Chương 1: Lời tiên đoán
Longren là thủy thủ của con tàu “Orion” chở được ba trăm tấn. Anh làm việc trên con tàu đó đã mười năm và gắn bó với nó có lẽ còn thân thiết hơn là con với mẹ. Nhưng cuối cùng thì anh cũng phải rời bỏ con tàu.Chuyện xảy ra như thế này. Vào một trong những chuyến về thăm nhà hiếm hoi, anh không thấy chị Meri, vợ anh, từ xa đứng trên ngưỡng cửa vẫy vẫy tay, rồi sau đó chạy tới đón anh, thở hổn hển chừng như đứt hơi. Bên chiếc giường trẻ con - đồ vật mới trong căn nhà nhỏ của Longren - anh chỉ thấy bà hàng xóm với dáng vẻ đầy xúc động.
- Đã ba tháng rồi tôi phải chăm sóc nó đấy, - bà hàng xóm nói. - Anh hãy nhìn con gái anh đi!
Longren lặng người, cúi xuống đứa trẻ tám tháng đang chăm chăm nhìn bộ râu dài của anh, rồi anh ngồi xuống, đầu cúi, tay vân vê bộ râu. Râu anh ướt đầm vì mưa.
- Meri chết bao giờ hở bác? - Anh hỏi.
Người đàn bà kể lại câu chuyện buồn thảm, chốc chốc dừng lại nựng đứa bé và quả quyết rằng Meri đã được lên thiên đường. Khi Longren biết rõ câu chuyện thì thiên đường đối với anh chẳng sáng sủa hơn nhà chứa củi là bao nhiêu, và anh nghĩ rằng nếu như bây giờ có cả vợ anh thì ánh lửa của chiếc đèn nhỏ có thể là một niềm vui không gì thay thế được đối với người phụ nữ đã đi vào xứ sở huyền bí.
Chừng ba tháng trước, người mẹ trẻ gặp phải chuyện không may. Hơn nửa số tiền Longren để lại, Meri đã tiêu tốn vào việc chữa chạy sau lần đẻ khó, vào việc chăm sóc sức khỏe cho đứa trẻ sơ sinh. Thêm nữa, Meri lại đánh mất một số tiền tuy không nhiều nhưng rất cần cho cuộc sống của hai mẹ con. Hoàn cảnh khó khăn đó đã buộc Meri phải đến nhà Menec vay tiền. Menec là chủ quán rượu, có một cửa hàng tạp hóa nhỏ. Y được coi là kẻ giàu có.
Meri đến nhà у vào lúc sáu giờ tối. Gần bảy giờ, bà hàng xóm gặp chị trên đường đến thị trấn Lis. Meri vừa khóc vừa buồn bã kể rằng chị phải đi lên phố để cầm chiếc nhẫn cưới. Chị nói thêm rằng Menec đồng ý đưa tiền cho chị, nhưng đòi chị phải yêu hắn. Meri đành về không.
- Nhà cháu không còn gì ăn, bác ạ, - chị nói với bà hàng xóm. - Cháu phải đi lên phố cố kiếm ít tiền, rồi hai mẹ con gắng lần hồi cho đến khi nhà cháu về.
Tối hôm đó trời vừa rét vừa có gió thổi, bà hàng xóm đã không ngăn được Meri đi lên phố vào ban đêm. “Cháu sẽ bị ướt, Meri ạ, trời đang lát phát mưa, cứ cái điệu gió này thì trời sắp mưa to đấy!”.
Từ làng ven biển lên thị trấn Lis cả đi lẫn về nhanh cũng mất ít nhất ba giờ, nhưng Meri không nghe theo lời khuyên của bà hàng xóm. “Thôi, cháu không muốn quấy quả các bác nữa, - Meri nói, - gần như nhà nào cháu cũng từng vay bánh mì, chè hay bột. Đem cầm chiếc nhẫn này là xong thôi bác ạ”. Meri đi lên phố về, đến hôm sau thì lên cơn sốt cao, mê sảng. Trời đêm lạnh giá đã làm chị bị viêm phổi nặng - theo lời ông bác sĩ trên phố được bà già tốt bụng mời về cho biết. Một tuần sau, chiếc giường đôi của Longren đã trống không, bà hàng xóm dọn sang nhà anh ở để chăm sóc đứa trẻ. Đối với một người đàn bà góa bụa cô đơn như bà thì việc đó không khó. “Thêm nữa, - bà nói tiếp, - không có đứa bé ấy thì cũng buồn”. Longren đi lên phố, xin thôi việc, từ biệt bạn bè rồi trở về nhà nuôi nấng bé Axon. Khi đứa bé đi chưa vững thì bà hàng xóm còn ở lại trong nhà Longren, thay thế người mẹ quá cố chăm sóc nó. Nhưng khi Axon đi vững, bước qua được ngưỡng cửa, thì Longren quyết định sẽ tự mình nuôi dạy đứa trẻ. Anh cám ơn bà hàng xóm đã tận tình giúp đỡ anh.
Rồi từ đấy, anh sống cuộc đời cô đơn của người góa vợ, tập trung tất cả ý nghĩ, hy vọng, tình cảm và kỷ niệm của mình vào đứa trẻ.
Mười năm sống nay đây mai đó chỉ đem lại cho anh một số tiền rất nhỏ. Anh bắt đầu làm việc, ít lâu sau, trong những cửa hiệu trên phố đã thấy bày bán những đồ chơi do chính tay anh khéo léo làm ra, những chiếc thuyền nhỏ, xuồng máy, thuyền buồm một boong, hai boong, tàu thủy, tàu tuần dương, tóm lại tất cả những gì anh đã gần gũi, những gì trong khi làm việc đã phần nào thay thế cho anh cuộc sống ồn ào ngoài cảng, thay thế được lao động đầy thơ mộng của những chuyến đi biển. Bằng công việc đó, Longren đã kiếm tiền để hai bố con có thể sống một cách tằn tiện. Vốn là người ít giao du, sau khi vợ mất, Longren lại càng trở nên kín đáo, ít cởi mở hơn. Vào những ngày lễ, thỉnh thoảng người ta thấy anh trong quán rượu, nhưng anh không bao giờ ngồi mà chỉ vội vàng uống một cốc rượu ngay tại quầy rồi ra về, đáp lại lời thăm hỏi của mọi người một cách vắn tắt: “Xin chào”, “Tôi đi nhé”, “Vâng”, “Không”, “Cũng thường thôi”. Anh không thích tiếp khách. Khi có khách, anh khéo léo tỏ ý muốn họ về bằng những lời nói bóng gió xa xôi hay những cớ do anh tưởng tượng ra. Những lúc ấy, khách chỉ còn cách là nghĩ ra một lý do nào đó để cáo từ. Phần anh cũng không thăm ai, vậy là giữa anh và dân làng có cái gì lạnh lùng ngăn cách. Nếu như việc làm đồ chơi của anh phụ thuộc nhiều vào công việc của dân làng thì quan hệ như thế có thể đem lại cho anh nhiều khó khăn. Thức ăn dự trữ và các thứ hàng cần thiết anh mua trên thị trấn - Menec không thể khoe khoang được rằng Longren đã mua hàng ở cửa hiệu của y, dù chỉ là một bao diêm. Anh tự mình làm mọi việc trong nhà và tỏ ra rất chịu khó nuôi dạy con gái, một việc vốn phức tạp, không phải của đàn ông.
Axon đã lên năm tuổi.
Khi em ngồi trên đùi Longren, chăm chú mân mê chiếc áo gile hay ngộ nghĩnh hát những bài ca thủy thủ, Longren thường dịu dàng cười với con, ngắm nghía gương mặt hiền lành, lanh lợi của con. Qua giọng hát con trẻ, những bài hát ấy gợi nhớ đến con gấu thắt đai xanh đang vụng về nhảy múa. Vào thời gian đó có một chuyện xảy ra bao trùm bóng đen lên cả hai bố con.
Dạo ấy là đầu mùa xuân, thời tiết còn khắc nghiệt như mùa đông, nhưng theo một kiểu khác. Khoảng ba tuần liền, gió bấc từ phía biển thổi mạnh về miền đất lạnh.
Thuyền đánh cá được kéo lên bờ, xếp thành dãy dài trên bãi cát trắng tựa như vây lưng những con cá khổng lồ. Không ai dám đi biển lúc tiết trời như thế. Trên con đường duy nhất ở làng chẳng mấy khi gặp người nào rời khỏi nhà. Cơn lốc lạnh lẽo từ những ngọn đồi ven biển thổi thốc vào chân trời trống trải, biến không trung thành một trò tra tấn khắc nghiệt. Suốt từ sáng đến tối, khói tỏa trên những mái nhà dốc đứng trong làng Caperna.
Nhưng những ngày gió bấc ấy lại làm Longren thích ra khỏi căn nhà nhỏ ấm cúng hơn là vào những ngày mặt trời tỏa ánh vàng xuống mặt biển và làng Caperna. Longren đi đến chiếc cầu nhỏ dựng trên những hàng cọc dài, rồi đứng ở tận cuối cầu mà ngậm tẩu hút thuốc dưới trời gió rét. Anh nhìn những con sóng bạc đầu nối tiếp nhau đang dữ dội tràn vào bờ tung bọt trắng xóa, những đợt sóng chạy ầm ầm lan khắp vùng chân trời giông bão đen ngòm, hệt như một đàn quái vật hung dữ đang l*иg lộn trong cơn tuyệt vọng tìm đến một niềm an ủi xa xôi. Những tiếng ầm ào, từng loạt cột nước dựng lên và cả những luồng gió tưởng như thấy được đang vằm nát xung quanh - từng đợt một thật đều, thật mạnh, - làm dịu lại tâm hồn đau đớn của Longren, giảm đi nỗi buồn da diết, như đưa anh vào giấc ngủ thật say.
Có lần, vào một trong những ngày ấy, đứa con trai mười hai tuổi của Menec tên là Khin trông thấy chiếc thuyền của bố buộc dưới cầu bị sóng xô vào chân cầu chực làm vỡ mạn thuyền, bèn về nói lại với bố. Trước lúc cơn bão kéo đến, Menec quên kéo thuyền lên bờ cát. Y lập tức chạy ra ngoài biển và nhìn thấy Longren đang đứng hút thuốc tận cuối cầu, lưng quay về phía y. Trên bờ biển, ngoài họ ra, không còn ai. Menec ra đến giữa cầu, bước xuống con nước đang sôi sục và tháo dây buộc thuyền. Y đứng trên thuyền, tay lần mái chèo. Bỗng у lỡ đà không kịp bíu vào cái cọc tiếp theo. Cùng lúc đó, một cơn gió mạnh ập đến quay ngược mũi thuyền ra phía biển. Bây giờ thì dù có vươn cả người, у cũng không thể với tới chiếc cọc gần nhất nữa. Sóng gió chao đảo chiếc thuyền, cuốn nó vào không gian chết chóc. Thấy thế, Menec định nhảy xuống nước để bơi vào bờ, nhưng quyết định của у đã quá muộn, bởi vì con thuyền đã trôi ra một quãng xa ngoài phía cuối cầu, nơi nước sâu sóng to chắc chắn sẽ dìm у chết. Khoảng cách giữa Longren và Menec đang bị cuốn ra ngoài xa lúc ấy chỉ chừng mười xagien[1]. Có thể cứu được Menec, bởi vì ngay chỗ Longren đứng có một cuộn dây to treo ở đấy. Người ta để sẵn cuộn dây ở đó để phòng khi thuyền về bến gặp sóng gió khó vào bờ thì ném nó xuống thuyền.
[1] Xagien: Đơn vị đo chiều dài Nga = 2,134.
- Longren! - Menec kinh hoàng kêu lên. - Sao anh cứ đứng yên như phỗng thế kia? Ta đang bị cuốn đi đây này! Ném dây xuống đi!
Longren im lặng, thản nhiên nhìn Menec đang luống cuống trong thuyền. Chỉ có khói thuốc là tỏa ra nhiều hơn trên chiếc tẩu của anh. Anh chậm rãi bỏ chiếc tẩu, như để nhìn rõ hơn điều đang xảy ra.
- Longren! - Menec kêu cứu. - Nghe thấy ta gọi chứ? Ta sắp chết đến nơi rồi, cứu ta với!
Nhưng Longren không nói với hắn một lời nào, dường như anh không nghe thấy tiếng gào tuyệt vọng của hắn. Chừng nào chiếc thuyền chưa bị cuốn ra xa đến mức tiếng kêu cứu của Menec không còn nghe thấy nữa, chừng ấy Longren còn đứng yên không nhúc nhích. Menec khóc rống lên vì sợ, van nài Longren chạy về báo với dân chài, nhờ họ ra cứu, hứa cho tiền, rồi lại đe dọa, chửi rủa, nhưng Longren chỉ bước ra thêm mấy bước đến tận sát mép cầu để không mất hút con thuyền đang bị sóng dồn lên dập xuống.
- Longren! - Anh nghe thấy tiếng gọi mơ hồ như người trong nhà nghe người gọi từ trên mái. - Cứu tôi với!
Lúc ấy, Longren hít thật sâu rồi gào lên thật to để không một lời nào của anh bị mất hút đi trong tiếng gió:
- Vợ tao cũng đã từng kêu cứu với mày như thế! Hãy nhớ lại điều đó đi, chừng nào mày còn sống, đừng quên, Menec ạ!
Lúc đó tiếng gào im bặt, và Longren trở về nhà. Khi tỉnh dậy, Axon thấy bố đang ngồi bên ngọn đèn gần tắt, vẻ mặt hết sức đăm chiêu. Nghe thấy tiếng con gái gọi, anh đến bên con, ôm chặt con mà hôn rồi kéo chăn đắp lại cho con.
- Ngủ đi, con yêu của bố! - Anh nói. - Còn lâu mới sáng, con ạ.
- Bố làm gì đấy?
- Bố vừa làm xong một đồ chơi xấu. Ngủ đi, Axon!
Ngày hôm sau, dân làng Caperna xôn xao bàn tán về chuyện Menec bị mất tích. Đến ngày thứ sáu thì người ta đem Menec về làng, sống dở chết dở, vẻ mặt đầy ác độc. Chuyện у kể chẳng mấy chốc lan truyền đi khắp các làng lân cận. Menec lênh đênh trên sóng biển cho đến chiều. Y đã phải vật lộn với sóng nước lúc nào cũng chực dìm у xuống đáy biển, cả người va đập liên tiếp vào mạn thuyền và lòng thuyền mãi cho đến khi được chiếc tàu “Lucrexia” đi Catxet vớt lên. Bị cảm lạnh và phải sống qua những giờ phút kinh hãi cực độ, у chỉ sống thêm được hai ngày đêm nữa.
Trước khi chết у cầu mong cho Longren gặp phải mọi tai họa có thể có trên đời và trong tưởng tượng. Câu chuyện về việc Longren chứng kiến tai họa của Menec mà không cứu giúp được tô vẽ thêm bằng hơi thở nặng nề và rền rĩ của Menec, đã làm dân làng Caperna kinh ngạc. Cả làng chẳng còn mấy ai nhớ đến nỗi đau khổ nặng nề mà Longren đã phải chịu đựng, và cũng chẳng còn mấy ai hết sức đau khổ về Meri như Longren đã đau khổ cho đến hết đời mình. Dân làng cảm thấy kinh sợ, khó hiểu về thái độ im lặng của Longren lúc đó. Cho đến khi nói những lời cuối cùng cho Menec, Longren đã đứng lặng yên, không nhúc nhích, nghiêm nghị và trầm lặng như một người phán xét biểu lộ sự khinh bỉ cực độ đối với Menec. Sự khinh bỉ ấy còn đáng sợ hơn cả lòng căm thù, và điều này mọi người đều cảm thấy. Nếu anh hét lên, vung tay múa chân hoan hỉ lộ rõ sự khoái trá khi thấy kẻ thù gặp nạn, hoặc là bằng cách nào khác tỏ rõ sự đắc thắng của mình khi Menec đang tuyệt vọng, thì dân làng đã có thể hiểu được anh. Nhưng anh lại hành động khác với họ, anh đã cư xử thật lạ lùng, thật đáng kinh ngạc, và bằng cách đó anh đã đứng cao hơn những người khác. Nghĩa là anh đã làm một điều không thể tha thứ được. Từ lúc ấy, không ai chào anh, không ai bắt tay hay nhìn anh một cách vui vẻ hồ hởi nữa. Anh hoàn toàn xa cách với mọi chuyện trong làng. Trẻ con trông thấy anh chạy theo đồng thanh hô: “Longren dìm chết Menec”. Anh không thèm để ý đến những chuyện ấy. Hình như anh cũng không nhận thấy rằng khi anh xuất hiện trong quán rượu hay ngoài bờ biển thì dân chài ở đấy đều im bặt, tránh xa anh như tránh người mắc bệnh dịch hạch. Chuyện xảy ra với Menec đã khoét sâu thêm sự ngăn cách giữa Longren với dân làng, trước kia còn chưa sâu sắc lắm. Bây giờ khi sự ngăn cách đó trở nên sâu sắc thì hai bên đều thấy căm ghét nhau và điều này đã ảnh hưởng đến cả Axon. Cô bé đã lớn lên mà không có bạn bè. Hai ba chục đứa trẻ cùng lứa tuổi ở làng Caperna, khác nào chiếc bọt biển thấm nước, đã nhiễm phải định kiến thô bạo của gia đình mà cơ sở của nó là uy tín tuyệt đối của cha mẹ. Bọn chúng nhanh chóng tiếp nhận điều đó, như mọi trẻ con trên thế giới, và tẩy chay cô bé Axon, loại bỏ em ra khỏi môi trường của chúng. Điều này đã xảy ra một cách dần dà, bằng đe nẹt, dọa dẫm của người lớn. Họ cấm đoán bọn trẻ chơi với Axon, thêu dệt những chuyện méo mó để rồi cuối cùng, với đầu óc non nớt của chúng, bọn trẻ tự nhiên thấy sợ hãi trước gia đình người thủy thủ. Thêm vào đấy, lối sống cách biệt của Longren làm cho mọi người càng dễ bề đơm đặt vu khống. Người ta nói rằng thủy thủ Longren đã từng gϊếŧ người ở đâu đó, và vì thế không được nhận làm trên tàu nữa, còn bản thân anh bây giờ trở nên cô độc u sầu vì “bị lương tâm cắn rứt”. Bọn trẻ xua đuổi Axon nếu cô bé lân la đến chơi với chúng, chúng ném đất vào em, trêu chọc em rằng bố em đã từng ăn thịt người và bây giờ đang làm bạc giả. Lần nào Axon định đến gần bọn trẻ, em cũng bị cào cấu, đánh đập thâm tím, em khóc lóc cay đắng và chịu mọi biểu hiện khác của dư luận xã hội; cuối cùng em cũng không còn cảm thấy bị nhục mạ nữa. Nhưng đôi khi em vẫn hỏi bố em: “Bố ơi, sao họ không yêu bố con mình?” - Longren đáp: “Này, Axon, lẽ nào họ biết yêu? Cần phải biết yêu, nhưng điều này thì họ không làm được”.
- “Thế nào là biết yêu hở bố?” - “Là thế này, con ạ!” - Anh liền bế con gái lên và hôn thật lâu vào đôi mắt đượm buồn của con, đôi mắt đang lim dim vì được âu yếm.
Những phút chơi đùa thích thú nhất của Axon là vào buổi tối hay ngày lễ, khi bố em thu dọn hộp đựng hồ dán, đồ lề, các công việc đang dở dang sang một bên, cởi chiếc tạp dề ra, ngậm tẩu thuốc vào miệng rồi bế em ngồi lên đùi mình.
Những lúc ấy, Axon ngồi trong vòng tay nâng niu của bố, vừa sờ mó những đồ chơi khác nhau vừa hỏi bố về công dụng của từng thứ đồ vật ấy. Longren lại có dịp kể chuyện thật lạ kỳ về cuộc sống và con người. Do trước đây Longren đã sống một cuộc đời nay đây mai đó, câu chuyện anh kể thường chứa đầy những sự kiện tình cờ, lạ kỳ và đáng kinh ngạc. Longren nói với con tên những loại dây dợ, buồm, những vật dụng trên tàu, rồi dần dần say sưa chuyển từ lời giải thích sang kể những tình huống khác nhau trong đó vai trò chính là cái tời để thả và cát neo, bánh lái, cột buồm hay một loại thuyền nào đấy, và từ những minh họa cụ thể đó anh chuyển sang kể lại những cảnh đi biển đầy phóng khoáng, kết hợp chuyện mê tín với chuyện thật, chuyện thật với các hình ảnh do anh hư cấu ra. Trong chuyện đó mới xuất hiện nào là con mèo cọp báo hiệu đắm tàu, nào là con cá bay biết nói, nếu không nghe lệnh của nó sẽ đi lạc đường, nào là những điềm báo, những hồn ma, nàng tiên cá, những tên cướp biển, nói tóm lại là tất cả những chuyện hoang đường mà các thủy thủ đã kể cho nhau nghe trong quán rượu quen thuộc hay trên tàu những khi gió lặng. Longren còn kể về những lần đắm tàu, về những người lạc trên đảo lạ đã trở thành man rợ đến nỗi quên cả tiếng nói, về những kho báu bí mật, về những người tù khổ sai nổi loạn và nhiều chuyện khác. Axon nghe bố kể có lẽ còn chăm chú hơn khi người ta nghe ông Colomb kể lần đầu về chuyện tìm ra châu Mỹ. “Bố kể nữa đi”, - bé Axon nói với bố khi Longren ngừng kể, vẻ mặt tư lự; rồi em thϊếp đi trên ngực bố trong giấc ngủ đầy những giấc mơ kỳ lạ. Axon cũng rất mừng mỗi lần người buôn đồ chơi trên thị trấn về nhà Longren mua hàng. Để lấy lòng Longren và để mua được rẻ hơn, người lái buôn thường đem quà cho Axon, khi thì vài quả táo, cái bánh ngọt, khi thì nắm hạt dẻ. Thường thì Longren chỉ nói đúng giá tiền thứ đồ chơi mình làm ra vì anh không thích thú gì chuyện cò kè mua bán. Nhưng lần nào người lái buôn cũng đòi bớt. “Ồ, sao lại thế ông, - Longren nói, - tôi phải ngồi cả tuần mới làm được chiếc thuyền buồm đấy. Chiếc thuyền này dài năm versoc[2], ông cứ nhìn xem, chắc chắn lắm đấy, phần chìm lại chất lượng tốt nữa. Có thể chở được mười lăm người trong mọi thời tiết đấy”. Kết cục là tiếng đứa con gái đang khẽ hát ru quả táo đã làm Longren mềm lòng, anh hết muốn tranh cãi với người lái buôn, và у cuối cùng đã mua được rẻ. Y cho những đồ chơi chắc chắn, tuyệt đẹp ấy vào làn rồi ra về, tủm tỉm cười.
[2] Versoc: Đơn vị đo chiều dài Nga = 4,4cm.
Mọi việc trong nhà, Longren tự tay làm hết: bổ củi, xách nước, đốt lò, nấu ăn, giặt giũ, là quần áo, dọn dẹp mọi thứ. Tuy vậy, Longren vẫn dành thời gian để kiếm tiền. Khi Axon lên tám tuổi, anh đã dạy con đọc, viết.
Thỉnh thoảng anh đưa con lên thị trấn. Sau đó đôi lần anh còn để con đi đến đó một mình mỗi khi cần phải vay tạm ít tiền ngoài cửa hiệu, hay đi đưa hàng. Điều này cũng ít xảy ra dù thị trấn Lis chỉ cách làng Caperna vẻn vẹn bốn dặm. Nhưng vì đường đi phải qua một khu rừng thì thiếu gì cái làm trẻ con sợ sệt, chưa nói đến những nguy hiểm tuy cũng khó xảy ra vì ở gần phố xá nhưng không phải là không cần tính đến. Cho nên chỉ vào những buổi sáng thật đẹp trời, khi hai bên đường chan hòa ánh nắng, hoa cỏ tốt tươi, bầu trời vắng lặng, Axon không còn tâm trí đâu mà tưởng tượng đến những điều đáng sợ nữa, những lúc ấy Longren mới cho con gái đi một mình lên phố.
Một lần, trên đường đi lên phố, cô bé Axon ngồi lại nghỉ và lấy miếng bánh rán để trong làn ra ăn lót dạ buổi sáng. Vừa ăn, Axon vừa ngắm nghía các đồ chơi mang theo: cô bé thấy vài ba thứ đồ chơi lạ, những thứ này cha cô đã làm về khuya. Trong số đó có một chiếc thuyền đua nhỏ sơn màu trắng với những cánh buồm đỏ thắm làm bằng những mảnh lụa mà Longren chuyên dùng để trang hoàng cho các căn buồng trên tàu thủy lớn - thứ đồ chơi dành cho trẻ con các gia đình lắm tiền. Chắc là sau khi đẽo xong chiếc thuyền đua màu trắng, Longren không biết lấy gì để làm buồm và đã tình cờ ghép vào đấy những mảnh lụa màu đỏ thắm. Axon mừng quá. Màu lụa thắm của những cánh buồm bé xíu đỏ rực trên tay Axon, dường như cô bé đang nâng niu một ngọn lửa. Đường lên phố đi qua một chiếc cầu nhỏ ghép bằng gỗ thô, dưới cầu là một con suối len lỏi trong cánh rừng. “Mình thả thử xuống nước cho nó bơi một chút xem sao, - Axon nghĩ, - nó có bị ướt thì mình lại lau khô được ngay thôi mà”.
Cô bé đi sang bên kia cầu rồi men theo dòng suối, rẽ vào cánh rừng, khẽ khàng đặt chiếc thuyền mà cô yêu thích xuống mặt nước sát bên bờ. Cánh buồm in hình đỏ thắm trong làn nước trong veo, và tia sang mặt trời chiếu qua lần vải lụa lung linh một màu hồng trên những hòn đá cuội trắng muốt hiện ra dưới đáy. “Ông thuyền trưởng ơi, ông từ đâu đến đấy?” - Axon khẽ hỏi một người trong tưởng tượng bằng giọng nghiêm trang, rồi cô bé tự đóng luôn vai thuyền trưởng trả lời: “Tôi đi từ... đi từ... Trung Hoa tới”. - ‘Thế ông chở cái gì thế?” - “Chở cái gì thì tôi chả nói đâu”. - “Chà, ông bướng thật, ông thuyền trưởng ạ! Thế thì tôi lại bỏ ông vào làn vậy”. Ngay khi anh chàng thuyền trưởng tưởng tượng kia vừa định ngoan ngoãn trả lời rằng mình chỉ nói đùa thôi và anh ta sắp sửa lấy ra cho xem một con voi thì bất ngờ dòng nước chảy ven bờ từ từ làm quay mũi thuyền ra phía giữa dòng, và con thuyền, у như thật, lao nhanh theo dòng suối. Cảnh tượng trước mắt cô bé đột nhiên thay đổi: con suối đối với cô bé bỗng trở thành một dòng sông rộng, chiếc thuyền nhỏ hiện ra như một chiếc tàu lớn đã ra khơi xa, còn cô bé chút nữa thì ngã xuống nước khi giơ tay ra lấy thuyền. “Chắc thuyền trưởng sợ lắm”, - cô bé thoáng nghĩ vậy và chạy theo chiếc thuyền con đang lao đi vun vυ't; cô hi vọng đến một chỗ nào đó, con thuyền sẽ mắc lại bên bờ. Cô bé vừa chạy vừa xách theo chiếc làn không nặng lắm nhưng cồng kềnh, miệng lẩm bẩm: “Trời ơi! Sao mình lại không may thế nhỉ!...”. Cô bé cố không rời mắt khỏi con thuyền buồm xinh xắn đang lướt nhẹ trên dòng suối, chốc chốc lại vấp ngã, đứng vội lên, rồi lại chạy theo.
Chưa bao giờ Axon vào sâu trong rừng đến thế. Cô bé bị thu hút tất cả vào ý muốn nôn nóng lấy lại được chiếc thuyền, không còn nhìn thấy gì khác nữa. Dọc bờ suối cô bé chạy là vô số những vật chướng ngại, lẽ ra phải để ý tới. Những thân cây đổ bám đầy rêu, những cái hố, những cây dương xỉ, cây tầm xuân, cây nhài, cây dẻ mọc sum suê làm vướng chân Axon. Dần dần cô bé thấm mệt, mỗi lúc lại phải dừng lại nhiều hơn để thở hay để gạt mạng nhện bám lên mặt. Đến một quãng rộng, lau sậy mọc đầy hai bên bờ thì Axon không còn nhìn thấy cánh buồm đỏ thắm nữa.
Nhưng qua một khúc quanh, cô bé lại nhìn thấy cánh buồm xinh xắn ấy đang vun vυ't lao đi. Có lúc cô bé thoáng nhìn ra chung quanh và cả khu rừng rậm rì với từng cột ánh sáng đổ dài qua tán lá xen lẫn những khoảng tối sẫm âm u làm cô vô cùng kinh ngạc. Một chút sợ hãi thoáng qua nhưng rồi nghĩ đến chiếc thuyền, cô bé lại nặng nề thở, ráng hết sức chạy tiếp.
Cuộc chạy đuổi vô vọng và lo âu ấy kéo dài gần một tiếng đồng hồ, cho đến khi cô ngạc nhiên và khoan khoái thấy phía trước mặt cây cối giãn ra, để lộ một vùng biển màu xanh biếc cùng với những áng mây và bờ cát vàng. Cô bé chạy tới đó, mệt rã rời gần như ngã khuỵu xuống. Nơi đây là cửa dòng suối, nước tỏa ra không rộng và nông, có thể nhìn thấy rõ những hòn đá màu xanh nằm dưới đáy. Tới đây con suối mất hút trong làn sóng biển tràn đến. Từ trên bờ cát thoai thoải nham nhở những rễ cây, Axon nhìn thấy bên suối, trên một tảng đá to bằng phẳng, có một người quay lưng lại phía cô, tay cầm chiếc thuyền nhỏ. Người đó ngắm nghía kỹ càng chiếc thuyền với vẻ tò mò như một con voi vừa bắt được con bướm. Cô bé hơi yên lòng một chút vì thấy chiếc thuyền vẫn còn nguyên vẹn. Cô men theo bờ cát đi gần lại phía người lạ mặt, cặp mắt chăm chú dò xét chờ người kia ngẩng đầu lên. Nhưng người lạ mặt say sưa ngắm vật bất ngờ gặp giữa rừng, đến mức cô bé có thể quan sát kỹ càng người ấy suốt từ đầu đến chân và nhận ra rằng từ bé đến giờ trong đời cô chưa từng gặp một ai giống như vậy cả.
Nhưng trước mắt cô bé không phải ai xa lạ, mà chính là ông già Egon, một người đi bộ khắp đó đây để sưu tầm những bài dân ca, những câu chuyện cổ tích, thần thoại. Những món tóc xoăn dài bạc trắng lộ ra ngoài chiếc mũ rơm, chiếc áo sơ mi màu xám bỏ vào trong quần màu xanh và đôi ủng cao cổ đem lại cho ông dáng dấp một người đi săn, chiếc cổ áo màu trắng, chiếc cravat, cái thắt lưng to bản có gắn miếng kim loại mạ bạc, chiếc gậy chống và cái xắc có khóa mạ kền - tất cả những thứ ấy cho thấy rõ ông già vốn là người thành thị. Vẻ mặt của ông - nếu có thể dùng từ “mặt” để chỉ cái mũi, đôi môi, cặp mắt lộ ra sau lớp râu sum suê và sau bộ ria rậm mọc vểnh lên - nom thật chất phác, nếu như không chú ý đến cặp mắt xam xám màu cát, ánh lên như thép thuần chất với cái nhìn khỏe khoắn, táo bạo.
- Bây giờ thì ông cho cháu xin lại nhé, - cô bé rụt rè cất tiếng nói. - Ông chơi một lúc lâu rồi đấy. Làm thế nào mà ông vớt được nó lên?
Ông già Egon ngẩng đầu, đánh rơi chiếc thuyền xuống đát. Giọng nói nhỏ nhẻ đầy xúc động của Axon vang đến tai ông quá bất ngờ. Ông già mỉm cười ngắm nhìn cô bé một lúc, từ từ khẽ tựa chiếc cằm đầy râu vào lòng bàn tay xương xương gân guốc của mình. Chiếc váy hoa bạc màu dài chưa quá đầu gối, để lộ đôi bàn chân nhỏ gầy sạm nắng. Mái tóc đen dày ẩn dưới chiếc khăn ren lòa xòa trên vai. Nét mặt cô bé trông thật thanh thoát và trong trắng như đường bay của chim én mùa xuân. Đôi mắt màu đen thoáng đượm một câu hỏi buồn buồn trông già dặn hơn khuôn mặt cô bé; gương mặt trái xoan mềm mại, hơi rám nắng, trông thật khỏe khoắn, đáng yêu.
Cái miệng nho nhỏ xinh xinh hé nở một nụ cười duyên dáng.
- Các ông Grim, Ezov, Andersen cũng phải thấy đây là một chuyện gì rất đặc biệt! - ông già nói, lúc thì nhìn cô bé, lúc thì nhìn chiếc thuyền nhỏ. - Này cô bé đáng yêu, hãy nghe ta nói nhé! Chiếc thuyền con này là của cháu ư?
- Thưa ông vâng ạ. Cháu chạy đuổi theo nó suốt dọc bờ suối, mệt muốn chết ông ạ. Thế nó mắc lại ở đây hở ông?
- Ở ngay bên chân ta đây. Đó là do đắm tàu, mà ta thì như tên cướp trên bờ, ta có thể trao cho cháu phần thưởng này. Sau khi các thủy thủ đã rời khỏi thuyền thì một con sóng cao chừng ba versoc đã hát nó lên bờ cát, khoảng giữa gót chân ta và chiếc gậy này. - Ông già cầm chiếc gậy đập đập xuống đất. - Thế cháu tên là gì, cô bé dễ thương?
- Cháu tên là Axon. - Cô bé trả lời, tay cầm chiếc thuyền nhỏ mà ông già vừa đưa trả, bỏ vào làn.
- Được rồi. - Ông già tiếp tục nói bằng một giọng khó hiểu, mắt vẫn chăm chăm nhìn cô bé, cái nhìn ẩn một nụ cười trìu mến. - Kể ra thì ta cũng chẳng cần hỏi tên cháu làm gì. Hay lắm, tên cháu nghe là lạ, ngắn ngủi và có nhạc điệu như tiếng mũi tên vυ't đi hay tiếng ngân vang của chiếc vỏ ốc biển. Ta sẽ biết làm gì, nếu cháu có một cái tên nghe thì êm tai, nhưng lại quá nhàm và rất xa lạ đối với điều Bí ẩn Đẹp đẽ? Hơn nữa ta cũng không muốn biết cháu là ai, bố mẹ cháu làm gì, cháu sống thế nào. Biết đâu cái ấn tượng tuyệt vời ban đầu này lại chẳng bớt trọn vẹn nếu ta hỏi thêm những điều ấy? Ta ngồi bên tảng đá này và đang so sánh cốt truyện cổ tích Nhật Bản và Phần Lan... thì bất ngờ dòng suối đem tới đây con thuyền này và rồi cháu xuất hiện... như thế này đây. Cô bé đáng yêu ạ, ta là một nhà thơ từ trong tâm hồn, mặc dù ta chưa bao giờ làm thơ cả. Làn của cháu đựng những gì vậy?
- Trong làn cháu để mấy chiếc thuyền, - Axon trả lời, tay lúc lắc chiếc làn, - với một chiếc tàu thủy và mấy cái nhà nhỏ có cắm cờ. Đấy là nhà ở của quân lính đấy.
- Được lắm. Thế là cháu được sai đem những thứ này đi bán. Dọc đường cháu lại ham chơi. Cháu thả chiếc thuyền này xuống nước cho nó bơi, thế rồi nó trôi đi mất. Phải thế không?
- Ông trông thấy cháu làm thế à? - Axon ngập ngừng hỏi, giọng nghi ngờ, cô bé cố nhớ lại xem mình đã kể chuyện này ra chưa. - Ai kể với ông hay là ông tự đoán ra?
- Ta biết chuyện đó.
- Sao ông biết?
- Vì ta là một ông tiên.
Axon cảm thấy lúng túng. Cô bé cố hiểu những lời ông già nói, nhưng chỉ càng thấy sợ sệt hơn. Bãi biển hoang vắng, khoảng không lặng ngắt, câu chuyện kỳ lạ, vất vả vừa xảy ra với chiếc thuyền nhỏ, lời nói khó hiểu của ông già có đôi mắt sáng, bộ râu và mái tóc đầy vẻ trang nghiêm - tất cả càng đem lại cho Axon cái cảm giác hư hư thực thực. Bây giờ chỉ cần ông già nhăn mặt hay thét lên một tiếng là cô bé sẽ khóc òa, bỏ chạy, rồi ngã khuyu xuống vì sợ hãi. Nhưng ông già Egon nhận thấy đôi mắt cô bé mở to đầy vẻ hốt hoảng, đã vội vàng đổi giọng.
- Cháu không việc gì phải sợ ta cả. - ông già khoan thai nói. - Ta còn muốn nói chuyện tâm tình với cháu nữa đấy.
Đến lúc đó ông mới nhận ra cái gì trên gương mặt cô bé đã gây cho ông ấn tượng sâu sắc như vậy. “Chính là vẻ đợi chờ rất tự nhiên một cái gì đẹp đẽ tốt lành, một số phận thật may mắn, - ông già nghĩ vậy. - Chà, tiếc quá, sao mình không phải là nhà văn? Đây thật là một đề tài tuyệt diệu!”.
- Này, cô bé, - ông già vừa nghĩ tiếp cho câu chuyện thêm hoàn chỉnh (cái thiên hướng dựng những chuyện hoang đường - hậu quả của công việc hằng ngày - lúc này đã lấn át mối lo ngại gieo những hạt giống của một niềm mơ ước lớn trên một mảnh đất còn hoang sơ) - cháu hãy lắng nghe ta nói nhé. Ta đã đến làng mà cháu vừa đi ra, tức là làng Caperna. Ta rất thích các chuyện cổ tích, các bài dân ca. Ta đã ngồi ở làng Caperna suốt một ngày để cố nghe được những cái chưa ai được nghe thấy. Nhưng dân làng cháu không kể chuyện cổ tích, cũng không hát dân ca. Và nếu có kể chuyện và hát, thì cháu biết không, toàn về những anh chàng nông dân và những chú lính láu cá, ranh vặt, luôn huênh hoang về những trò bịp bợm, toàn là những bài vè bốn câu ngắn ngủn với nhạc điệu rất xấu, nghe bẩn thỉu như bàn chân chưa rửa, thô thiển như tiếng ọc ạch sôi bụng... Ồ, ta nói hơi lạc đề rồi. Ta kể lại từ đầu.
Nghĩ ngợi một lát, ông già nói tiếp:
- Ta không biết còn bao nhiêu năm nữa, chỉ biết rằng ở làng Caperna thế nào cũng có một câu chuyện thần thoại mà người mai sau sẽ còn nhớ mãi. Cháu rồi sẽ lớn lên, Axon ạ. Có lần vào buổi sớm mai, từ phía biển khơi xa tít tắp sẽ hiện ra một cánh buồm đỏ thắm rực rỡ dưới ánh mặt trời. Con tàu màu trắng với những cánh buồm đỏ thắm ấy sẽ rẽ sóng lướt đi thẳng tới chỗ cháu. Con tàu kỳ diệu ấy sẽ nhẹ nhàng trôi tới, không có tiếng súng nổ, không có tiếng hò la; trên bờ mọi người tụ tập đông đúc trầm trồ kinh ngạc, và cháu cũng sẽ đứng ở đấy. Con tàu uy nghiêm tiến gần lại bờ trong tiếng nhạc du dương, đằm thắm, rồi từ con tàu đó, một chiếc thuyền nhỏ tách ra bơi nhanh vào bờ, trên thuyền trải thảm, rực rỡ ánh vàng và màu hoa. “Các ông tới đây làm gì? Các ông tìm ai vậy?” - Mọi người trên bờ cất tiếng hỏi. Đến lúc đó cháu sẽ nhìn thấy một vị hoàng tử tuấn tú khỏe mạnh, khôi ngô đứng trên thuyền, hai tay đưa về phía cháu.
“Chào em, Axon! - Chàng trai tuấn tú cát tiếng nói. - Từ một nơi rất xa, rất xa, anh nhìn thấy em trong mơ và anh đã đến đây để đem em đi mãi mãi về xứ sở của anh. Em sẽ sống với anh nơi ấy, trong một thung lũng đầy hoa hồng. Em sẽ có tất cả những gì em mơ ước: Chúng ta sẽ sống thuận hòa, vui vẻ với nhau và tâm hồn em sẽ không bao giờ biết đến buồn và nước mắt”. Chàng trai ấy sẽ đặt cháu lên thuyền, đưa cháu lên tàu và cháu sẽ mãi mãi đi về xứ sở nơi mặt trời thức dậy và những vì sao trên trời sa xuống để chào mừng cháu đến.
- Tất cả chuyện ông kể là về cháu đấy ư? - Cô bé khẽ khàng hỏi.
Cặp mắt đầy vẻ nghiêm trang của cô bé ánh lên một niềm vui tin cậy: nếu ông ấy là một người có phép lạ độc ác thì chắc là ông đã không kể như vậy. Cô bé bước lại gần hơn:
- Có lẽ chiếc tàu ấy đã... đến rồi hả ông?
- Không nhanh thế đâu, - ông già Egon trả lời. - Trước tiên là cháu phải lớn lên đã chứ, rồi sau đó mới... biết nói thế nào nhỉ? Con tàu ấy thế nào cũng đến, cháu ạ, nhất định như thế. Đến lúc ấy thì cháu sẽ làm gì nhỉ?
- Cháu ấy à? - Cô bé nhìn vào trong chiếc làn, nhưng có lẽ cô bé đã không thấy một vật gì có thể làm vật đền bù xứng đáng. - Cháu sẽ yêu hoàng tử, - cô bé trả lời vội vàng và ngập ngừng nói tiếp - nếu hoàng tử không đánh nhau.
- Không, chàng không hay đánh nhau đâu, - ông già có phép lạ nói, mắt nháp nháy đầy bí ẩn. - Chàng không thế đâu, ta có thể bảo đảm với cháu điều này. Thôi, cháu đi đi nhé, và đừng quên những lời ta kể cho cháu nghe giữa hai ngụm rượu thơm và những phút suy tưởng về bài ca của những người tù khổ sai. Cháu đi đi nhé. Ta cầu mong cho mái tóc mây của cháu được yên vui, thanh bình!
Longren đang xới đất quanh cây khoai tây trong khu vườn nhỏ của mình. Ngẩng đầu lên, anh thấy Axon đang chạy như bay về phía anh, gương mặt rạng rỡ niềm vui, xao xuyến.
- Này, bố ạ... - cô bé nói, hơi thở còn dồn dập, hai tay níu lấy chiếc tạp dề của Longren. - Bố này, bố nghe con kể nhé... Ở ngoài bờ biển ấy cách xa đây lắm, có một ông tiên đang ngồi đấy bố ạ...
Cô bé kể lại bắt đầu từ đoạn ông già kỳ lạ và lời tiên đoán của ông. Quá xúc động với chuyện vừa gặp, Axon không thể kể lại một cách rành rẽ, đâu ra đấy. Tiếp đó, cô bé tả lại dáng vẻ bề ngoài của ông già rồi cuối cùng mới kể tới đoạn cô chạy theo chiếc thuyền nhỏ trên dòng suối như thế nào.
Longren chăm chú nghe con kể, không ngắt lời con, không mỉm cười và khi cô ngừng kể, anh tưởng tượng ra một ông già xa lạ một tay cầm chai rượu thơm, một tay cầm chiếc thuyền nhỏ. Anh đã định quay đi nhưng chợt nhớ rằng trong những giây phút lớn lao của cuộc đời con trẻ, đôi khi con người cần phải tỏ ra nghiêm trang và ngạc nhiên, anh bèn gật gù nói với vẻ trang trọng: “Đúng rồi, đúng rồi, theo con kể thì đấy đúng là một ông tiên. Bố muốn được gặp ông ấy lắm... Này nhưng mà khi có việc phải đi lên phố, con chớ rẽ ngang nữa nhé, trong rừng dễ lạc lắm con ạ.
Bỏ cuốc ra, Longren ngồi xuống bên bờ rào làm bằng cành khô, bế con gái lên đùi. Dù đã rất mệt, cô bé vẫn cố kể thêm vài chi tiết nữa, nhưng chỉ một lát sau cô đã cảm thấy buồn ngủ, phần vì nóng bức, vì xúc động, phần vì mệt. Mắt cô díu lại, đầu ngả vào bờ vai chắc nịch của bố. Cô đã thả hồn vào cõi mộng ảo thì bỗng bị một nỗi hoài nghi làm tỉnh giấc, cô liền ngồi thẳng dậy, mắt vẫn nhắm, nắm tay tựa vào áo gỉle của bố rồi cao giọng hỏi:
- Bố ơi, thế có thật là chiếc tàu kỳ lạ sẽ đến đón con không?
- Sẽ đến con ạ! - Người thủy thủ bình thản trả lời. - Nếu ông già ấy đã nói với con như vậy, có nghĩa là mọi điều sẽ diễn ra đúng như thế.
“Khi nào con lớn, con sẽ quên thôi, - Longren thầm nghĩ, - còn bây giờ... bây giờ thì không nên tước bỏ của con một thứ đồ chơi đẹp đẽ như vậy. Sau này con sẽ nhìn thấy không phải là cánh buồm đỏ thắm mà là những cánh buồm bẩn thỉu, độc địa, trông từ xa thì có vẻ đẹp đẽ, trắng trẻo, đến gần thì rách nát, xấu xa. Một người qua đường nào đó đã đùa với con tôi. Có sao đâu! Cũng là một chuyện đùa vui thôi! Không sao cả! Nửa ngày trời vất vả trong rừng rồi con ạ. Còn về chuyện cánh buồm đỏ thắm thì con hãy cứ nghĩ như bố: rồi con sẽ có những cánh buồm đỏ thắm”.
Axon đã ngủ. Longren lấy tẩu thuốc ra hút. Gió đưa khói thuốc bay qua bờ giậu về phía bụi cây mọc bên ngoài vườn. Cạnh bụi cây, ngồi quay lưng lại phía bờ rào là một người ăn mày trẻ tuổi. Câu chuyện giữa hai bố con đã làm anh ta thấy thú vị. Mùi thuốc lá thơm làm anh ta khấp khởi mừng thầm.
- Ông chủ ơi, cho kẻ nghèo hèn này hút với. - Anh ta nói với qua mấy cành lá. - Thuốc lá của tôi mà so với thuốc của ông thì chỉ là cỏ thôi.
- Tôi sẵn sàng cho anh, - Longren nói nhỏ - nhưng thuốc tôi lại để ở túi bên kia. Mà tôi thì, anh thấy đấy không muốn làm mất giấc ngủ của con bé.
- Ồ, có gì là khó khăn đâu! Nó tỉnh dậy rồi nó lại ngủ, còn người qua đường này thì được thuốc.
- Không được đâu, - Longren nói, - dù sao anh cũng đã có thuốc hút, còn đứa nhỏ thì rất mệt. Nếu anh muốn, chốc nữa quay lại.
Người ăn mày khinh bỉ nhổ toẹt một bãi nước bọt, ngoắc chiếc bị lên cây gậy rồi châm chọc nói:
- À ra đó là công chúa kia đấy. Ông đã nhồi vào đầu nó đủ thứ tàu lạ! Thật là ngớ ngẩn, dở hơi, thế mà cũng gọi là ông chủ!
- Này, nghe đây, - Longren nói nhỏ, - tao có thể đánh thức nó dậy đấy, nhưng chỉ cốt để sửa cho mày một trận thôi. Xéo ngay!
Nửa giờ sau, người ăn mày đã ngồi trong quán rượu bên cạnh khoảng chục người đánh cá. Đằng sau họ là mấy người đàn bà cao lớn, lông mày rậm, tay to và thô. Mấy người này khi thì kéo tay áo chồng, khi thì với tay qua vai họ để lấy rượu uống. Người ăn mày bực mình kể lại:
- Hắn không cho tôi thuốc lá. Hắn nói với con gái: “Khi con đến tuổi trưởng thành, lúc đó sẽ có một con tàu đặc biệt, buồm đỏ... đến đón con. Vì số phận của con là sẽ được lấy hoàng tử. Con hãy tin lời ông già ấy”. Còn tôi thì nói với hắn: thức nó dậy đi, thức dậy đi và lấy cho tôi xin ít thuốc. Thế mà hắn lại đuổi đánh tôi.
- Ai? Sao cơ? Chuyện gì vậy? - Mấy người đàn bà tò mò nhao lên.
Đám đàn ông hơi ngoái đầu lại, nhếch mép cười khẩy giải thích:
- Hai bố con Longren có lẽ điên dại rồi; anh này kể rằng có phù thủy đến gặp họ, hiểu chưa? Hai bố con họ đang chờ một chàng hoàng tử từ phương xa đến đấy - các bà chớ bỏ lỡ cơ hội tốt! Chàng hoàng tử lại còn đến trên chiếc tàu buồm đỏ thắm nữa chứ!
Ba ngày sau, lúc từ trên phố trở về, Axon lần đầu tiên nghe thấy:
- Con ôn kia, Axon! Nhìn đây! Tàu buồm đỏ thắm đang đến kìa!
Cô bé giật mình quay lại, bất giác đưa tay che trán nhìn ra biển. Sau đó em ngoái nhìn về phía người gọi: cách em chừng hai chục bước là một đám trẻ đang nhăn mặt, thè lưỡi ra giễu em, Axon thở dài rồi bỏ chạy về nhà.