Thẩm đạo sĩ không ở Trùng Dương Quan, cũng không ở Hàng Châu. Lão vốn là đệ tử của Nhữ Ngọc Chân Nhân, chưởng giáo của Lư Sơn Trường Nhạc cung. Nhữ Ngọc Chân Nhân hơn năm mươi năm trước đã phi thăng, chưởng giáo đương nhiệm bây giờ là sư huynh của lão, Tử Nguyên Chân Nhân. Thẩm đạo sĩ và sư huynh đã nhiều năm không gặp, vài ngày trước dẫn theo đồ đệ là Hà Linh đến thăm lão ấy.
Lư Sơn nguy nga hùng tráng, hồ nước hướng đông, mây tím bao phủ đỉnh, năm xưa Lữ Động Tân thành tiên ở đây, chính là đệ nhất bồng lai tiên cảnh của thế gian. Trường Nhạc cung nằm trên đỉnh núi, giữa trời nhìn xuống có thể thấy từng tầng cung điện nguyệt quế, lầu các và tàng ốc, ngói lam vảy ốc, cửa son hiển hách, cây cối phồn hoa, mây bay diễm lệ, thường có tiên hạc bay qua, thanh âm vang tận đầm sâu…
Trước đó Hà Linh chưa bao giờ tới nơi này, Tử Nguyên Chân Nhân kêu tiểu đồ đệ là Đạm Sơn dẫn hắn đi dạo chơi khắp bốn phía, hai tiểu đạo sĩ tuổi xấp xỉ nhau, nên rất nhanh thân quen.
Ngày hôm đó sau khi ăn xong điểm tâm, Đạm Sơn nói với Hà Linh: “Ngươi đã bao giờ thấy cây ngọc bích của Dao Trì chưa?”
Hà Linh lắc đầu: “Ta nghe nói loại cây này ngoại trừ ở Dao Trì và Côn Luân Sơn, những nơi khác đều không có.”
Đạm Sơn đắc ý nói: “Ai nói vậy, ở Lư Sơn chúng ta cũng có một gốc, nằm trong viện của Minh Hồ sư huynh, ta dẫn ngươi đi xem thử.”
Tử Nguyên Chân Nhân có rất nhiều đệ tử, Lữ Minh Hồ xếp thứ mười hai, tu vi thuộc hàng đứng đầu, là thiên tài được Đạo gia công nhận.
Hai mắt Hà Linh sáng lên, nhớ tới đủ loại đồn đãi về vị kỳ tài này, lại chần chừ nói: “Chỉ sợ sẽ quấy rầy tới việc tu luyện của Minh Hồ sư huynh, hay là bỏ đi.”
Đạm Sơn khẽ cười: “Minh Hồ sư huynh nửa tháng trước đã đến Thục Sơn tham gia Ngọc Lộ Đại Giao, nếu có hắn ở đây, làm sao ta dám mang ngươi đến đó?”
Hà Linh thở phào nhẹ nhõm, vừa đi theo vừa tò mò hỏi: “Minh Hồ sư huynh thật đúng như lời đồn sao, tâm như sắt đá, tàn nhẫn vô tình?”
Đạm Sơn nói: “Ta không biết, nhưng hắn rất có tài, chưa từng tu luyện cùng mọi người. Ta và các sư huynh khác thật ra không hiểu hắn lắm, vốn dĩ thiên tài đều khó nắm bắt, nhìn hắn có vẻ đơn thuần nhưng tâm tư lại phức tạp.”
Những lời này đối với thiếu niên mười mấy tuổi thực sự quá mức thâm thúy, bản thân Đạm Sơn cũng không hiểu cho lắm, nhưng lại giả vờ cao thâm trước mặt Hà Linh. Hà Linh gãi gãi đầu, cũng không nói gì.
Hai người đi đến Phi Sương Viện của Lữ Minh Hồ, quả nhiên trông thấy một gốc ngọc thụ hai người ôm không xuể, nhánh trông như ngọc lưu ly, lá giống như phỉ thúy, trên đó có những bông hoa nở to bằng miệng chén. Những cánh hoa có màu sắc tươi đẹp, trong suốt như ánh sáng, giống như chạm khắc từ ngọc bích đỏ.
Hà Linh tán thưởng không thôi, chợt ồ lên một tiếng: “Trên cây này sao còn có tổ chim?”
Chiếc tổ chim mắc kẹt thành một khối màu đen, giống như một nốt ruồi trên khuôn mặt mỹ nhân trông có vẻ hơi khó chịu.
Đạm Sơn nói: “Đó là Tiểu Hỉ Thước mà Minh Hồ sư huynh nuôi.”
“Hoá ra lão nhân gia là người thích nuôi chim!” Hà Linh giống như phát hiện ra chuyện quan trọng, vui sướng nhìn xung quanh, thấp giọng nói: “Ta cũng cho ngươi xem một vật hiếm thấy.”
Hắn lấy một chiếc gương cỡ lòng bàn tay từ trong tay áo ra, mặt gương vàng lấp lánh. Khi niệm chú, trên mặt gương hiện ra một gian phòng có bài trí như khuê phòng. Trên giường La Hán, một nam một nữ đang cởi y phục và thắt lưng, sắp làm chuyện mây mưa.
Đạm Sơn cười ha hả nói: “Thứ này lấy từ đâu?”
Hà Linh nói: “Ta lén sư phụ mua ở Hải Thị.”
Quần áo trong gương vương vãi khắp sàn, nữ tử thoát y không một mảnh vải che thân, lộ ra da thịt trắng như tuyết, bị nam tử đặt ở dưới thân, phát ra từng tiếng r3n rỉ hút hồn. Hai tiểu đạo sĩ mặt đỏ bừng chăm chú nhìn, không biết rằng phía sau có một nữ tử mặc y phục trắng.
Nhìn thấy xuân cung đồ kết thúc, mặt gương trở lại bình thường, lại có ba khuôn mặt, hai người giật mình quay đầu lại nhìn về phía thiếu nữ kia.
Dáng người nàng không cao, ước chừng mười lăm mười sáu tuổi, trên đầu búi tóc đen nhánh, cài một cây trâm màu xanh ngọc bích, khuôn mặt thanh tú trắng nõn, giữa lông mày linh khí bức người. Nàng đối diện với ánh mắt của bọn họ, tròng mắt chớp nhanh, chắp hai tay phía sau, nói: “Hai tiểu đạo sĩ các ngươi không tuân thủ quy củ, lén lút xem loại chuyện này, ta sẽ báo cho sư phụ của các ngươi!”
Đạm Sơn vừa xấu hổ vừa bực bội, trừng mắt nhìn nàng: “Sư phụ sẽ không tin lời nói của một tên trộm!”
Thiếu nữ đưa bàn tay mảnh khảnh lên, chỉ vào Hà Linh: “Chứng cứ ở trên người hắn ta, lục soát một chút chẳng phải sẽ biết rõ hay sao!”
Hà Linh cất cái gương xuân cung kính đang cầm, như thể đang giấu một củ khoai lang nóng bỏng tay, chân tay luống cuống nhìn Đạm Sơn, nói: “Nàng là người phương nào?”
Đạm Sơn oán giận: “Nàng không phải người, nàng là Tiểu Hỉ Thước do Minh Hồ sư huynh nuôi, thường xuyên trộm pháp bảo của chúng ta, Minh Hồ sư huynh cũng mặc kệ.”
Thiếu nữ lý lẽ hùng tráng nói: “Chính các ngươi không tìm thấy pháp bảo, ngươi còn có gan trách tội ta?”
Đạm Sơn tay nắm chặt thành đấm, tức giận đến nói không ra lời.
Hà Linh biết Tiểu Hỉ Thước thích những thứ lấp lánh, bèn lấy một chiếc túi gấm nhiều màu sắc ra, thở dài nói: “Tiên cô, ngươi thay chúng ta giữ bí mật, ta tặng cái túi gấm này cho ngươi, trao đổi như thế này có được không?”
Thiếu nữ nhìn túi lụa trong tay hắn, hình như có chút động lòng, cắn môi nói: “Ta không muốn cái này, ta biết ngươi và sư phụ ngươi đều là người đến từ Hàng Châu, nếu ngươi đồng ý đưa ta đi Hàng Châu chơi, ta sẽ thay các ngươi giữ bí mật.”
Ban đêm, Hà Linh bưng tới một chậu nước nóng, ngồi trên chiếc ghế nhỏ bên giường, cởi giày vớ thay Thẩm đạo sĩ: “Sư phụ, hôm nay con kết giao được một bằng hữu mới, nàng tên Lữ Đại, là Tiểu Hỉ Thước do Minh Hồ sư huynh nuôi, nàng muốn cùng chúng ta đến Hàng Châu chơi.”
Thẩm đạo sĩ nói: “Minh Hồ không có ở đây, nếu chúng ta tự tiện dẫn linh sủng của hắn đi là chuyện không hợp đạo lý.”
“Người chỉ cần nói với sư bá một tiếng là được, linh sủng không phải tù nhân, chỉ cần nàng bình an vô sự, nàng muốn đi thì Minh Hồ sư huynh cũng sẽ không làm khó.” Hà Linh bị Lữ Đại nắm được nhược điểm, không thể không liên tục thuyết phục sư phụ nhiều lần, lúc bấy giờ Thẩm đạo sĩ mới đáp ứng.
Ngày hôm sau khi nhìn thấy Lữ Đại, Thẩm đạo sĩ không khỏi cười nói: “Dáng vẻ này, người ngoài không rõ còn tưởng nàng là muội muội thân sinh của Minh Hồ.”
Lữ Đại đã sống hơn hai trăm năm, Lữ Minh Hồ là người thân cận nhất của nàng, cũng là người đẹp nhất mà nàng từng thấy. Lúc trước nàng hóa thành hình người, là dựa theo dáng vẻ của y.
Tử Nguyên Chân Nhân nói: “Minh Hồ đối xử với nàng cũng không khác gì muội muội thân sinh, cho nàng ăn linh đan tiên thảo chữa được bách bệnh, dạy nàng bí thuật đạo môn. Mấy tiểu đồ đệ kia của ta không phải là đối thủ của nàng, thường ngày đều bị nàng trêu đùa. Minh Hồ mù quáng bao che khuyết điểm của nàng, ta cũng không thể trách được.”
Đạm Sơn ở bên cạnh thở hồng hộc nói: “Sư phụ đang thiên vị Minh Hồ sư huynh, hắn bao che cái gì, ngài cũng che chở như vậy!”
Tử Nguyên Chân Nhân nghiêm mặt nói: “Vi sư từ trước đến nay đối xử với tất cả đều như nhau, chưa từng thiên vị ai. Lữ Đại mặc dù bướng bỉnh, nhưng con người là linh trưởng của vạn vật, làm sao có thể so đo với một Tiểu Hỉ Thước?”
Đạm Sơn không còn lời nào để nói, nghiến răng trừng mắt nhìn Lữ Đại.
Tử Nguyên Chân Nhân quay đầu lại căn dặn Lữ Đại ra ngoài phải khiêm tốn, không được gây họa và nhiều chuyện khác. Lữ Đại gật đầu, dáng vẻ vô cùng ngoan ngoãn, có thể thấy được Tử Nguyên Chân Nhân rất thương yêu nàng, lão còn lấy ra một cái túi vải màu xanh, đưa cho nàng: “Thế đạo hiểm ác, lòng người khó đoán, trong này có ba lá phù, ngươi mang theo phòng thân.”
Lữ Đại cảm tạ rồi nhận lấy, Đạm Sơn nhếch miệng, thầm nghĩ còn nói là không thiên vị.
Cũng hết cách rồi, Trường Nhạc cung xưa nay không thu nhận nữ đệ tử, Tử Nguyên Chân Nhân cả ngày lại đối mặt với một đám nam đệ tử, mấy trăm năm nay ít nhiều cũng có chút phiền muộn, đột nhiên xuất hiện một tiểu cô nương giống đệ tử yêu quý của mình, cho dù nàng là yêu, trong lòng cũng bất giác thiên vị đôi phần.
Thẩm đạo sĩ cáo từ Tử Nguyên Chân Nhân, dẫn theo Hà Linh và Lữ Đại lên ngự kiếm, đi thẳng đến Bích Tiêu. Kiếm khí gào thét, giống như một đôi kéo sắc bén cắt qua biển mây, trong nháy mắt đã rời khỏi Lư Sơn, thành quách thôn xóm dưới mắt đất hầu như không nhìn thấy, núi sông trùng điệp giống như một bức hoạ lớn vẽ tay.
Lữ Đại ngồi phía sau Hà Linh, nghe hắn thao thao bất tuyệt: “Có câu nói là Tam Ngô Chi Châu, lớn hơn cả Hàng. Hàng Châu của chúng ta từ xưa đến nay đều có nhân kiệt xuất chúng, hồ núi đẹp đẽ, bách tính an cư lạc nghiệp.. Phóng tầm mắt nhìn toàn bộ Giang Nam, chỉ có Tô Châu có thể phân cao thấp với Hàng Châu, ngươi đã từng đến Tô Châu chưa?”
Lữ Đại gật gật đầu, nói: “Minh Hồ dẫn ta đi rồi.”
Đó là vào thời gian Hạ Nguyệt hơn mười năm trước, nàng vừa mới biến thành hình người, đi theo Lữ Minh Hồ đến bái một cao tăng ở Hàn Sơn Tự. Họ không ngự kiếm mà đi thuyền từ Cửu Giang như phàm nhân. Lữ Minh Hồ mặc đạo bào trắng, đầu đội khăn gấm, chân đi giày mây xanh, tướng mạo bụi bặm, tựa như hai người khác nhau.
Những người cùng thuyền đều nói huynh muội bọn họ có vẻ ngoài trông giống nhau, Lữ Đại trừng mắt nhìn, sau đó quay đầu đối mặt Lữ Minh Hồ: “Ca ca, ta nóng quá.”
Lữ Minh Hồ nhìn nàng một lát rồi lấy quạt xếp ra, quạt cho nàng. Đây là đãi ngộ mà Tử Nguyên Chân Nhân cũng không có, Tiểu Hỉ Thước giương khóe môi, mặt mày đầy sự đắc ý, mơ màng tựa đầu vào vai y ngủ thiếp đi.
Đến Hàn Sơn Tự, Lữ Minh Hồ đàm kinh luận sách với vị sư già có lông mày dài và bộ râu dài, mãi không thấy dứt. Nàng một mình đi vào thành chơi đùa, nhìn thấy trên đường phố cửa hàng san sát nối tiếp nhau, người đến kẻ đi, vô cùng náo nhiệt.
Đi dạo đến trời tối, nàng ăn một bát mì hoành thánh ở bên đường, đi về nơi có ánh đèn đuốc sáng trưng. Gió đêm thổi tới mùi hương son phấn, hai bên lầu các đỏ thắm, biển hiệu lớn viết hai chữ “Hoa Liễu”, dưới bức màn trước cửa có vài nữ tử trang điểm đậm nhạt sóng vai đứng cùng nhau, nghênh đón nói cười, gọi mời làm người ta mê mẩn.
Lữ Đại đang muốn vào xem thì ống tay áo bị người ta giữ chặt, nàng quay đầu kinh ngạc: “Sao ngài lại tới đây?”
Lữ Minh Hồ nói: “Sợ ngươi gặp rắc rối nên ta để người giấy đi theo ngươi.”
Lữ Đại nắm lấy cổ tay của y, dùng linh lực kiểm tra, phát hiện đó không phải là bản tôn* của y, mà là một một sợi thần thức bám vào người giấy.
*bản tôn: người thật.
“Đây không phải là nơi ngươi nên tới, ta dẫn ngươi đi Xương Môn dạo chơi.” Người giấy muốn kéo nàng đi, nàng đứng đó bất động, tò mò nhìn y, nói: “Đây là nơi nào, vì sao ta không nên tới?”
Người giấy mấp máy môi: “Đây là nơi nam tử truy hoan mua vui, ngươi là nữ tử, đương nhiên không nên tới.”
Lữ Đại càng lúc càng khó hiểu: “Truy hoan mua vui như thế nào? Để ta xem trước rồi rời đi.”
Người giấy cau mày, giống như khó mà mở miệng, nửa ngày sau mới thấp giọng nói: “Chính là chuyện nam nữ song tu, ngươi từng xem qua chưa?”