậy được và cố bước đi. Mặc dù anh đi chưa vững nhưng cũng đã tốt hơn mong đợi rất nhiều. Chỉ sự phục hồi nhanh chóng mới đáng kể chứ không phải là tốc độ nhanh, Adam mỉa mai nghĩ. Đến được cạnh lò sưởi, anh quì gối lục lọi đống củi nhưng chiếc ví của viên đại tá đã không cánh mà bay. Anh vội quay lại chỗ cái áo Jacket vắt trên thành ghế. Adam kiểm tra túi áo trong: một cái bút máy, một cái lược răng chỉ còn một nửa, một hộ chiếu, bằng lái xe, mấy thứ giấy tờ khác nhưng không có ví. Anh lục cái túi ngoài: một chùm chìa khóa, một con dao gấp, mấy đồng xu cả tiền Anh lẫn tiền Pháp, nhưng tất cả chỉ có thế. Adam văng tục và đổ vật xuống sàn nhà rồi cứ ngồi như vậy không nhúc nhích cho đến khi nghe có tiếng chìa quay trong ổ khóa.
Cửa ra vào mở ra, cô gái bước vào, tay xách chiếc giỏ đi chợ. Cô mặc chiếc váy hoa khá đẹp và chiếc áo blu dông trắng khiến trông cô giống như một người đi lễ nhà thờ buổi sáng Chủ nhật. Chiếc giỏ chất đầy thực phẩm.
- Anh thức dậy rồi à, anh yêu? Est-ce-que tu prends le petit déjeuner (Anh ăn sáng chứ?)
Anh nhìn cô hơi ngạc nhiên.
Cô chăm chú nhìn lại anh.
- Ngay cả gái gọi cũng cần ăn sáng chứ, nest-cepas? (Đúng không?). Đôi khi đó là bữa duy nhất trong ngày đấy.
Adam lạnh lùng hỏi:
- Cái ví của tôi đâu rồi?
Cô gái chỉ tay nói:
- Trên bàn ấy.
Adam nhìn quanh phòng và thấy cái ví được để ở chỗ dễ nhìn thấy nhất. Cô gái trách:
- Anh không việc gì phải giấu nó đi đâu. Mặc dù em là một con đĩ thật, nhưng em không nghĩ mình là một con ăn cắp.
Nói xong cô bước vào bếp vẫn để cửa mở toang.
Cô hỏi to:
- Cà phê và bánh sừng bò nhé?
Adam nói:
- Tuyệt vời - Rồi anh dừng lại một chút. - Tôi xin lỗi. Tôi thật là ngu ngốc.
Cô gái nói:
- Thôi đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa. Ca nest rien (Không sao cả đâu).
Adam nói:
- Tôi vẫn chưa biết tên cô.
- Tên làm việc của em là Brigitte, nhưng đêm qua anh không yêu cầu em phục vụ, sáng nay cũng vậy. Vậy anh có thể gọi tên thật của em là Jeanne.
- Jeanne, tôi có thể tắm được không?
- Cửa phòng tắm ở góc nhà ấy, nhưng anh đừng tắm lâu quá nhé, nếu không bánh sừng bò sẽ nguội mất.
Adam đi vào nhà tắm, thấy Jeanne đã để sẵn tất cả những gì mà một người đàn ông có thể cần đến: kem cạo râu, xà phòng, vải mềm, khăn tắm - và một hộp Durex to tướng.
Sau khi cạo râu và tắm nước nóng - những lạc thú mà Adam đã gần như quên hẳn - anh thấy hầu như đã bình phục nếu không kể đến còn hơi yếu mệt đôi chút. Anh quấn chiếc khăn tắm ngang thắt lưng trước khi đi vào bếp gặp Jeanne. Thức ăn đã bày sẵn trên bàn và Jeanne đang đỡ chiếc bánh sừng bò nóng dòn từ lò nướng ra.
- Thân hình đẹp đấy chứ - Cô vừa nói vừa xoay tròn, đưa mắt nhìn chăm chú và đặt chiếc đĩa trước met anh. Khá hơn những gã mà em vớ được nhiều.
Adam ngồi vào bàn đối diện cô và mỉm cười nói:
- Em cũng có đến nỗi tồi lắm đâu.
Jeanne nói:
- Rất sung sướиɠ về lời khen của anh. Em bắt đầu nghĩ về anh rồi.
Adam chậm rãi phết mứt vào bánh, hồi lâu không nói câu nào.
Jeanne nhìn anh ăn ngấu nghiến mấy mẩu bánh cuối cùng còn lại trong đĩa, hỏi:
- Anh ăn lần gần nhất là khi nào vậy?
- Trưa hôm qua. Nhưng sau đó tôi đã gột sạch dạ dày mình rồi.
- Say chứ gì? Không nên uống nhiều như vậy.
Adam nói:
- Tôi nghĩ "nốc" là từ đúng nhất - Rồi anh nhìn cô gái - Jeanne, em vẫn có thể làm việc chứ?
Cô gái nhìn đồng hồ:
- Hai giờ chiều nay em sẽ có một khách quen. Sau đó sẽ phải ra phố lúc năm giờ - Vậy là phải làm việc sáng nay thôi.
Cô gái nói rất thiết thực, Adam đáp:
- Không, không, anh không định nói chuyện đó.
Jeanne nói:
- Anh có thể nhanh chóng làm cho người con gái, nói thế nào bằng tiếng Anh nhỉ - mặc cảm. Anh không phải là một trong những ngừơi kì cục ấy chứ?
Adam cười đáp:
- Không, không phải như vậy. Nhưng tôi xin trả thêm cho em hai trăm phơ răng nữa để em phục vụ tôi.
- Một việc hợp pháp chứ?
- Hoàn toàn hợp pháp.
- Alars, vậy em phải đổi kế hoạch một chút. Anh cần em bao lâu?
- Một đến hai giờ đồng hồ là cùng.
- Cao hơn giá công việc của em hiện giờ nhiều. Em sẽ phải làm gì đây.
- Tôi muốn trong vòng một giờ đồng hồ mọi người đàn ông Paris đều mê mệt em. Nhưng riêng lần này em không được tiếp họ, với bất kì giá nào.
Lawrence nói với nhóm D4:
- Scott vừa mới liên lạc với tôi mấy phút trước đây.
Sir Morris lo lắng hỏi:
- Anh ta nói gì?
- Chỉ nói là đang vặn ngược đồng hồ.
Snell hỏi:
- Ông nghĩ là anh ta nói vậy có nghĩa là gì?
Lawrence nói:
- Tôi cho là anh ta đang quay lại Geneva.
Matthews hỏi:
- Tại sao lại là Geneva?
Lawrence đáp:
- Tôi không chắc chắn lắm nhưng anh ta nói phải làm gì đó với cô gái Đức hoặc là ngân hàng nhưng tôi không thể tin điều đó được.
Hồi lâu không ai nói gì nữa. Rồi Busch hỏi:
- Ông có xác định được nơi gọi không?
Lawrence nói:
- Chỉ biết khu vực thôi. Đâu đó ở trên biên giới Đức - Thụy Sĩ.
Sir Morris nói:
- Tốt. Vậy là chúng ta lại vào việc rồi. Ông đã thông báo cho Interpol chưa?
- Thưa ngài rồi ạ, và tôi cũng báo cáo tóm tắt riêng cho cảnh sát Đức, Pháp và Thụy Sĩ - Lawrence nói thêm. Đó cũng là báo cáo thật duy nhất anh nói ra từ khi cuộc họp bắt đầu.
Jeanne cần bốn mươi phút để chuẩn bị và khi thấy thành quả lao động của cô Adam huýt lên một tiếng. Anh nói:
- Không ai sẽ nhìn thấy tôi lần thứ hai cho dù tôi có lấy hết tiền trong ngăn kéo tủ quầy trước mặt họ đâu nhé.
Jeanne nhoẻn miệng cười, nói:
- Đó là một ý kiến hay.
- Còn bây giờ thì em biết rõ em sẽ phải làm gì rồi chứ?
- Em biết rõ rồi. - Jeanne nhìn vào chiếc gương dài ngắm lại mình lần cuối. - Chúng ta đã tập dượt như bài tập quân sự tới bốn lần rồi còn gì nữa.
Adam nói:
- Tốt, em nói cứ như em sắp sửa ra nghênh chiến với quân địch ấy. Vậy thì chúng ta sẽ bắt đầu với cái mà trong quân đội gọi là "tiến lên tìm diệt địch" nhé.
Jeanne kiếm được chiếc túi ni lông trong ngăn kéo bếp. Trên túi in mỗi một chữ "Céline". Cô đưa cho Adam. Anh gập chiếc túi làm bốn và nhét vào túi áo jacket trong khi đi ra hành lang. Jeanne khóa cửa phòng rồi hai người cùng đi xuống cầu thang ra ngoài hè phố.
Adam vẫy một chiếc taxi, Jeanne nói với người lái xe:
- Vườn hoa Tuileries.
Khi họ đến nơi Adam trả tiền xe rồi bước lên vỉa hè đến cạnh Jeanne. Anh nói:
- "Bonne chance" (Chúc may mắn).
Adam đứng lại ở góc công viên để Jeanne đi trước quãng hai mươi mét. Mặc dù cảm thấy chưa bình phục hẳn anh vẫn theo kịp. Nắng chiếu vào mặt khi Adam nhìn cô đi qua mấy luống hoa rực rỡ. Chiếc váy hoa màu tím và và chiếc áo săng đay trắng bó sát người của Jeanne khiến cho hầu như mọi người đàn ông đi qua đều phải ngoái lại nhìn. Thậm chí có người còn đứng lại giữa đường nhìn theo cho tới khi cô đi khuất hẳn.
Từ cách xa hơn hai mươi mét Adam vẫn thấy Jeanne luôn bị nghe những câu hỏi chặn lại, đại thể như: "Je payerais n�importe quoi" (Tôi sẽ trả tiền, bao nhiên cũng được). Đối với một "putain" (gái làm tiền) bình thường như Jeanne, cô đã phải miễn cưỡng từ chối vì Adam đã dặn trước là phải bỏ qua mọi lời cám dỗ. Cô phải đóng được vai kịch của mình và với hai trăm phơ răng cô chỉ phải nghe những lời xúc phạm đó thôi.
Jeanne đã đi đến phía bên kia công viên không hề ngóai cổ lại. Cô đã được căn dặn không nhìn quanh trong bất cứ hòan cảnh nào. Cứ đi thẳng, Adam đã nói với Jeanne như vậy. Adam vẫn phía sau cô cách hai mươi mét khi cô đi đến đường Tuileries. Jeanne đợi chờ đèn tín hiệu bật xanh để đi qua đường phố rộng và chú ý luôn đi giữa đám đông.
Đến giữa đường, Jeanne rẽ sang phải và điện Louvre hiện ra trước mặt. Cô đã ngượng nghịu thú nhận với Adam là trước đây chưa bao giờ đến cung điện này.
Jeanne bước lên bậc tam cấp đi vào tiền sảnh. Khi cô đến được cửa quay thì Adam cũng bắt đầu bước lên bậc cuối cùng. Cô tiếp tục bước lên dọc cầu thang bằng đá hoa cương trong khi Adam kín đáo theo sát phía sau.
Khi lên đến bậc trên cùng Jeanne đi qua tượng Thần Chiến Thắng có cánh cửa của Samothrace. Cô tiếp tục đi vào gian phòng lớn đầu tiên đầy người xem và bắt đầu nhẩm đếm. Cứ mỗi lần đi qua một phòng tranh cô nhận thấy ở đó luôn luôn có ít nhất một người bảo vệ đứng loanh quanh ở gần lối ra. Một nhóm học sinh phổ thông đang xem Bữa tối cuối cùng của Giovani nhưng Jeanne bỏ qua bức tranh này và đi thẳng về phía trước. Sau khi vượt qua sáu người bảo vệ cô đến được phòng tranh mà Adam đã mô tả rất kỹ.
Jeanne cố ý bước vào giữa phòng và dừng lại vài giây. Mấy người đàn ông bắt đầu không để ý đến tranh nữa. Bằng lòng với ấn tượng vừa gây được, cô bước nhanh lại người bảo vệ, anh này vuốt lại chiếc áo jacket của mình và mỉm cười. Với vẻ vô tư Jeanne hỏi:
- Dans quelle direction se trouve la peinture du seizième siècle? (Phòng tranh thế kỷ thứ mười bảy đi đường nào?)
Người bảo vệ quay người để chỉ. Trong lúc anh ta quay đi Jeanne tát mạnh vào mặt anh và lấy hết sức gào lên:
- Quelle heureur! Pour qui est-ce que vous me prenez? (Bây giờ là mấy giờ! Anh túm lấy tôi để làm gì?)
Chỉ có một người duy nhất đang đứng trong Phòng Tranh Thánh không quay lại để xem cảnh tượng trên.
- Je vais parler à la Direction (Tôi sẽ nói với Ban Giám Đốc).
Cô nói to và đi nhanh về phía lối ra chính. Màn kịch chỉ diễn ra không đầy ba mươi giây. Người bảo vệ choáng váng đứng im như tượng bối rối nhìn theo.
Jeanne tiếp tục đi qua ba thế kỷ tranh nữa nhanh hơn cả H.G.Wells. Cô rẽ trái bước vào phòng tranh thế kỷ mười bảy như được chỉ dẫn rồi rẽ trái lần nữa để đi vào một hành lang dài. Ít phút sau cô gặp Adam ở đầu cầu thang bằng đá hoa cương dẫn xuống tiền sảnh.
Khi họ cùng đi xuống các bậc cầu thang, Adam đưa cho cô chiếc túi xách có chữ Celine và hai người chuẩn bị bước tiếp bỗng hai người bảo vệ đứng ở phía dưới giơ tay ra hiệu cho họ dừng lại. Cô thì thầm:
- Anh có định chạy không?
Adam nói quả quyết:
- Nhất định là không rồi. Em đừng nói gì cả nhé.
- Madame, excusez-moi, mais je dois fouiller votresac (Xin lỗi bà, tôi cần kiểm tra chiếc túi xách của bà).
Jeanne nói:
- Allez-y pour tout ce que vous y trouvez! (Các ông cứ lấy ra tất cả những gì thấy trong đó).
Adam nói và lấy bức tranh Thánh của Sa hoàng trong túi ra giơ lên trước mặt người bảo vệ, anh này tỏ vẻ ngạc nhiên trước đồ vật được trình diện. Hai nhân viên khác ập đến đứng hai bên Adam.
Bằng một thứ tiếng anh ngọng nghịu người bảo vệ lớn tuổi hỏi Adam liệu có thể mời một chuyên gia phòng tranh đến xem xét bức tranh không. Anh nói:
- Rất sẵn lòng. Tôi sẽ rất thích thú khi được nghe thêm ý kiến nhận xét của một người nữa.
Người bảo vệ lớn tuổi trông bắt đầu có vẻ nghi hoặc. Nhưng rồi anh ta nói với giọng không phải là thiếu thiện cảm:
- Je dois vous demnamder de me suivre. (Mời ông đi theo tôi).
- Anh ta nhanh chóng dẫn họ đến một căn phòng nhỏ bên cạnh phòng tranh. Người bảo vệ đặt bức tranh Thánh lên chiếc bàn lớn choán gần hết căn phòng. Adam ngồi xuống ghế, Jeanne chưa hết bối rối cũng ngồi xuống bên cạnh anh.
- Tôi sẽ quay lại ngay, thưa ông.
Người bảo vệ lớn tuổi đi gần như chạy trong khi hai người kia vẫn đứng im gần cửa. Adam vẫn chưa muốn nói với Jeanne mặc dù anh thấy mỗi lúc cô một lo lắng thêm. Anh nhìn cô hơi mỉm cười.
Cuối cùng cửa bật mở, một người đàn ông lớn tuổi có vẻ như một học giả đi trước người bảo vệ lúc nãy bước vào.
Người đàn ông nhìn Adam nói, ông ta là người đầu tiên không công khai tỏ ra quan tâm đến Jeanne.
- Bonjour, monsieur. Tôi được biết ông là người Anh.
Rồi không nhìn họ nữa, ông cầm bức tranh lên xem.
Ông nghiên cứu tranh một lúc khá kỹ trước khi nói khiến Adam cảm thấy hơi thoáng lo lắng:
- Tuyệt vời đấy nhỉ. Đúng không?
Một trong hai nhân viên bảo vệ sờ tay vào dùi cui.
Ông ta nhắc lại:
- Thật tuyệt vời. Tôi thử mạnh dạn đoán nhé, - Ông ta do dự- cuối thế kỷ thứ mười chín, một tám bảy mươi, có khả năng là một tám tám mươi. Đẹp quá. Bức chúng tôi từng có ở Louvre này không được như vậy.
Ông ta đưa lại bức tranh cho Adam và nói thêm:
- Ông hãy hiểu đây là phiên bản. Nguyên tác bức tranh Thánh George và con Rồng của Sa hoàng hiện đang trưng bày tại Cung điện Mùa đông ở Leningrad. Tôi đã thấy nó rồi - Ông ta nói có vẻ hơi tự mãn.
- Chắn chắn là ông đã thấy rồi.
Adam nén thở nói và cất bức tranh vào chiếc túi ni lông. Ông già cúi xuống sát mặt Jeanne và nói trước khi lê bước đi ra:
- Cũng khá buồn cười là dù chỉ mấy tuần trước có người đã hỏi về bức tranh Thánh của Sa hòang đấy.
Adam là người duy nhất không tỏ ra ngạc nhiên.
Viên chỉ huy tốp bảo vệ nói:
- Tôi chỉ...
- Làm nhiệm vụ của ông thôi - Adam nói nốt câu rồi nói thêm với vẻ hơi khen ngợi - Một sự thận trọng tự nhiên, tôi hiểu là thế. Tôi rất khâm phục cách làm việc vừa rồi của các ông.
Jeanne chăm chú nhìn hai người, hòan toàn không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Người bảo vệ nói, giọng ông ta nghe đã hết căng thẳng:
- Ông thật tốt bụng quá, monsieur.
Rồi ông ta mỉm cười với Jeanne và nói thêm:
- Hy vọng là ông bà sẽ còn trở lại đây.
Ông ta tiễn cả hai ra tận cổng điện Lourve, khi họ bước qua cửa ông ta đứng nghiêm chào.
Adam và Jeanne bước xuống các bậc cầu thang đi ra đường phố Paris đầy ánh nắng. Jeanne hỏi:
- Nào, bây giờ thì em có thể biết được mọi chuyện chưa?
Adam không giải thích mà nói lảng:
- Em thật là tuyệt vời.
Jeanne nói:
- Em biết rồi, nhưng tại sao anh lại phải trình diễn giải thưởng Oxca bên cạnh em trong khi bức tranh là của anh?
- Đúng vậy. Nhưng anh đã để nó lại để họ giữ hộ qua đêm. Và nếu không có sự trình diễn xuất sắc của em thì có thể phải khá lâu mới thuyết phục được các nhà chức trách hiểu bức tranh Thánh đó là của anh.
Nhìn vào mặt Jeanne Adam biết cô chẳng hiểu gì. Jeanne khoác tay Adam, nói:
- Anh biết không, đây là lần đầu tiên em đến điện Lourve.
Adam cười to, nói:
- Em là vật vô giá đấy.
Cô quay mặt lại anh, nói:
- Làm gì được như thế. Hai trăm phơ răng là giá mà chúng ta đã thỏa thuận, cho dù bức tranh có là của anh hay không.
- Đúng vậy. - Adam cầm chiếc ví của viên đại tá và rút ra hai tờ một trăm phơ răng, rồi anh ta lại rút thêm một tờ một trăm nữa. - Phần thưởng thêm vì em đã phục vụ xuất sắc.
Cô hoan hỉ bỏ tiền vào túi rồi nói:
- Em nghĩ em sẽ xả hơi một tối.
Adam ôm cô và hôn lên hai má làm như cô là một vị tướng Pháp vậy.
Jeanne hôn lên môi anh và mỉm cười:
- Chéri, anh yêu, lần sau tới Paris anh nhớ đến thăm em. Em còn nợ anh một lần đấy, ở nhà em nhé.
- Tại sao ông lại chắc chắn như vậy?
- Bởi vì Nam Cực cung cấp cho Pemberton quá nhiều thông tin.
- Ông nói thế nghĩa là thế nào?
- Anh nói với tôi rằng Pemberton đã nói rằng hắn sẽ không bao giờ gọi điện lại nếu như các anh cho hắn leo cây lần nữa. Không những hắn không gọi điện lại mà hắn còn muốn đánh lạc hướng các anh nữa. Hắn nói sẽ làm gì?
- Quay lại Geneva. Chuyện gì đó liên quan đến cô gái Đức và ngân hàng nữa.
- Con bé Đức thì đã chết, còn ngân hàng đóng cửa nghỉ cuối tuần. Nhất định hắn đang trên đường về Anh.
Adam nói với cô gái ngồi sau quầy:
- Tôi muốn thuê một chiếc xe và sẽ gọi điện lại đâu đó dọc bờ biển.Hiện tôi vẫn chưa quyết định sẽ dừng lại ở cảng nào.
Cô gái đáp:
- Được ạ, thưa ông. Xin ông làm ơn điền vào tờ khai này, với lại chúng tôi cần có bằng lái xe của ông nữa.
Adam dốc hết đám tờ giấy trong túi trong ra và đưa cho cô gái tấm bằng lái xe của tên đại tá. Anh chậm rãi điền vào tờ khai và bắt chước chữ kí của tên đại tá mà anh nhìn thấy trên tấm thẻ thành viên câu lạc bộ Play Boy. Anh đưa tiền mặt, hy vọng điều đó sẽ làm cô ta kiểm tra nhanh hơn.
Cô gái cầm nắm tiền và cẩn thận đếm từng tờ trước khi kiểm tra bằng lái và so sánh với chữ kí trong tờ khai. Adam nhẹ người khi thấy cô ta không nhận ra sự không phù hợp về ngày tháng năm sinh. Anh cất lại cả mớ giấy tờ của Albert Tomkins cùng với chiếc ví vào túi áo trong khi cô gái quay lại lấy chìa khóa điện treo trên tấm bảng phía sau:
Cô nói:
- Xe Citroen màu đỏ đậu ở tầng một, anh đưa chìa khóa điện cho người bảo vệ. Anh ta đánh xe ra khỏi chỗ đỗ và giao cho anh.
Khi người bảo vệ đưa lại chìa khóa cho anh, Adam đưa cho anh ta mười tờ francs. Đúng bằng số tiền mà người khác đã đưa cho anh ta để nếu có một người Anh có bề ngòai giống như Adam đến thuê một chiếc xe thì báo ngay cho người ấy biết. Người ấy còn hứa gì nữa nhỉ? Thêm một trăm nữa nếu anh có thể gọi điện báo tin trong vòng năm phút kể từ khi nhìn thấy Scott.
PHẦN BỐN KREMLIN - MOSCOW Ngày 19 tháng 6 năm 1966